BÁt nhã ba la mật kinh trực chỉ ĐỀ CƯƠng giáO Án trưỜng cao cấp phật họC


V. ĐẠO PHẬT LÀ VÔ THẦN VỚI NHẬN THỨC BÁT NHÃ BA LA MẬT



tải về 409.52 Kb.
trang17/17
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích409.52 Kb.
#29910
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

V. ĐẠO PHẬT LÀ VÔ THẦN VỚI NHẬN THỨC BÁT NHÃ BA LA MẬT


Vì rằng vũ trụ quan của Phật giáo là TỨ ĐẠI DUYÊN SINH, Y THA KHỞ TÁNH. Vì rằng nhân sinh quan của Phật giáo là NGŨ UẨN HỢP THÀNH
Con người tự định đoạt số phận của mình qua giáo lý NHÂN QUẢ LUÂN HỒI, trong kinh điển Phật

…..”Kim sanh tiệm tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân”…

Qua cái nhìn Bát Nhã Ba La Mật: Quả VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC không phải địa vị dành riêng cho một Như Lai, hà huống có địa vị của một đấng “Thần linh” nào xen vào việc nội bộ của con người Phật giáo.

Tất cả giai vị, thấp nhất là Tu đà hoàn…cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Phật, đều không được xem là quả vị CHỨNG ĐẮC. Không một ai có quyền ban phúc giáng họa cho ai.

- “Tu đà hoàn danh vị nhập lưu nhi vô sở nhập, bất nhập sắc thanh hương vị xúc pháp thị
danh Tu Đà Hòan’….

VI. ĐẠO PHẬT KHÔNG LÀ TÔN GIÁO


Vì Phật giáo không bao giờ chấp nhận quyền lực của bất cứ một “đấng Thần linh” nào.

Đệ tử Phật cũng không phải là loại: TÍN NGƯỠNG. Vì TÍN NGƯỠNG là thứ đức tin dành cho những người có tôn giáo. Tôn giáo và tín ngưỡng như bóng với hình.

Đức tin của những người Phật giáo không phải loại TÍN NGƯỠNG như người ta thường hiểu sai về nó. Đức tin của người Phật giáo phải được gạn lọc và tôi luyện sáu mặt vững chãi như sau:

1. TÍN TỰ


2. TÍN THA
3. TÍN NHÂN
4. TÍN QUẢ
5. TÍN SỰ
6. TÍN LÝ

Đủ sáu yếu tố đó, được gọi là người Phật tử có CHÁNH TÍN. Theo cái nhìn của người


Phật giáo có học Phật, cái từ TÍN NGƯỠNG đồng nghĩa với MÊ TÍN rồi.

Vậy Đạo Phật phải chăng là triết học?

Theo định nghĩa ở tự điển Đào Duy Anh: Triết học là thứ học vấn nghiên cứu về nguyên lý vũ trụ và nhân sinh.

Theo định nghĩa của triết học MÁC LENIN do Ban Tuyên huấn Trung ương, xuất bản ở Hà Nội: TRiết học là hệ thống những quan điểm và quan niệm chung của con người về thế giới là thế giới quan của một giai cấp hay một lực lượng xã hội nhất định.

Qua hai định nghĩa trên, ta thấy về cơ bản có giống nhau ở điểm: cùng nghiên cứu vũ trụ nhân sinh, để hệ thống những quan điểm và quan niệm chung của con người và vũ trụ.

Nhưng định nghĩa của Triết học Mác Lenin thì rõ ràng và cụ thể hơn nhiều. Ngay trong định nghĩa đã hé mở cánh cửa cho thấy: Rằng một triết học phải chú trọng đối tượng và mục tiệu của nó. Vì bất cứ một triết học nào cũng đều có đối tượng của triết học đó. Nó phục vụ cho một cái gì, cho một giai cấp nào, cho một lực lượng xã hội nào.

Phật giáo là triết học hay không là triết học phải giải quyết như thế này:

• Phật có đề cập vấn đề thế giới qua giáo lý TỨ ĐẠI DUYÊN SANH, nhưng Phật không là nhà triết học có thế giới quan như vậy.


• Phật có đề cập vấn đề NHÂN SINH, qua giáo lý NGŨ UẨN HỢP THÀNH, nhưng Phật không là nhà triết học NHÂN SINH QUAN như vậy.

Cho nên, Phật giáo là nền giáo lý Phật, là lời dạy của Đức Phật.

Đối tượng của đức Phật nghiên cứu và hệ thống là: nỗi thống khổ và nguồn gốc về nỗi thống khổ của con người.

Đức Phật không cho mình là nhà triết học, cũng như không muốn cho các đệ tử gọi Phật là nhà triết học thông thái vấn đề vũ trụ nhân sinh.

Kinh tạng A hàm có chép:
Ngày xưa, lúc còn tại thế, có lần các đệ tử tò mò hỏi Phật về vấn đề thế giới nhân sinh,tức là những thắc mắc về nguồn gốc vũ trụ và con người. Không giải đáp vấn đề, mà Đức Phật nói kinh Tiển dụ: lấy ví dụ một người phải tên độc, Phật nói: Một thày thuốc giỏi, trước cảnh người bị phải tên độc sắp lâm nguy, là hành động. Hãy mau nhổ mũi tên độc
ra và tra cho nạn nhân thứ thuốc cực kỳ công hiệu để chận đứng khổ đau cho con bệnh. Chưa cần thiết điều tra chủng loại của me tên, cây tên, dây cung, gỗ làm cung và người bắn thuộc chủng tộc nào….

Phật nói các đệ tử: Các ông là nhũng người bị phải tên độc. Công việc của Như Lai là công việc của y sư. Các ông nên siêng năng tu học để trị lành vết thương mà các ông đang đau khổ. Sau đó các ông sẽ được an vui. Vấn đề thế giới hữu biên, vô biên v.v..Như


Lai chưa cần thiết phải nói với các ông về việc đó.

Bởi lẽ đó, kinh điển Phật thường gọi Phật là: VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG mà không là NHÀ TRIẾT HỌC.

Đức Phật không là nhà triết học thì giáo lý của đạo Phật hẳn không là triết học rồi. Nhìn qua lăng kính Bát Nhã Ba La Mật, ta thấy rõ thêm điều đó:
…”Tu Bồ Đề! Ông đừng cho rằng Như Lai có thuyết pháp. Nếu nói Như Lai có thuyết pháp là phỉ báng Như Lai: Thuyết pháp giả vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp. Thị cố Như lai thường thuyết: Nhữ đẳng Tỳ Kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả…Pháp thượng ưng xã hà huống phi pháp”.

Trên đây là những tri kiến của người nhìn giáo lý Phật, qua lăng kính Bát Nhã Ba La Mật. Với tầm hiểu biết hạn hẹp của mình, tôi nêu ra đây, hy vọng được xem là những gợi ý. Là những điều gợi ý thôi, để các đồng chí có trách nhiệm ở Viện Triết Học Trung Ương nghiên cứu các triết học, trong đó có thứ triết học mà không triết học của Phật giáo.

Thích Từ Thông

TÂN XUÂN TỰ CẢM Thái tuế đáo xuân kỳ


Tâm như thiếu tiểu kỳ
Bất tăng hề bất giảm Như nguyệt lãng thanh thiên Thân như toàn hỏa chuyển Tranh tơ bộc bố lưu
Thác bạch diện sô hồn bất cố
Ngao du tự tại nhận thi vi.

Dịch nghĩa

NĂM MỚI TỰ CẢM

Sáu mươi lẻ một xuân tròn Lòng sao như trẻ thuở còn ngây thơ Thênh thang từ bấy đến giờ


Như vầng trăng bạc pha màu trời xanh
Thân như vầng lửa quay nhanh Tựa hồ nước thác dệt thành vải trôi Mặc cho tóc bạc da mồi
Ở đi theo ý làm thôi bởi mình

Xuân Mậu Thìn – 1988


Thích Từ Thông

QUẢ VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC CỦA NHƯ LAI CHỈ LÀ KẾT QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH CẢI TẠO, XÂY DỰNG VÀ SỐNG ĐÚNG, SỐNG HỢP VỚI CHÂN LÝ



I. ĐỨC PHẬT LÀ MỘT CON NGƯỜI NHƯ BAO CON NGƯỜI CÓ MẶT TRÊN QUẢ ĐẤT NẦY:

Tất cả đệ tử Phật đều biết. Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta vốn là một con người, một con người như bao nhiêu con người khác, đã sanh ra và lớn lên trên mặt đất này cách đây 25 thế kỷ. Bằng lối nói kinh viện bóng bẩy, văn hoa, người ta nói Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là con người có thật, mà lịch sử đã ghi chép trong kho tàng lịch sử của nhân loại: Rằng Đức Phật có mẹ cha, có vợ con, có quá trình xuất gia hành đạo và cuối cùng giác ngộ chân lý (đắc đạo) dưới cội Bồ đề. Từ đó người ta bảo là Ngài thành Phật, được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Đó là chặng đường phân nửa trước, một vị Thái tử tên là Tất Đạt Đa con vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da, đã cải tạo và xây dựng (Tu = cải tạo. Hành = xây dựng) bản thân mình từ một con người thường, một người bất giác như bao người bất giác khác, trở thành một “Vị Phật”, một GIÁC GIẢ cho chính bản thân mình. Thế là Như Lai đã vượt qua một khúc quanh vô cùng quan trọng trong cuộc “cải tạo” và “xây dựng” bản thân. Ngài đã được “VIÊN THÀNH TỰ GIÁC”. Đoạn đường còn lại, đức Phật nêu ra phương hướng nhiệm vụ mới, là cải tạo và xây dựng môi trường sống, xây dựng xã hội con người. Đức Phật bắt đầu phát động tuyên truyền dấy lên phong trào khuyến thiện: Tôi đã tu, các ông nên tu, tất cả mọi người hãy cùng tu. Tôi đã giải thoát giác ngộ, tất cả mọi người hãy học tu để được giải thoát giác ngộ. “Đây là khổ…đây là tập…đây là diệt…đây là
đạo…”Người ta gọi Đức Phật bấy giờ làm cái việc “THUYẾT PHÁP ĐỘ SANH”. Suốt 49 năm (hay 45 năm) rày đây mai đó, có lúc gặp thuận cảnh, cũng có lúc gặp nghịch duyên. Bọn ngoại đạo Bà La Môn v.v…run sợ trước ánh sáng vằng vặc chói lòa chân lý của Đức Phật, rồi đây nền giáo lý đó sẽ soi thủng những tấm màn thâm đen dầy đặc vô minh rặc mùi mê tín dị đoan, mà chúng đang mê hoặc đầu độc mọi người. Tự thấy mình đang đứng trên bờ hố thẳm diệt vong, chúng ra sức phản tuyên truyền chống đối, và có nhiều lần ra tay hảm hại Phật. Nhưng tất cả âm mưu của chúng không thành. Với ý chí vị tha vô hạn kiên cường, bất khuất, đức Phật đã thành công, hàng Thanh văn, Duyên giác tiếp thu lời giáo huấn của Ngài và từ đó, đệ tử Phật chứng quả Bồ đề, Niết bàn hàng loạt. Đến đây, đức Phật hoàn thành nhiệm vụ “giác tha”.

Cuối cùng, Ngài thị tịch an nhiên nơi rừng Ta La Song Thọ….kinh điển gọi là Phật Bát Niết Bàn.



ÌI. QUẢ VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC LÀ MỘT SỰ THỂ HIỆN CÁCH SỐNG ĐÚNG VỚI CHÂN LÝ CỦA
VŨ TRỤ VẠN HỮU KHÁCH QUAN:

Đề cập đến chân lý, nhiều khi người ta tưởng cái gì cao xa sâu thẳm…và huyền bí lắm. Sự


thật thì không quá cao xa..như ai đó tưởng..Người ta có thể trả lời câu hỏi:

CHƠN LÝ LÀ GÌ?

CHÂN là thật, LÝ là lẽ. Chân lý là cái lý lẽ có thật của vạn tượng vạn hữu của của cuộc
đời này…Ví dụ:

Sanh, lão, bệnh, tử của kiếp con người, nó thành một cái lẽ thật không có một thế lực nào hoán cải cho khác hơn được. Đó là một chân lý.

Thành, trụ, hoại, không của vũ trụ vạn hữu, không ai có thể làm cho nó đổi khác hơn được. Đó cũng là một chân lý.

Vì tất cả những điều đó là “lẽ thật”, nói một cách khác: đó là “quy luật” tất nhiên của hiện tượng vạn pháp.

Như Lai Thế Tôn chỉ là một con người có trí tuệ nhận thức tột cùng chân lý ấy và sống hợp, sống đúng với chân lý, với quy luật của hiện tượng vạn pháp ấy mà thôi.
Để xác định rõ vấn đề, ta hãy đọc những lời dạy của Đức Phật dạy cho ông Tu Bồ Đề. “Bạch Thế Tôn! Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Phật Như Lai không có được gì ư?” Ông Tu Bồ Đề thưa.

Phật bảo: “Đúng vậy, đúng vậy! Tu Bồ Đề, quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Như Lai thật chẳng có được một tí ti gì, gọi là VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, VẬY THÔI”.

“Tu Bồ Đề! tại vì Như Lai có cái nhận thức bình đẳng đối với hiện tượng vạn pháp. Như Lai không đánh giá vạn pháp quá thấp, cũng không đánh giá vạn pháp quá cao. Nhận thức hiện tượng vạn pháp Như Lai không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh và tướng thọ yểu giả. Như Lai hằng sống trong thiện pháp nên gọi là Như Lai “TU NHẤT THIẾT THIỆN PHÁP VÀ NHƯ LAI ĐƯỢC VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, VẬY THÔI”.

“Tu Bồ Đề! Nói là “Thiện pháp” kỳ thật chẳng có “thiện pháp” gì mà gọi là “thiện pháp”, vậy thôi”.

Qua ý tứ, đoạn Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật đó, người đệ tử Phật thấy rằng: hiện tượng vạn pháp vốn tồn tại khách quan. Đánh giá thấp hay cao đều là biểu hiện của nhận thức mê lầm, không nhận chân được thực tướng của sự vật hiện tượng . Xóa đi cái quan niệm chấp chặt, đánh giá hiện tượng vạn pháp qua Ngã, Nhân, Chúng sanh và Thọ yểu giả thì quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tự có, mà không do ai ban cho, cũng không từ đâu đem đến cho bất cứ một Đức Phật nào. Làm được vậy, gọi là Như Lai “Tu tất cả thiện pháp”, kỳ thật Như Lai chẳng có tu “thiện pháp” gì. Như Lai không nghĩ sai, nói sai, làm sai chân lý nên gọi là “thiện pháp” vậy thôi.

Với hiện tượng vạn pháp, Như Lai xử dụng cách: NHƯ THỊ TRI, NHƯ THỊ KIẾN, NHƯ THỊ TÍN GIẢI, không sanh tướng phân biệt so bì của ý thức “biến kế chấp”. Người phàm phu cho là Như Lai chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, kỳ thật Như Lai chẳng đắc một tí ti nào.



ÌÌI. QUẢ VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC PHẬT CHỈ LÀ KẾT QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH CẢI TẠO, XÂY DỰNG…..

Đã là con người thì ai cũng có cái tốt và cái xấu. Người ta đánh giá tốt hay xấu của con người, phần lớn tùy phong tục tập quán và luật pháp của một xã hội. Tuy nhiên cái tiêu chuẩn cơ bản của vấn đề tốt xấu, tội phước thiện ác là: Ai làm những điều ích nước lợi nhà, đem lại những điều an vui hạnh phúc cho nhân quần xã hội, cho cả loài người thì người ta gọi đó là hành vi “thiện”, là con người tốt. Nếu ai đạt đến tột đỉnh của đặc tánh tốt của hành vi “thiện” thì người ta gọi đó là bậc thánh nhân, hay là một vị Phật, một bậc chứng quả VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC. Trái lại, là hạng người bất thiện, do có nhiều tham vọng thấp hèn. Hâu quả tất nhiên là họ trở thành hạng người mà người trí xa lánh, xã hội rẽ khinh và luật pháp nghiêm trị. Vì thế người ta có thể xác định: Tốt xấu do người, tội phước do người, thiện ác do người, phàm thánh do người, chúng sanh hay Phật cũng do con người quyết định.

Với nền giáo lý Phật: Phàm phu, Thanh văn, Duyên gác, Bồ tát, Phật, tất cả là con người. Vui khổ khác nhau, là do mê ngộ khác nhau, giải thoát giác ngộ khác nhau là tùy thuộc ở vô minh phiền não trừ diệt được nhiều hay ít.

Qua kinh điển Phật, ta có thể tìm thấy rõ những tác động của tâm sở hữu pháp sau đây, khiến cho con người mê mờ chân lý và tự ràng buộc, tự làm đau khổ lấy mình. Nhóm thứ nhất có tên là CĂN BẢN PHIỀN NÃO hay cũng gọi là Thập sử. Vì nó thường sai sử chúng sanh làm cho chúng sanh luôn luôn triền miên trong đau khổ:

1. Tham.
2. Sân.
3. Si.
4. Mạn
5. Nghi.
6. Thân kiến
7. Biên kiến.
8. Tà kiến.
9. Kiến thủ.
10. Giới cấm thủ

Nhóm thứ hai có tên là CHI MẠC PHIỀN NÃO hay cũng gọi là TÙY PHIỀN NÃO, vì chúng tùy thuộc CĂN BẢN PHIỀN NÃO mà sanh khởi. Những phiền não chi mạc này gồm có hai mươi món:

1. Phẩn. 2. Hận. 3. Phú. 4. Não. 5. Tật. 6. Xan. 7. Cuống. 8. Xiểm. 9. Hại. 10. Kiêu. 11. Vô tàm. 12. Vô quý. 13. Trạo cử. 14. Hôn trầm. 15. Bất tín. 16. Giải đãi. 17. Phóng dật.
18. Thất niệm. 19. Tán loạn. 20. Bất chánh tri.

Đó là những điều mà mọi người đệ tử Phật cần phải “cải tạo” chuyển hóa chúng từ số lượng đến chất lượng, với một mức độ nào đó và dựa trên chất lượng được cải tạo chuyển hóa mà ước định quả vị với một danh ngôn tương đối có mức độ như: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm….. Đến khi nào thành Phật là quả vị cải tạo hoàn toàn, chuyển hóa sạch hết chất phiền não vô minh thì người ta gọi đó là quả VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC.

Song song với quá trình cải tạo chuyển hóa vô minh, người hành giả đệ tử Phật còn xây dựng cho mình ý thức thường ở trong trạng thái chân chính. Đó là:

1. Chánh kiến


2. Chánh tư duy
3. Chánh ngữ
4. Chánh nghiệp
5. Chánh mệnh
6. Chánh tinh tấn
7. Chánh niệm
8. Chánh định

Gọi chúng là 8 con đường chính mà thuật ngữ Phật gọi là Bát Chánh Đạo, là chất liệu tinh túy để xây dựng cho con người trở nên Thánh thiện. Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ cũng là những chất liệu kiên cố và quyết định để cho con người xây dựng nên quả VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC.



III. NHỮNG NHẬN THỨC SAI LẦM CỦA MỘT SỐ NGƯỜI ĐỆ
TỬ PHẬT TRÊN BƯỚC
ĐƯỜNG TÌM ĐẾN QUẢ VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC

Trong toàn bộ kinh điển Phật, đạo lý nhân quả và vấn đề TRI HÀNH được xem là vấn đề then chốt. Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát được tiêu biểu cho TRI. Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát tiêu biểu cho HÀNH. TRI mà không HÀNH ví như có mắt mà cụt chân. HÀNH mà thiếu TRI ví như đôi chân đi khẻo mà mù đôi mắt. Chỉ có khi nào TRI HÀNH hợp nhất mới đem lại kết quả mong muốn cho người con Phật. Khi kiểm điểm lại những ngày tháng trôi qua, sự TRI HÀNH của mình còn rời rạc, Huyền Giác thiền sư than thở viết:

“Ngô tảo niên lai tích học vấn

Diệc tằng thảo sở tầm kinh luận

Phân biệt danh tương bất tri hữu

Khước bị Như Lai khổ hà trách

Sổ tha trân bảo hữu hà ích
Nhập hải toán sa đồ tự bì

Tùng lai tắng đắng giác hư hành

Đa niên uổng tác phong trần tác

TRI HÀNH chưa hợp nhất, kết quả còn thăm thẳm xa xôi. TRI sai, HÀNH quấy hướng dẫn nhiều người cùng làm như vậy thì thiệt thòi cho những người đệ tử Phật từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.

Là những người xuất gia, trưởng tử Phật có trách nhiệm hướng dẫn tinh thần cho Phật tử, truyền bá chánh pháp của Như Lai, chúng ta không thể lơ là, hời hợt để mặc tình cho tà giáo ngoại đạo lung lạc chánh pháp của Như Lai, bôi nhọ giáo lý, xuyên tạc kinh điển bằng những hình thức quá lỗi thời, những nghi lễ nặc mùi vụ lợi để cho người đệ tử Phật thực thà, chất phác, tiền mất tật mang, để cho đạo Phật, người đệ tử Phật, mang tiếng là hạng người mê tín dị đoan, là hạng ký sinh trùng trong xã hội.

Muốn được quả giải thoát giác ngộ phải tu nhân giải thoát giác ngộ. Phủ nhận lý nhân quả, không còn là một đệ tử Phật. Chúng ta phải cần nói thẳng với Phật tử chúng ta rằng:

• Muốn có giải thoát giác ngộ, không thể có mâm cao, lễ đầy hiến dâng cho Phật
• Muốn có giải thoát giác ngộ, không thể có ở sự rải nước và chú nguyện ở các Thày
• Muốn có giải thoát giác ngộ, không thể có ở những buổi trai tăng lắm tiền nhiều phẩm vật.
• Muốn có giải thoát giác ngộ, không thể có ở những hành động đua tranh tạo tượng Phật lớn, xây chùa to.

Theo giáo lý Phật, tất cả mọi người, không phân biệt giai cấp, không luận giàu nghèo đều có thể đạt đến giải thoát giác ngộ thành tựu VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC bằng khả năng nghị lực của chính mình. Con người có khả năng hành động cải tạo những tư tưởng hành động có tánh hắc ám vô minh….Có khả năng xây dựng cho mình một nhận thức trong sáng. Đề cao cảnh giác với bọn giặc cướp: thập sử, thập triền. Thân cận những bạn hữu thuần lương: Tứ nhiếp, lục độ, thất bồ đề phần….và thẳng nẻo mà đi trên con đường BÁT CHÁNH ….Làm được vậy thì sự giác ngộ giải thoát là của chung của nhân loại, ai cũng có quyền xây dựng nên và tự thừa hưởng lấy. Quả VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC không phải là cái để dành riêng cho một Đức Phật hay đấng Như Lai Thế Tôn nào.



Hết

tải về 409.52 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương