Bán nguyệt san – Số 271 – Chúa nhật 27. 03. 2016



tải về 0.6 Mb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích0.6 Mb.
#12838
1   2   3   4   5   6

TREO !!!



 

Đương nhiên là lơ lửng rồi:  đầu chưa chạm trời và chân thì đã rời mặt đất ...

Đỉnh Sọ chiều hôm ấy là như vậy : ung dung , lặng lẽ , bình an – một thân người co quắp lơ lửng trong tư thế đầu chưa chạm trời và chân đã rời mặt đất : một thân người bị “  treo !!!” ...

Và bị “ treo !!!”  đó , nhưng vẫn phải gắn vào một thân gỗ hình chữ thập , nếu không thì sẽ bị rơi, bị tuột xuống ... Định luật vạn vật hấp dẫn mà ... Vốn là Đấng làm nên cái định luật này cho thụ tạo của mình , và , giờ đây , mang lấy thân phận con người , Ngài đành chấp nhận lệ thuộc định luật ấy ...

Vậy là “ bị treo” nhưng vẫn gắn vào một điểm tựa ...

Chúa  Nhật Lễ Lá năm C vừa rồi , cộng đoàn đáp lại Lời Chúa qua Thánh Vinh 21 được tay viết nhạc Cao Huy Hoàng chấm dấu có cái vần “ Ơ ”  thật  duyên  :



Lạy Chúa , sao đành im lặng , sao cứ hững hờ , cứ để con chết giữa khung trời bơ vơ...

Cần cái vần “ Ơ ”  ... cho hai chữ “ hững hờ ” , tác giả rơi ngay vào hai chữ “ bơ vơ ” vô cùng diễn tả ...

Không phải là  “ chơi vơi ” vì , dù sao , chơi vơi cũng “ vật thể ”  quá , và , đã là vật thể thì nó giới hạn thôi , nó chỉ gợi nên hình ảnh của những bàn chân đạp loạn xà ngầu trong không khí...Nhưng “ chơ vơ”  ... thì khác  : nó diễn tả sự “ ngơ ngác ” với câu hỏi xoáy lòng ... Câu hỏi “tại sao ?” : tại sao im lặng ? mà lại là sự im lặng từ Cha – Đấng Toàn Năng , Đấng Tạo Thành? Từ cái tâm trạng xoáy lòng ấy , từ cái ngơ ngác tội nghiệp của Con Chúa Trời  ấy ...  mới cảm nhận được cách “ tỏ tình” có một không hai của Thiên Chúa Tạo Thành với thụ tạo con người mà Ngài tha thiết ...

Đã có một thời đây đó rộ lên những cách tỏ tình ... cố làm cho ra khác người ... Có lẽ cũng có những cảm động về phía đối tượng ... đứng trước những khác thường của kiểu cách , nhưng , dù sao , cũng có chút “ sến” trong đó ... nên  hầu hết những mối tình nặng tính “ quảng cáo” ... đều rơi ngõ cụt ...

Cũng có người bảo rằng : chết vì yêu và chết cho người yêu ... thì nhân thế ...  thiếu gì  những Romeo , những Juliet  ...

Đúng thôi , nhưng cái chết vì yêu của Con Người cong queo trên thập tự chiều thứ sáu hôm ấy là cái chết của Thiên Chúa mang phận người , cái chết của Vô Cùng tự nguyện gò bó trong  hữu hạn , cái chết của Đấng Có Thể  Làm Nên Tất Cả nhưng quyết định trình bày sự “ cong queo”  của thân xác , sự “ chơ vơ”  của tâm hồn để cho thấy rằng , với Người và với Chúa Cha , thụ tạo con người là tất cả ... Nếu con người , ở trong tình trạng quyền năng như thế , có lẽ con người đã yêu bằng bạo lực , bằng thế lực hay bằng nhiều nhiều những cách thức trần tục nhan nhản khắp giòng lịch sử con người từ những chuyện trong các cung cấm phong kiến đến những trang lá cải hằng ngày hôm nay ...

Trong suy nghĩ ấy mà thấy được cái duyên của vần “ Ơ ”  đưa đến sự  “ chơ vơ” nhiều oái oăm và nặng đành hanh  ...

Vì sao ?


Vì ... cho đến hôm nay , Vị Thiên Chúa – Làm – Người  vẫn bị treo “ giữa khung trời chơ vơ” ...

Người bị treo nơi giòng người tầng tầng lớp lớp kéo nhau lầm lũi trong đói khát , tủi cực để tìm lấy một mảnh đất sống cho nhau và cho con cháu ...

Người bị treo nơi những con người mưu đồ , ý đồ và lợi dụng đồng loại của mình để thực hiện những toan tính này nọ ...

Người bị treo nơi những lừa bịp lớn nhỏ xảy ra hằng ngày trong mọi lãnh vực mà nạn nhân là số đông không còn biết xoay sở ra sao nên đành chấp nhận phó mặc cho số phận...

Người bị treo giữa những sòng bài , những phòng nhạc thác loạn cũng như lén lút với từng mũi tiêm nơi góc tối nào đó trong thế giới con người ...

Người bị treo với từng núi đơn kêu nài công lý ...

Người bị treo trong sự thẫn thờ của những mất mát vô tình và cố tình con người gây ra cho nhau...

Người bị treo ... và bị treo ở tất cả mọi tâm tình , tâm trạng cũng như tình trạng và điều kiện sống của con người trần trong cõi nhân sinh này ...

Người bị treo ngay sau tội phạm của nguyên tổ ...

Người tiếp tục bị treo cho đến thời sau hết ...

Và vì thế  câu hỏi : “ sao cứ hững hờ , cứ để con chết giữa khung trời chơ vơ ? ” vẫn mãi mãi là lời tỏ tình muôn thủa của Thiên Chúa Tạo Hóa với con người thụ tạo đồng thời cũng là câu hỏi xoáy vào lương tâm làm người : thụ tạo vốn là họa ảnh của Tạo Hóa ...

Dĩ nhiên điểm nhấn là Chiều Thứ Sáu trên đỉnh Sọ của năm ấy ...

Sao cứ hững hờ, cứ để con chết giữa khung trời chơ vơ???
 

Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp.

VỀ MỤC LỤC


 CHÚA PHỤC SINH LÀ TIN MỪNG CHO NHÂN LOẠI (LỄ VỌNG PHỤC SINH 2016)



(Lc 24,1-12)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cor 15,14); hay: “Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Kitô chỉ vì những sự đời này, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trong thiên hạ” (1Cor 15,19),

Thế nên, không ai dại dột mà tin và gắn bó cả cuộc đời cũng như mọi chiều kích của cuộc sống vào một con người mà kết thúc cuộc đời bằng cái chết! Thân xác bị chôn vùi trong huyệt mộ là dấu chấm hết cho chính con người đó cũng như những ai đã từng đặt lý tưởng cuộc đời mình vào họ.

Nhưng, niềm tin vào Đức Giêsu đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì Đấng mà chúng ta tin tưởng, gắn bó và phó thác chính là Đấng đã từng chết thật, nhưng cũng đã sống lại thật sau ba ngày nằm trong mộ phần.

Như vậy, chúng ta thật hãnh diện về Đấng Cứu Chuộc có tên là Giêsu, vì nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà chúng ta được sống và sống dồi dào, bởi lẽ, nếu chúng ta cùng sống và chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.


  1. Hãy trở về Galilê để sống niềm vui sứ vụ

Niềm tin vào Đấng Phục Sinh được Tin Mừng theo thánh Luca trình bày bằng sự kiện các phụ nữ, những người yêu mến Đức Giêsu đi ra mộ lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, tức là kế sau ngày Sabát, để thi hành công việc chăm sóc, sức thêm thuốc thơm nơi xác Đức Giêsu, đây là công việc lẽ ra phải làm chu đáo hôm an táng Ngài. Tuy nhiên vì là áp lễ Vượt Qua của người Dothái, nên những việc làm tỉ mỉ không thể thực hiện được, vì nếu làm như thế, thời gian sẽ chuyển sang ngày Sabát, mà ngày Sabát thì lại là luật cấm làm việc xác...

Khi đến nơi, các phụ nữ thật ngỡ ngàng, vì cửa mộ đã mở tung và trong mộ không còn thi thể Đức Giêsu!!!

Thấu hiểu nỗi sợ hãi và hoang mang của các phụ nữ, nên thiên thần đã hiện ra chấn an các bà và nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại" (Lc 24 5-7).

Sau khi được các thiên thần nhắc cho các bà nhớ lại lời Đức Giêsu đã tiên báo, các bà rất vui mừng và thêm xác tín vào những lời Đức Giêsu đã nói với các bà trước đó, vì thế, họ hân hoan trở về và báo tin mừng này cho các môn đệ. Tin Mừng thánh Mátthêu thì nói rõ hơn và còn tiên báo cho biết: chính Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh sẽ đến Galilê và sẽ gặp các môn đệ tại đó (x. Mt 28, 7).

Nhắc lại cho các bà những điều Đức Giêsu đã nói khi còn ở Galilê là gợi lại cho các bà về niềm xác tín nền tảng, bởi vì chính tại Galilê, những phụ nữ và các môn đệ đã khởi đầu hành trình bước theo Thầy Giêsu trong niền tin và hy vọng. Nay trở về Galilê là để cho người môn đệ một lần nữa xác định lại căn tính của mình, thêm vững tin, can đảm, hầu trung thành với sứ vụ tông đồ giữa trăm triều thử thách chông gai.

Mặt khác, khi chứng kiến cảnh hãi hùng ghê rợn của Thầy mình phải chịu qua cuộc thương khó, nhất là qua cái chết của Ngài, các môn đệ kể như bị hoang mang lo sợ đến tột cùng! Chẳng thế mà từ khi Thầy của các ông bị bắt, đánh đập và giết chết cách tàn bạo thê lương trên thập giá, các ông đã không dám ra ngoài, nhưng luôn trong nhà và đóng kín cửa. Vì thế, khi nhắc các bà nhớ lại những điều chính Ngài đã tiên báo từ hồi còn ở Galilê, là để cho các bà có bằng chứng nhằm loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ một cách xác tín.

Nếu không nhắc lại biến cố Galilê, thì hẳn các môn đệ không thể tin vào chuyện vĩ đại có tầm ảnh hưởng lớn đến hết mọi người mà lại qua miệng các phụ nữ!!!

Hơn nữa, khi nhắc lại địa danh Galilê, và nói với họ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã tiên báo trước đó, ấy là Ngài muốn cho họ nhớ lại mối tình đầu tiên giữa Ngài với họ, nơi mà mọi sự được bắt đầu, nơi mà Ngài đã cất tiếng gọi và nơi mà họ đã từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài...(x. Mt 4,18-22).

2. Ngày Rửa Tội là Galilê của chúng ta

Với chúng ta, ai cũng có một Galilê nội tâm, nơi ấy, chúng ta được đánh dấu bằng việc Chúa gọi và chọn mỗi người qua Bí tích Rửa Tội, để trở nên con cái của Chúa, con cái Sự Sáng và nên chứng nhân cho Ngài.

Khi trở nên con cái Chúa trong ơn gọi Kitô hữu, ấy là chúng ta mặc lấy Đức Kitô và được mời gọi mang trong mình những tâm tư của Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, ngõ hầu trở nên chứng nhân về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh vinh hiển.

Tuy nhiên, tình nghĩa giữa ta và Chúa đã bị rạn nứt với năm tháng do yếu đuối, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo... nên nhiều khi chúng ta đã dửng dưng với ơn gọi và sứ vụ của mình.

Khi được thiên thần mời gọi các phụ nữ nhớ lại những lời Đức Giêsu đã báo trước cũng như hẹn gặp các môn đệ ở Galilê, đây cũng chính là lời mời gọi mỗi người trở về và nhớ lại biến cố Galilê nội tâm của mình.

Khi được mời gọi trở về Galilê, hẳn đây là lời nhắc nhớ chúng ta nhớ lại niềm tin tinh tuyền thủa ban đầu.

Nhớ lại những gì đã nói khi còn ở Galilê; ấy là nhóm lên ngọn lửa tình yêu mãnh liệt thủa ban sơ ấy; và cũng là nhớ lại những ân tình, mà Thiên Chúa đã ban trên cuộc đời chúng ta.

Khi trở về và nhớ lại như thế, sứ điệp quan trọng được loan đi, đó là: cần đọc lại lịch sử cuộc đời mình, để nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nhận ra bàn tay can thiệp uy quyền của Ngài, và nhất là nhớ lại những điều đã báo trước, để thêm một lần nữa nhìn cuộc đời dưới quy luật: qua đau khổ đến vinh quang.

Khi trở lại và nhớ về biến cố Galilê nội tâm, cũng là dịp để ta xác tín thêm và khởi đầu một hành trình mới trong niềm tin và hy vọng, để can đảm loan báo Đức Giêsu đã chết đúng như tiên báo, đã sống lại như những gì đã nói trước...

Mong sao, đêm nay, mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc hồi tưởng để trở về với cõi lòng của mình, ngõ hầu thấy được Galilê nội tâm riêng của mỗi người; đồng thời hãy nhớ về nó để chúng ta đi trên con đường đã được định hướng.



Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại từ cõi chết. Đây là tin mừng không chỉ cho các phụ nữ, các môn đệ, nhưng nó còn là niềm hy vọng và niềm tin của chúng con hôm nay và mãi mãi. Xin cho mỗi người chúng con ngay trong giây phút này, hãy cất cao lên lời: “Halêluiya” và hãy loan Tin Mừng Phục Sinh đến mọi nơi. Amen.

VỀ MỤC LỤC


 ĐỨC MẸ SẦU BI


Vào Thứ Sáu Tuần Thánh, khi tưởng nhớ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, chúng ta cũng tưởng nghĩ đến những đau đớn của Đức Mẹ. Điêu khắc gia Michelangelo thành Florence nước Ý, thế kỷ XV, đã khắc một pho tượng nổi tiếng, lột tả cách sống động về chân dung Đức Mẹ Sầu Bi, gọi là Pietà.




Tượng Pietà trong Đền thờ Thánh Phêrô, Rôma (do Michelangelo, 1499)

Giáo hội cũng có một lễ dành cho tước hiệu này vào ngày 15/9, sau lễ Suy Tôn Thánh Giá. Lễ Đức Mẹ Sầu Bi (hay lễ Đức Bà Bảy Sự, lễ kính Bảy Sự Thương Khó của Đức Bà) tiếng Latinh là Mater Dolorosa (hay Septem Dolorum), tiếng Anh là Dolors of Our Lady (hay Seven Dolors of Blessed Virgin, Seven Sorrows of Our Lady).



1. Nguồn gốc ngày lễ

Trước cuộc cải tổ Phụng Vụ của Công đồng Vatican II, trong lịch Phụng Vụ có hai lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi. Việc tôn kính Đức Mẹ Sầu Bi do Dòng Citercian và Dòng Phanxicô khởi xướng từ thế kỷ XII và thế kỷ XIII. Đến năm 1423, Công đồng Cologne đã quy định thành lập lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi (điều luật 11). Ý niệm khởi đầu chỉ hướng về mối đau khổ tổng thể, cụ thể là tôn kính Đức Mẹ đau khổ đứng dưới chân thập tự giá, lễ này được cử hành vào ngày Thứ Sáu của tuần III sau lễ Phục Sinh. Năm 1482, Bảy Sự Thương Khó của Đức Mẹ mới được khai triển và phổ biến ở Âu Châu. Năm 1725, Đức Giáo Tông Bênêđitô XIV đưa lễ Đức Mẹ Sầu Bi qua ngày Thứ Sáu trong tuần Thương Khó I, trước Lễ Lá23, đó là lễ thứ I. Năm 1668, Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ được Toà Thánh cho phép mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày Chúa Nhật thứ III trong Tháng 9. Năm 1912 Đức Giáo Tông Piô X quyết định toàn thể Giáo Hội cử hành lễ này một lần nữa vào ngày 15/9 hàng năm, sau lễ kính Thánh Giá, đó là lễ thứ II. Cả hai thánh lễ đều dùng thánh thi “Stabat Mater” (Mẹ Sầu Bi đứng dưới chân thập tự giá) của Giacopone da Todi (1360), tu sĩ Dòng Phanxicô, làm thánh ca cho buổi lễ. Năm 1969, lễ Đức Mẹ Sầu Bi vào ngày Thứ Sáu trong tuần Thương Khó I bị bãi bỏ, lý do là vì Giáo Hội không muốn mừng một biến cố hay một mầu nhiệm hai lần trong một năm.



2. Nghĩa của những chữ đức, mẹ, sầu, bi

2.1. Đức, có duy nhất một chữ Hán 德 (nhưng có nhiều cách viết, như: 徳, 悳, 惪), nghĩa là (dt.) (1) Ân huệ: Dĩ đức báo oán. (2) Đạo đức, cái đạo để lập thân: Đức hạnh. (3) Hạnh kiểm, tác phong. (4) Cái khí tốt (vượng) trong bốn mùa: Mùa xuân gọi là thịnh đức tại mộc. (5) Ý chí, niềm tin: Nhất tâm nhất đức (một lòng một dạ) (6) Tên nước: Nước Đức. (7) Họ Đức. (đt.) (8) Tạ ơn: Vương viết: “Nhiên tắc đức ngã hồ” (Vua nói: “vậy thì cám ơn tôi không?”). (tt.) (9) Mỹ thiện: Đức chính (chính sách tốt đẹp).

Nghĩa Nôm: Đức là từ24 đứng trước những danh xưng chức vị hay tước hiệu để biểu thị lòng kính trọng dành cho những đấng, những vị được tôn kính. Ví dụ: Đức Chúa Trời, Đức Mẹ, Đức Phật Thích Ca, Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức vua, Đức thánh Trần...

Theo Cha Giuse Cao Phương Kỷ: “Chữ đức, không có ý nghĩa thần tính, chỉ là danh hiệu tỏ lòng tôn kính dành cho nhiều người như: đức vua, đức bà, đức ông, đức thầy... Ngoài ra, theo thói quen, chữ đức thường ghép vào một chức vị, hay danh hiệu của một người như đức giám mục, đức cha... không ai gọi kèm theo tên riêng, tên tục người ta, chẳng hạn, ta quen gọi: Đức Hồng y Khuê, mà không nói: “Đức Khuê”(vì chữ Khuê là tên riêng)25.

Chúng tôi đồng ý với Cha Giuse, vì Đức (nghĩa Nôm) là:

- “Từ đặt trước những danh từ chỉ những thần thánh hoặc những người đáng tôn kính”26, “... hoặc người có địa vị cao quý trong xã hội phong kiến để tỏ ý tôn kính khi nói đến”27

- “Tiếng tôn gọi các bậc vua chúa, thần thánh” .

- “(Thường viết hoa) từ dùng để gọi thánh thần với ý tôn kính”28 .

- “Tước hiệu danh giá tột đỉnh”29dùng để “xưng tặng các đấng cao sang, tài trí...” như Paulus Huỳnh Tịnh Của viết: “Đức: tiếng xưng tặng các đấng cao sang, tài trí; tiếng chỉ việc nhơn lành, lòng lành: Đức Chúa Trời30. Để tiếng đức cho trọng đấng bậc, không dám xưng ngay là Chúa Trời, về các tiếng sau này cũng vậy: chúa, vua, thánh, giáo tông, giám mục, cha, thầy, phu tử, ông, mụ, bà (dùng tiếng đức cũng về một ý)31.

Theo lễ phép “xưng khiêm, hô tôn”, khi nói với (hoặc nói về) người trên thì người ta dùng chức vụ, vị trí công tác hay danh hiệu học vị học hàm; khi nói với (hoặc nói về) người ngang hàng hoặc dưới mình, nhưng vẫn tỏ ra lịch sự, người ta có thể dùng tên tự hay gọi theo chức vị. Có thể thêm tên hay họ tên sau chức vị khi có người khác cùng chức vị đó hiện diện. Thiết nghĩ, đối với các bậc tôn quý “danh giá tột đỉnh” được gọi là “Đức...” mà chúng ta chỉ xưng hô vỏn vẹn là “Đức + tên riêng” thì không phải phép. Thí dụ: Người ta không nói “Đức Khổng Khâu”, nhưng là “Đức Khổng Tử”32; không nói “Đức Tất Đạt Đa Cồ Đàm”, nhưng nói là “Đức Phật Thích Ca”33. Chúng ta không nên nói “Đức Maria”, mà nên nói là “Đức Mẹ Maria”, “Đức Bà Maria” hay “Đức Nữ Đồng Trinh Maria”... Tuy nhiên, khi nói về Đức Phật Thích Ca trong giai đoạn trước khi thành Phật, người ta có thể gọi ngài là “Hoàng tử Tất Đạt Đa” hay “Đức Cồ Đàm”...cũng như có người dùng chữ “Đức Giêsu” để nhấn mạnh đến nhân tính, còn chữ “Chúa Giêsu” để nói về thiên tính của Ngôi Hai Thiên Chúa34. Nhưng khi nhấn mạnh nhứ thế, liệu chúng ta có đi lệch với mầu nhiệm ngôi hợp không? Đây, không phải chỉ là cách dùng từ nữa, mà liên quan đến phạm trù giáo lý đức tin rồi.

Khi ghép chữ “đức” vào hai chữ “lang quân” và “ông chồng” như “đức ông chồng” thì có nghĩa không được tốt đẹp lắm, tức là “chồng” (cách gọi có ý đùa hoặc mỉa mai)35. Còn “đức lang quân”, nay không nghe người ta nói nữa, chỉ thấy dùng trong văn viết với ý nghĩa như đức ông chồng vậy. Riêng Giáo Hội Công Giáo vẫn dùng Đức Phu Quân là Chúa Kitô... Đức Lang Quân của Hội Thánh!

2.2. Mẹ, là chữ Nôm, nghĩa là (dt.) (1) Người đàn bà có con, trong quan hệ với con cái: Nhớ mẹ, gửi thư cho mẹ, mẹ thương con. (2) Con vật cái, trực tiếp sinh ra đàn con nào đó: Gà con tìm mẹ. (3) Người đàn bà đáng bậc mẹ: Người mẹ chiến sĩ. (4) Cái gốc, cái xuất phát những cái khác: Lãi mẹ đẻ lãi con. (5) Mẹ ghẻ (vợ kế của bố). (6) Đàn bà xấu: Mẹ mìn. (7) Tiếng chửi: Mẹ kiếp.

2.3. Sầu, chỉ có một chữ Hán 愁, nghĩa là: (dt.) (1) việc lo buồn: Ly sầu (việc lo buồn của chia lìa). (đt.) (2) Lo lắng: Bất sầu ngật bất sầu xuyên (không phải lo ăn lo mặc). (tt.) (3) Lo buồn: Sầu my khổ kiểm (nét mặt buồn sầu).

Nghĩa Nôm: (đt.) (1) Đau lòng: Sầu khổ (hơi khác nghĩa Hv). (2) Nẫu: Gặp mưa to rau sầu hết. (dt.) (3) Trái durian (Hv Lựu liên), Nôm: Sầu riêng.

2.4. Bi, có nhiều chữ Hán, ở đây là chữ 悲. Nghĩa là (dt.) (1) Việc đau thương: Lạc cực sinh bi (Vui quá sinh việc đau thương). (2) Thương xót: Từ bi. (3) Họ Bi. (đt.) (4) Đau, khóc không có nước mắt. (5) Thương cảm: Du tử bi cố hương (Con đi xa thương cảm quê hương). (tt.) (6) Buồn.

Nghĩa Nôm: Tiếng chiêng, cồng.

3. Ý nghĩa của “Đức Mẹ Sầu Bi

3.1. Đức Mẹ Sầu Bi có nghĩa là Đức Mẹ đau khổ, buồn thương... vì Đức Mẹ là mẹ Chúa Giêsu, trong suốt quãng đời 33 năm tại thế của Chúa Giêsu, Mẹ đã cảm nhận nhiều nỗi đau thương như: Lời tiên báo của ông Simêon (x. Lc 2,34-35); Cuộc chạy trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13-21); Lạc mất Chúa ba ngày (x. Lc 41,50); theo sau Chúa khi Người vác thập tự giá lên đồi Calvê (x. Ga 19,17); khi Chúa bị đóng đinh và chịu chết trên thập tự giá (x. Ga 19,18-30); Tháo xác Chúa (x. Ga 19,39-40); Táng xác Chúa (x. Ga 19,40-42).

Cho đến ngày nay, tuy đã về trời, Mẹ Maria vẫn còn tiếp tục phải chịu bao đau đớn khi chứng kiến biết bao sự ích kỷ, hận thù, chia rẽ, chiến tranh... giữa đoàn con cái của mình. Nhưng nỗi thống khổ lớn nhất của Mẹ chính là việc trầm luân của biết bao linh hồn đang sống trong tội lỗi mà xa rời Thiên Chúa. Lời tiên tri của cụ già Simêon khi xưa quả rất hiện thực, con tim của Mẹ vẫn không ngừng bị bao lưỡi đòng đâm thâu, và người đâm thấu tâm hồn Mẹ lại chính là những đứa con mà Mẹ đã một lần sinh ra trong ân sủng. Trong số những đứa con phản nghịch ấy, phải chăng có tôi và bạn?



3.2. Giáo Hội đặt lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngay sau ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá như muốn nói rằng: “Khi Đức Kitô chịu treo trên thập tự giá, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu của Người đứng kề bên mà thông phần đau khổ36. Cuộc đời Mẹ luôn kết hợp với những khổ đau của Con. Có lẽ không đau khổ nào lớn hơn đau khổ của chính Mẹ Thiên Chúa, Đấng mà theo lời của Thánh Gioan, “đã đứng kề bên thập giá Đức Giêsu” (Ga 19,25). Không ai hiểu con cho bằng người mẹ, và cũng không ai đau khổ hơn người mẹ khi phải chứng kiến sự đau khổ và cái chết của con mình:

Mẹ sầu bi, tầm tã giọt châu,



đang đứng bên cây thập giá,

nơi Con Người đã bị treo lên.

Một lưỡi gươm nhọn đã đâm qua

tâm hồn Bà đang rên siết,

đang sầu khổ và đau buồn...”.

(Thánh thi Stabat Mater)

Cũng như Chúa Giêsu, Mẹ Maria cũng tự đồng hoá chính mình với mầu nhiệm đau thương của thập tự giá. Bởi thế, Mẹ đáng được gọi là Đấng Hiệp Công Cứu Chuộc. Qua việc cử hành lễ Mẹ Sầu Bi, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy chiêm ngắm hình ảnh của một người Mẹ đau khổ vì Con và vì chúng ta:

Ai là người không tuôn châu lệ,



khi nhìn thấy Mẹ Chúa Kitô,

trong cảnh cực hình như thế?

Ai có thể không buồn bã nhìn xem

Mẹ Chúa Kitô, đang đau khổ cùng với Con Người?..”.

(Thánh thi Stabat Mater)

Đồng thời Giáo Hội kêu mời chúng ta hãy an ủi Mẹ bằng cách bắt chước và yêu mến Mẹ hơn:

Ôi lạy Mẹ là niềm yêu mến,



xin cho con cảm thấy mãnh lực của đau thương,

để cho con được khóc than cùng Mẹ.

Xin cho lòng con cháy lửa mến yêu,

mến yêu Đức Kitô là Thiên Chúa,

để cho con có thể làm đẹp ý Người...”.

(Thánh thi Stabat Mater)



3.3. Chúng ta hãy nhớ rằng Mẹ Maria đã bắt đầu cuộc lữ hành đức tin bằng những lời xin vâng: “Tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Ngài truyền” (Lc 1,38) và những lời vui tươi hăng hái của người mẹ trẻ: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa... Vì Chúa đã nhìn đến phận hèn tôi tớ Chúa...”. Vì vậy, khi ngắm nhìn sự đau thương của Chúa Giêsu và Mẹ Người trong ánh sáng Thánh Kinh, chúng ta không thể đồng hóa sự tuân phục của Chúa và Mẹ với định mệnh thuyết hay thụ động tính37. Trái lại, như Công Đồng Vatican II dạy: “Đức Trinh Nữ đã vững tiến trong cuộc lữ hành đức tin, và trung thành hợp nhất với Con Mẹ cho tới khi đứng dưới chân thập tự giá, theo đúng chương trình của Thiên Chúa” (LG 58):

Đức Maria, Nữ Vương cả đất trời,



Vẫn hiên ngang đứng vững

Gần bên thập giá Đức Kitô.

Diễm phúc thay, Đấng không phải chết

Mà được lãnh cành thiên tuế

Dành cho người tuẫn đạo”.

(Xướng đáp, Kinh Chiều lễ Đức Mẹ Sầu Bi)

Đó là niềm vui của Mẹ và cũng là niềm hy vọng của chúng ta:

Mừng vui lên, lạy Mẹ Sầu Bi,



Xưa kia cùng với Con yêu dấu,

Mẹ thông phần đau khổ,

Ngày nay Mẹ lại được cùng Người

Chung hưởng phúc vinh quang”.

(Điệp ca Tin Mừng, Kinh Sáng lễ Đức Mẹ Sầu Bi)



Kết

Dựa theo giáo huấn Công Đồng Vatican II, Giáo Hội muốn lòng sùng kính Đức Mẹ của chúng ta phải quy hướng về Chúa Kitô. Do đó, Giáo Hội muốn chúng ta sùng kính việc Đức Mẹ hiệp công với Chúa Kitô khổ nạn để chúng ta noi gương Mẹ, mà kết hợp những khổ đau của ta với cuộc thương khó của Chúa Kitô, ngõ hầu mai sau chúng ta cùng được hưởng phúc trường sinh vinh hiển với Chúa như Đức Mẹ.

Khi chúng con kính nhớ tình yêu đau khổ của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho chúng con biết dùng đời sống mình để bù đắp những gì còn đang thiếu sót trong những đau khổ của Chúa Kitô để mưu ích cho Hội Thánh” (Lời nguyện hiệp lễ ngày 15/9). 
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ

VỀ MỤC LỤC


NOI GƯƠNG THÁNH GIUSE SỐNG LÒNG THƯƠNG XÓT




NẾU LINH MỤC KHÔNG CÓ LÒNG THƯƠNG XÓT

Suy Niệm Lễ Thánh Giuse (Mt 1, 16. 18-21.24)

Trong khung cảnh của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính dễ mến, dễ thương, là gương tốt lành cho giới gia trưởng, được Giáo hội đề cao như là mẫu gương cho người thế noi gương, bắt chước, học đòi về sự công chính và lòng từ bi thương xót.

Tin mừng gọi là người công chính. Công chính trước hết có nghĩa là tuân giữ luật Chúa (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu, (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Thánh Giuse là người có lòng thương xót, đính hôn với Maria như bao thanh nam nữ tú khác. Theo phong tục Do thái, khi hai người nam nữ đính hôn đã thành vợ chồng, dù chưa chung sống với nhau. Muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.

Thế mà Maria đã có thai trước khi về chung sống. Giuse thật khó xử. Tin mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Vì nhân hậu và thương xót, Giuse không tố cáo, làm nhục Maria, người mà ông rất tin tưởng, mến yêu và quí trọng; càng không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi. Vì công chính, hành động theo ý Chúa, nên Giuse sau lời giải thích của Thiên thần, đã tín thác hoàn toàn, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu. 

Vốn là người vâng nghe ý Chúa, Giuse đã sống ơn gọi làm chồng cách trung thành. Vì thế, thánh nhân trở nên người chồng mẫu mực của Đức Maria, người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu”  (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).

Nếu như Đức Thánh Cha Phanxicô nói, thế giới hôm nay rất cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, các gia đình chúng ta hôm nay đang rất cần có những người chồng, người cha công chính và có lòng thương xót như thánh cả Giuse biết bao. Đó là lý do chúng ta mừng kính để xin người cầu thay nguyện giúp cho các người cha.

“Hãy cứu lấy các gia đình hỡi những người cha” là lời kêu gọi của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđitô, ngài tiếp : “các gia trưởng sẽ bớt bài bạc, bớt những chén rượu, bớt đi những cuộc vui vô bổ, để làm gương sáng cho vợ con về lòng tin ; siêng năng cầu nguyện và đến với Chúa …”. Thánh Giuse đã làm điều đó, đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, dẫn về thành Nagiarét, lên Đền thờ dự lễ và vui sống bình an.

Thật là đẹp khi ta thấy người chồng một tay dắt vợ, với nách ôm con đến nhà thờ dự lễ. Kết hôn, người nam sẽ bỏ cha mẹ mà luyến ái với vợ mình, hai người nên một, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe. Logo Năm Thánh Lòng Thương Xót, cha họa sỹ vẽ Chúa Giêsu vác Ađam lên vai, hai mắt nhìn vào nhau 2 con người với 3 con mắt. Không phải ngài vẽ thiếu, nhưng chủ đích muốn nói chính tình yêu và Lòng Thương Xót hòa quyện giữa Thiên Chúa và con người với nhau, để Ađam hướng nhìn vào Thiên Chúa thì khám phá ra lòng Chúa xót thương. Và Chúa Giêsu nhìn chúng ta với con mắt của Ađam để thấy được những lỗi lầm thiếu xót, những đau khổ gian nan mà con người phải chịu do tội lỗi, để ôm ấp, yêu thương và chữa lành. Từ đó, ta nhìn anh em với con mắt của chính Chúa Giêsu, để sống lòng thương xót của Thiên Chúa với tha nhân.

Nếu người chồng mà nhìn vợ bằng con mắt của vợ, mang lấy tâm tư, vui buồn, sướng khổ của người vợ, và người vợ nhìn chồng bằng con mắt của người chồng, mang lấy ý muốn, tâm tư, cố gắng thực hiện ước mơ của người chồng thì thật hạnh phúc.

“Tình yêu là sứ mạng của chúng ta”  là chủ đề của ĐHGĐTG tại Philadelphia vừa qua. Tình yêu là cốt lõi làm nên ý nghĩa cho đời sống gia đình. Nếu Thiên Chúa không yêu thương thì không tạo dựng gia đình, không có mầu nhiệm nhập thể, và không có chết trên Thánh giá. Cũng vậy, không có tình yêu, chẳng ai dại gì mà kết hôn với nhau cho nó nặng nề. Có tình yêu, người ta mới sống với nhau trong tình nghĩa vợ chồng, hy sinh, quên mình để sống cho người khác. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Thiên Chúa gieo mầm tình yêu đó nơi mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đến để tỏ lộ lòng thương xót của Chúa Cha và trao cho chúng ta sống và biểu lộ tình yêu ấy cho đồng loại. Tình yêu là sứ mạng thì chúng ta phải sống, và nhóm lên ngọn lửa để gieo niềm tin và hy vọng trong đời sống gia đình.

Nhìn vào Logo Năm Thánh thấy Chúa Giêsu vác con ngượi tội lỗi trên vai, cụ thể hơn, nhìn thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, hai cha con nhìn nhau làm tôi nhớ tới anh Đinh Văn Mạnh cõng vợ là Lương Thị Hà bị mất chân sau một vụ tai nạn “đi khắp thế gian” (phát sóng ngày 9/5 trên VTV3). Hay là ông Lê Xuân Hồng cõng con là Lê Xuân Bách (xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao, Phú Thọ) suốt 20 năm trời đến trường, theo đuổi giấc mơ đỗ Đại học, phát sóng trong chương trình Điều ước thứ 7 ngày 24/10 thật là cảm động. Dĩ nhiên là có mẹ em động viên, an ủi. Ba con người, ba trái tim giàu tình yêu thương, họ sống bên nhau, nương tựa vào nhau trong khó khăn, hoạn nạn. Chưa hết, ngày con nhập trường cũng là ngày ông cùng con lên trường xin làm bảo vệ để tiếp tục cõng con. Người vợ nói rằng, ông Hồng là người đàn ông tuyệt nhất thế gian.

Vợ chồng, hay bố mẹ cõng nhau xem ra bình thường, nhưng Báo Dân Trí có đăng em Nguễn Văn Phong cõng bạn là Lê Xuân Tú (cùng sinh năm 1998, chung lớp 11C5) đến trường suốt 5 năm trời vì thương bạn quá. Tình bạn không vơi, Tốt nghiệp THCS, Tú và Phong lại thi đậu vào trường THPT Nguyễn Đức Mậu (huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) và được xếp vào cùng một lớp.

Đó không phải là thực hành sứ mạng tình yêu và lòng thương xót trong gia đình noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse như Chúa dạy đó hay sao.

Kính xin thánh Giuse từ Trời cao trợ giúp các gia đình chúng ta, đặc biệt là những người cha. Amen.    

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

VỀ MỤC LỤC



tải về 0.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương