Bán nguyệt san – Số – Chúa nhật 06. 07. 2014


TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ LÀ MẸ THIÊN CHÚA CÓ NGUỒN GỐC KINH THÁNH KHÔNG ?



tải về 0.53 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu13.08.2016
Kích0.53 Mb.
#18193
1   2   3   4   5   6   7

 TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ LÀ MẸ THIÊN CHÚA CÓ NGUỒN GỐC KINH THÁNH KHÔNG ?


 

1- Làm sao biết được Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha ở trên trời  ?

2- Tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa có nguồn gốc Kinh Thánh không ?

3- Đức Mẹ có nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô hay không? 

Trả lời:

1-     Trong Kinh Tin Kính Nicene   ( đọc ngày Chúa nhật và các ngày Lễ trọng) và  Kinh Tin Kính của các Thánh Tông Đồ, Giáo Hội đều tuyên xưng  Chúa Giê-su Kitô, “ chết, sống lại,  lên trời và ngự bên  hữu Chúa Cha”.

 Lời tuyên xưng này bắt nguồn từ chính lời Chúa Giê su trả lời cho viên thượng tế  Cai pha và  trước toàn thể thượng Hội Đồng  thương tế , kỳ mục và kinh sư Do Thái họp nhau lại  để tìm cách  buộc tội  Chúa với  án tử hình. Viên thượng tế đã hỏi Chúa  xem có phải Người là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không.

Chúa đã trả lời như sau:  “ Phải chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người  ngự bên hữu  Đấng  Toàn Năng và ngự  giá mây trời mà đến.”( Mt 26: 64; Mc 14: 62; Lc 22: 69)

Như  thế lời tuyên xưng của Giáo Hội về  chỗ ngồi  của Chúa Kitô, bên hữu  Chúa Cha  trên Nước Trời  có nguồn gốc vững chắc  là chính lời Chúa  Giê su đã  nói và được ghi lại trong các Tin Mừng, như bằng chứng trên đây.



2- Tín điều Đức Mẹ là Mẹ là Mẹ Thiên Chúa có nguồn gốc Kinh Thánh không?

Trước khi trả lời câu hỏi này, xin được nhắc lại một lần nữa là vào thế kỷ thứ 4 sau Chúa Giáng Sinh, có một linh mục tên là Arius  thuộc  Tòa Thượng Phụ Alexandria ( Ai Cập) đã lạc giáo ( heretic) khi  cho rằng Chúa Giê-su Kitô có hai bản tính riêng rẽ là nhân tính( humanity) và thần tính ( Divinity) khi xuống trần gian làm Con Người. Vì thế Đức Mẹ Maria chỉ là Mẹ  của Chúa Giêsu  về phần nhân tính  mà thôi. Quan điểm lạc giáo này đã  bị Công Đồng Nicaea năm 325  A.D lên án  và bác bỏ hoàn toàn vì đi ngược với niềm tin của Giáo Hội về  sự  đồng nhất bản thể của Ba Ngôi Thiên Chúa ( Trinity) và về hai bản tính không tách rời nhau của Chúa Cứu Thế Giêsu.Nghĩa là,  Chúa Giê-su Kitô là Thiên Chúa thật và là Con Người thật, Chúa vừa có Thần tính ( Divinity) như  Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, vừa có nhân tính ( humanity)  như  mọi  con người , và hai bản tính này không hề tách rời nhau. Arius đã lạc giáo khi cho rằng Chúa Kitô có hai bản tính tách rời nhau, nên Mẹ Maria chỉ là  Mẹ Chúa  Giêsu trong phần nhân tính mà thôi. chứ không thể là Mẹ Thiên Chúa ( Theotokos)  như  các Giáo Phụ  dạy  và Giáo Hội sơ khai  đã tin .Quan điểm sai lầm trên đến đầu thế kỷ thứ  5, (428 A.D) lại được tán đồng  bởi  Thượng Phụ Nestorius thành Constantinople, là người cũng cho rằng Đức  Mẹ chỉ là Mẹ phần xác ( nhân tính) của Chúa Giê su-Kitô để  phủ nhận điều các Giáo Phụ từ thời tiên khởi đã dạy rằng : Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa ( Deipara= Theotokos=  God bearer =Đấng cưu mang Thiên Chúa.

Các Công Đồng Nicaea ( 325) và Ê-phê sô  ( 431) đều lên án tư tưởng lạc giáo của Arius và Nestorius để  khẳng định rằng Chúa Giê-su đồng bản tính ( bản thể= substance) với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lại nữa, Chúa Kitô có hai bản tính không hề tách rời nhau là nhân tính ( Humanity  và Thiên tính ( Divinity). Do đó, Đức Mẹ là Mẹ thật của Chúa Kitô, cũng là Thiên Chúa thật, nên Mẹ được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa=( Deipara=Theotokos= God bearer)  như Giáo Hội đã dạy không sai  lầm

Sau đây là bằng chứng Kinh Thánh :

Khi Đức Mẹ đến viếng thăm người  chị em họ là  bà Ê-i-sa-bét ( Elizabeth), thì bà này đã được  tràn đầy Thánh Thần,  liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được diễm phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu của Chúa  ( Mother of my Lord) đến với tôi thế này  Lc 43: 39- 43)

Bà Eli-sa-bét chắc chắn đã được Chúa Thánh Thần soi sáng  nên đã thốt ra những lời  trên để ca tụng Đức Mẹ. Như thế đủ cho thấy Giáo Hội ,từ đầu, đã không sai lầm khi tuyên xưng Đức Trinh Nữ Mara là Mẹ Thiên Chúa, vì  là Mẹ thật của Chúa Giê su-Kitô, cũng là Thiên Chúa thật, đồng bản tính ( bản thể= Substance) với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi một Thiên Chúa ( Holy Trinity).

Nhưng cho dầu với địa vị cao trọng làm vậy, Đức Mẹ cũng không cao hơn Thiên Chúa mà chỉ được tôn kính( veneration) ở mức Hyperdulia trong khi Thiên Chúa được tôn thờ  ( adoration) ở mức Latria trong phụng vụ thánh của Giáo Hội.Nghĩa là chúng ta chỉ phải thờ lậy ( adore), ngượi khen, vinh danh  một mình Thiên Chúa mà thôi, chứ không thờ  lậy Đức Mẹ, mà chỉ tôn kính ( venerate)  Mẹ cách đặc biệt ( hyperdulia) hơn các Thánh nam nữ khác,  được tôn kính ở mức Dulia.

Do đó, trong thực hành, người tín hữu phải cầu xin Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhờ Đức Mẹ và các Thánh chuyển giúp cầu thay, chứ không cầu xin Mẹ hay bất cứ Thánh Nam nữ nào như nguồn ban phát mọi ơn phúc.Chỉ có Chúa  là  cội nguồn của mọi ơn phúc mà chúng ta phải cầu xin cho được an vui trong cuộc sống trên trần gian này , và nhất là biết  sống  xứng đáng  là con cái của Cha trên trời để được cứu rỗi nhờ công nghiệp Chúa Kitô và sự  phù giúp đắc lực của Đức Mẹ và các Thánh Nam nữ  đang  vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng.

Lại nữa, khi vào nhà thờ hay nhà nguyện nào, thì  phải bái lậy trong tâm tình thờ lậy  Chúa trong nhà tạm ( Tabernacle) trước khi bái kính  ảnh tượng Đức Mẹ , Thánh Cà Giuse, hay Thánh  nam nữ nào khác.Phải nói điều này vì có một số người, khi vào nhà thờ,  đã chạy ngay đến nơi có thánh thượng Đức Mẹ  để cầu xin mà quên bái quỳ thờ lậy Chúa Kitô đang hiện diện thực sự  trong nhà tạm.

Tóm lại, sùng kính Đức Mẹ là việc đạo đức rất tốt đẹp và đáng khuyến khích cho mọi tín hữu, nhưng đừng quên là trên hết phải thờ lậy Chúa  là Đấng mà Mẹ Maria cũng phải tôn thờ cùng các Thánh nam nữ và các Thiên Thần, mặc dù Mẹ có địa vị cao trọng là Mẹ Chúa Kitô và cũng là Mẹ Thiên Chúa như Giáo Hội dạy.



3-     Mẹ Maria có nhận công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô không ?

Theo giáo lý của Giáo Hội, chúng ta phải tin  Mẹ được diễm phúc  thụ thai không mắc tội nguyên tổ ( immaculate Conception) và mọi tội khác  như mọi người trong nhân loại, cũng như được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa, vì là Mẹ thật của Chúa Kitô, cũng là Thiên Chúa thật  đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần như đã nói ở trên. Nhưng Mẹ không cao hơn Chúa và không cùng một bản thể ( substance) với  Ba  Ngôi  Thiên Chúa, nên Mẹ vẫn phải nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô  như chính Mẹ đã tuyên xưng như sau:

    “ Linh hồn tôi ngượi khen Đức Chúa

       Thần trí tôi hớn hở vui mừng

       Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.…” ( My Savior)

    ( Bài ca Ngượi khen Magnificat, Lc 1: 46-55)

Vì là Mẹ Chúa Kitô, nên Mẹ được diễm phúc khỏi tội tổ tông và mọi tội cá nhân từ  khi được thụ thai cho đến khi về trời cả hồn xác. Mẹ được sinh ra như  mọi tạo vật khác, trừ đặc ân được  giữ gìn khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi để xứng đáng làm Mẹ  Ngôi Lời nhập thể.

Nhưng việc nhận ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu ,Con của Mẹ, không làm thương tổn địa vị cao trọng của Mẹ là Mẹ Ngôi Hai và là Mẹ Thiên Chúa. Ngược lại, Mẹ đã vinh danh Chúa Cứu Thế  Giêsu khi nhận ơn cứu chuộc của Chúa, vì “ ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh ấy mà được cứu độ.” ( Cv 4 :12)

Như thế khi nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô, Mẹ  đã tôn vinh Chúa là Đấng cứu thế duy nhất đã hòa giải con người với Thiên Chúa qua vâng phục và hy sinh chịu chết trên thập giá năm xưa,  mặc dù Mẹ không có tội lỗi nào cần phải được tha thứ nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa.

Chúng ta cảm tạ Mẹ Maria thật nhiều  vì Mẹ đã “ xin vâng” với Thiên Chúa để làm Mẹ Chúa Cứu Thế Giêsu, và cộng tác với Con của Mẹ trong sứ mệnh cứu chuộc  cho nhân loại khỏi phải chết vì tội. Vai trò của  Mẹ thật quan trọng trong Chương Trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô, Con của Mẹ.

Vậy chúng  ta hãy siêng năng chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ nguyện giúp cầu thay cho chúng ta  được mọi ơn cần thiết của Chúa trong cuộc lữ hành về quê Trời giữa bao khốn khó , gian nan vì cản trở  và đánh phá  của ma quỷ ,  cám dỗ của thế gian với đầy rẫy gương xấu, dịp tội và vì  bản chất yếu đuối nơi mỗi người chúng ta.

Lm. Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn.



VỀ MỤC LỤC


BÀI GIÁO LÝ II CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ HỘI THÁNH: TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC THUỘC VỀ DÂN THIÊN CHÚA


Chúng ta không  sống cô lập và chúng ta không là những Kitô hữu cách cá nhân, riêng rẽ, không, căn tính Kitô hữu của chúng ta là thuộc về!  Chúng ta là những Kitô hữu vì chúng ta thuộc về Hội Thánh.  Đó giống như một tên họ: nếu tên gọi là “Tôi là một Kitô hữu,” thì tên họ là “Tôi thuộc về Hội Thánh.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 25 tháng 6 năm 2014 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC nói về “Tầm Quan Trọng của Việc Thuộc Về Dân Thiên Chúa.”

 

* * *



Anh chị em thân mến, chào anh chị em.

Hôm nay, có một nhóm khách hành hương đang kết hợp với chúng ta trong Đại Sảnh Phaolô VI, là những khách hành hương đang bị ốm.  Bởi vì thời tiết này, giữa sự nóng bức và có thể mưa, nên thận trọng hơn đối với họ là ở lại đó.  Nhưng họ được liên kết với chúng ta qua màn hình lớn.  Và như vậy, chúng ta hiệp nhất với nhau trong cùng một buổi triều yết này.  Và tất cả chúng ta, đặc biệt là ngày hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho họ, cho bệnh tình của họ.  Cảm ơn anh chị em.



Trong bài giáo lý thứ nhất về Hội Thánh, hôm thứ tư vừa qua, chúng ta đã bắt đầu với sáng kiến của Thiên Chúa, Đấng muốn thiết lập một dân để đem phúc lành của Ngài đến cho tất cả các dân tộc trên trái đất.  Bắt đầu với ông Abraham và rồi, với rất nhiều kiên nhẫn - và Thiên Chúa đã, rất nhiều! -, chuẩn bị dân này trong Cựu Ước cho đến khi, trong Đức Chúa Giêsu Kitô, dân ấy là một dấu chỉ và công cụ của sự hợp nhất giữa con người với Thiên Chúa và với nhau (x. Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 1). Hôm nay chúng ta muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thuộc về dân này, đối với các Kitô hữu.  Chúng ta sẽ nói về việc thuộc về Hội Thánh.

1. Chúng ta không  sống cô lập và chúng ta không là những Kitô hữu cách cá nhân, riêng rẽ, không, căn tính Kitô hữu của chúng ta là thuộc về!  Chúng ta là những Kitô hữu vì chúng ta thuộc về Hội Thánh.  Đó giống như một tên họ: nếu tên gọi là “Tôi là một Kitô hữu,” thì tên họ là “Tôi thuộc về Hội Thánh.”  Thật rất tốt đẹp khi nhận ra rằng việc thuộc về này cũng được diễn tả trong danh mà Thiên Chúa tự nhận cho Mình.  Khi trả lời ông Môsê, trong cảnh “bụi gai cháy” tuyệt vời (x. Xh 3:15), Ngài tự nhận là Thiên Chúa của các tổ phụ.  Ngài không nói: Ta là Đấng Toàn Năng ..., không, Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacop.  Bằng cách này Ngài tỏ Mình ra là Thiên Chúa, Đấng đã lập giao ước với các tổ phụ của chúng ta, và vẫn trung thành với giao ước của Ngài, và mời gọi chúng ta vào mối liên hệ này là mối liên hệ có trước chúng ta.  Mối liên hệ này của Thiên Chúa với dân Ngài có trước tất cả chúng ta, đến từ thời thời đó.

2. Theo ý nghĩa này, trước hết chúng ta nghĩ đến những người đã đi trước chúng ta và những người chào đón chúng ta vào Hội Thánh với lòng biết ơn với.  Không ai tự mình trở thành một Kitô hữu!  Điều đó hiển nhiên không?  Không ai tự mình trở thành một Kitô hữu.  Các Kitô hữu không được chế ra trong một phòng thí nghiệm.  Các Kitô hữu là một phần một dân đến từ xa.  Kitô hữu thuộc về một dân duy nhất được gọi là Hội Thánh, và Hội Thánh làm cho người ấy thành Kitô hữu vào ngày rửa tội, và sau đó trong tiến trình dạy giáo lý, và vân vân.  Nhưng không ai, không ai tự mình trở thành một Kitô hữu.  Nếu chúng ta tin, nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta biết Chúa và chúng ta có thể lắng nghe Lời Ngài, nếu chúng ta cảm thấy gần gũi và nhận ra Ngài trong anh chị em của chúng ta, đó là vì những người khác, trước chúng ta đã sống đức tin của họ và sau đó đã truyền lại đức tin ấy cho chúng ta.  Đức tin mà chúng ta đã nhận được từ cha ông chúng ta, từ tổ tiên chúng ta, và các ngài đã truyền đức tin ấy cho chúng ta.  Khi nghĩ kỹ về điều ấy, tôi thấy có biết bao khuôn mặt của những người thân yêu đang đi qua trước mắt tôi lúc này: có thể là khuôn mặt của cha mẹ chúng ta là những người đã xin cho chúng ta được rửa tội; của ông bà chúng ta hoặc một số bà con đã dạy chúng ta làm dấu thánh giá và đọc những kinh nguyện đầu tiên.  Tôi luôn luôn nhớ đến khuôn mặt của vị nữ tu đã dạy giáo lý cho tôi, tôi luôn luôn nhớ - bà ấy đang ở trên Thiên Đàng, tôi biết chắc chắn, bởi vì bà là một phụ nữ thánh thiện - nhưng tôi luôn nhớ đến bà và tạ ơn Thiên Chúa vì vị nữ tu này.  Hoặc khuôn mặt của một linh mục, của một linh mục khác, hoặc của một nữ tu, một giáo lý viên, những người đã truyền lại cho chúng ta nội dung đức tin và làm cho chúng ta lớn lên như các Kitô hữu ... Vâng, đây là Hội Thánh: một đại gia đình, trong đó chúng ta được đón tiếp và học cách sống như các tín hữu và môn đệ của Chúa Giêsu.

3. Chúng ta có thể sống con đường này không những chỉ nhờ vào những người khác nhưng còn cùng với những người khác.  Trong Hội Thánh không có việc “tự làm lấy,” không có “những người đập tự do.”  Biết bao lần Đức Thánh Cha Bênêđictô đã mô tả Hội Thánh như một Hội Thánh “chúng ta”!  Đôi khi chúng ta nghe có người nói rằng, “Tôi tin Thiên Chúa, tin Chúa Giêsu, nhưng Hội Thánh thì tôi không quan tâm....”  Có bao nhiêu lần chúng ta nghe thấy điều này?  Và điều này không đúng.  Có những người tin rằng họ có thể có một mối liên hệ cá nhân, trực tiếp và tức thì với Đức Chúa Giêsu Kitô ở ngoài sự hiệp thông và trung gian của Hội Thánh.  Đó là những cám dỗ nguy hiểm và tai hại.  Như Đức Đại Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói rằng chúng là những phân chia phi lý.  Đúng là việc cùng đi với nhau đòi hỏi nhiều cố gắng, và đôi khi có thể mệt mỏi: việc có thể xảy ra là một số anh chị em chúng ta phải đương đầu với một số vấn đề, hoặc gây tai tiếng cho chúng ta ... Nhưng Chúa đã trao phó sứ điệp cứu độ của Ngài cho con người, cho tất cả chúng ta, để làm nhân chứng; và chính trong anh chị em chúng ta, với những hồng ân và giới hạn của họ, mà Ngài đến với chúng ta và làm cho chúng ta nhận ra Ngài.  Và điều này có nghĩa là thuộc về Hội Thánh.  Anh chị em hãy nhớ kỹ: là một Kitô hữu có nghĩa là thuộc về Hội Thánh.  Tên gọi là “Kitô hữu” và tên họ là “thuộc về Hội Thánh.”

Các bạn thân mến, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, chúng ta hãy xin Chúa ơn không bao giờ sa vào cám dỗ nghĩ rằng mình có thể làm mà không cần người khác, có thể làm mà không cần Hội Thánh, rằng mình có thể tự cứu mình, rằng mình là những Kitô hữu của phòng thí nghiệm.  Trái lại, chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương anh chị em mỉnh; chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa bên ngoài Hội Thánh; chúng ta không thể hiệp thông với Thiên Chúa mà không ở trong Hội Thánh, và chúng ta không thể thành những Kitô hữu tốt nếu không cùng với tất cả những người đang tìm cách theo Chúa Giêsu, như một dân duy nhất, một thân thể duy nhất, và đó là Hội Thánh.  Cảm ơn anh chị em.



Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/ 
VỀ MỤC LỤC

XIN LỖI, TÔI CHỈ LÀ MỘT NGƯỜI CHUYỂN QUÀ!

Vào một buổi sáng Chúa Nhật, với ly cà phê nóng bên khung cửa sổ của căn nhà cuối phố, Viễn chợt nhận ra một sự thật. Mới đầu nó nhẹ nhàng, rồi bỗng phũ phàng, rồi chợt bẽ bàng, nhưng cuối cùng thì giải thoát rộn ràng.

Quán cà phê nhỏ cuối phố có cái tên ngắn ngủn mà hay hay: Quà. Viễn thắc mắc tại sao tên quán lại như vậy vì chưa thấy chủ quán tặng quà cho khách hàng hay khách hàng tặng quà cho chủ quán bao giờ. Chắc phải có một ý gì đó.

Thong thả nhấp miếng cà phê nóng đang tỏa ra thơm phức, Viễn nhìn qua khung cửa sổ. Bóng dáng của người ăn xin mà anh mới “tặng một chút quà” đang khuất xa dần. Hồi trước khi cho ai chút tiền thì Viễn gọi đó là bố thí như nhiều người vẫn còn làm hôm nay. Nhưng sau lần chính bản thân Viễn, một thằng đàn ông đầy tự hào, ngay tại cái quán nước này, phải ngửa tay xin giúp đỡ thì anh đã thay đổi hẳn. Cũng may anh đã trải qua kinh nghiệm đó nên mới thấu hiểu được nhiều việc để rồi bây giờ mỗi khi giúp đỡ ai thì anh tìm cách giúp thế nào để người được giúp không cảm thấy mặc cảm. Nghĩ lại, cái khó cái nhục hóa ra là cái cần cái phúc mà trời cao gửi cho anh để giúp anh lớn lên về mặt nhân cách. Một món quà cuộc sống vậy.

Thả hồn theo làn hơi nóng thơm của ly cà phê đang nghi ngút tỏa, Viễn tận hưởng những dòng ký ức tươi sáng của những năm tháng gần đây. Có lần Viễn mua giúp một bà cụ bán vé số trong chợ năm tấm vé liền rồi tặng lại cho bà, cầu chúc bà may mắn. Bà cụ ngạc nhiên. Nụ cười của bà cụ gầy guộc làm vui tâm hồn Viễn. Có lần anh đứng ra hòa giải cho một gia đình hàng xóm. Sau này họ cho biết nhờ lời khuyên sáng suốt của anh mà họ đã khắc phục được bất hòa trong nhà. Rồi có lần cha xứ gọi điện cảm ơn Viễn đã quảng đại hiến tặng cho nhà thờ một bức tượng thánh Giuse bằng đá cẩm thạch thật đẹp giúp bà con cầu nguyện sốt sắng hơn…. Những điều thiện ích khác thi nhau chảy về trong lý ức khiến anh cảm thấy vừa tự hào vừa vui mừng. Mình cũng khá lắm đấy chứ, anh tự nhủ. Làm ơn cho người này người kia. Người này người khác biết ơn mình. Có ý nghĩa! Hay! Viễn mỉm cười, gật gù, toại nguyện với cuộc sống. Nhấp thêm miếng cà phê thơm phức nữa cái coi. Ái chà, ngon! Không, theo ngôn ngữ trẻ thời nay thì chính xác phải nói: Đó là một cái ĐÃ không hề nhẹ!!!

Bỗng nhiên Viễn nheo mày, nhăn mặt. Một sự việc cách đây bảy tháng chen ngang vào dòng xúc cảm đang lâng lâng. Nhớ lại mà tức sôi cả máu. Viễn dành dụm bao nhiêu ngày tháng mới để được một số tiền tính cuối năm cưới vợ và xây dựng sự nghiệp. Hôm đó thằng Nhân bạn học nói có việc gấp cần mượn tiền. Nó hứa sẽ trả lại trong vòng một tháng. Chỗ quen biết, lúc bạn có nạn thì ra tay tương trợ. Nó mượn ba ngàn đô la, tức là hơn một nửa số tiền Viễn đã dành dụm suốt bốn năm trời. Một tháng không thấy nó trả. Đòi thì nó khất. Muốn gặp mặt thì nó tránh. Dọa nạt thì nó trốn biệt tăm luôn. Mất. Tiền bạc mất. Tình nghĩa mất. Mồ hôi nước mắt và tín nhiệm. Mất hết.

Trong tích tắc, ly cà phê bỗng trở nên đắng ngắt. Người hành khất ban nãy cũng không còn thấy bóng dáng nữa. Tiếng nhạc du dương chỉ còn là những âm thanh rời rạc vô nghĩa vô tâm. Bàn tay Viễn nắm chặt lại vì tức giận. “Đúng là cái thứ vong ơn bội nghĩa, ăn cháo đá bát”, anh lẩm bẩm.

Xét cho cùng, Viễn đâu phải người nhẫn tâm đến nỗi phải lấy lại bằng được số tiền đó khi bạn bè còn túng quẫn. Thậm chí Viễn có thể cho nó luôn nếu thật sự nó rơi vào hiểm nghèo bế tắc. Nhưng tức lắm, tức ở chỗ nó vô ơn. Viễn là bạn mà nó đối xử như một kẻ chỉ có giá trị lợi dụng. Viễn càng tức thêm vì thấy mình đặt lòng tốt sai chỗ để bây giờ bị rơi vào tình thế khó khăn. Tiền mất tật mang. Nếu biết trước thì Viễn đâu có ngu gì giúp đỡ nó. Nhưng đâu có ai biết trước được mọi chuyện. Ai mà biết trước mọi việc chứ! Viễn tự nhủ như thế để bớt trách mình. Ý nghĩ này bỗng làm dịu sự tức giận của Viễn. Ừ nhỉ, có ai biết trước được mọi chuyện bao giờ. Biết đâu thằng bạn đáng trách này cũng bị rơi vào tình thế không thể ngờ trong hoàn cảnh của nó.

Cơn giận từ từ hạ xuống. Hương cà phê thơm phức cũng dần trở về lại trong ly. Tuy vậy, Viễn vẫn làu bàu: “Chúa, tại sao nó phụ ơn của con?”

“Ơn của con?” một hồi âm vọng lại trong tâm trí Viễn. Có một điều gì đó tự nhiên làm Viễn bối rối, khó chịu, suy nghĩ.

Chính đây là khoảnh khắc vừa bẽ bàng vừa giải thoát. Anh bắt đầu nhận ra điều không ổn trong tâm thức của mình xưa nay. Nói rõ hơn, anh bắt đầu nhận ra một sự thật, một sự thật về bản thân con người anh và về Chúa. Kể cũng lạ, mỗi một giải thoát của con người đều xuất phát từ việc nhận ra mình và nhận ra Chúa.

“Ơn của con?” Câu hỏi ấy lại dội về trong tâm trí Viễn.

Đúng là anh đã đổ mồ hôi sôi nước mắt để có một số tiền quý giá. Đúng là anh đã đưa số tiền ấy cho thằng Nhân. Đúng là anh đã thực hiện những hành động ý nghĩa để giúp đỡ những người cơ nhỡ trong cuộc đời này. Nhưng, “ơn của anh”, đúng không nhỉ? Nếu anh gọi những việc mình làm cho người khác là “ơn” thì cũng được thôi vì người ta ở đời vẫn nói đến “làm ơn”, “mang ơn”, “biết ơn”, “trả ơn”… Nhưng, nguồn gốc của cái gọi là “ơn” nằm ở đâu? Ở con người? Không. Lý luận ấy không ổn tí nào. Nhưng tại sao lại không ổn?

Trong lúc loay hoay với chính suy nghĩ đang bối rối của mình, Viễn nhận ra câu trả lời trong những câu hỏi gợi lên trong đầu: Nếu Chúa không ban cho sức khỏe, làm sao tôi có thể làm việc kiếm tiền sinh sống, nói chi đến việc có cơ hội giúp đỡ người khác? Nếu không có Thần Khí của Ngài hoạt động trong tâm hồn, làm sao tôi có thể tự mình trở nên tốt bụng mà sẻ chia? Nếu Chúa không gửi người túng thiếu đến thì làm sao tôi có được cơ hội rộng mở lòng mình và cảm nghiệm được niềm vui sâu xa của chia sẻ? Nếu Ngài không ban trí thông minh, làm sao tôi có sự  sáng suốt mà khuyên giảng cho người khác? Nếu Ngài không tha thứ trước cho tôi cả trăm vạn lần, làm sao tôi có khả năng thứ tha cho người khác vài ba lần? Nếu Ngài đã không làm tất cả cho tôi trước thì tôi sẽ chẳng thể làm được bất cứ điều gì cho chính mình hay tha nhân.

Người ta vẫn quen dùng từ “làm ơn” cho nhau nhưng sự thật thì chẳng có ai làm ơn cho người khác cả. Con người là thân phận thụ tạo không có khả năng tự tạo ra bất cứ một ơn gì. Sự thật không thể phủ nhận được là: tất cả mọi người từ cổ chí kim, từ lớn đến nhỏ, đều là những kẻ đã nhận ơn trước từ một Đấng Ban Ơn. Không có ai ngoại lệ đối với điều này. Trước khi tôi có thể làm được một việc gì đó cho người khác, tôi đã nhận lãnh biết bao nhiêu ơn lành từ Đấng Yêu Thương rồi. Ơn là từ Chúa chứ không phải từ tôi. Tôi có điều kiện và cơ hội để làm được điều gì cho người khác thì trước hết đó cũng là một ơn huệ Chúa ban cho tôi. Nghĩ đến đây, bên ly café nóng, Viễn chợt giật mình tự nhủ: “Úi, mình phải cẩn thận để không giành công của Chúa!”

Việc nhận ra rằng ơn không phải là từ thân phận con người của mình khiến Viễn bẽ bàng vì đó cũng là lúc anh thấy ‘quyền’ mong đợi người khác biết ơn mình bị vuột mất khỏi tầm tay. Ai giúp người mà chẳng mong nhận lại ít là một thái độ biết ơn nào đó chứ. Nhưng, dù thế nào đi nữa thì chân lý vẫn không hề thay đổi: Chỉ có một Đấng Ban Ơn và xứng đáng nhận sự biết ơn mà thôi. Viễn nhớ lại lời Thầy đã dạy: “Anh em đã lãnh nhận một cách nhưng không thì cũng phải cho đi một cách nhưng không.” (Mt 10:8) Chân lý này giải thoát Viễn khỏi sự hụt hẫng vừa luẩn quẩn vừa vô lý khi gặp phải thái độ vô ơn. Nó đem lại tự do cho tâm hồn Viễn.

Anh tự rút ra một hướng sống cho mình: Cứ cố gắng làm cho người khác điều tốt đẹp theo tinh thần của Chúa nhưng sẽ không còn chờ mong bất cứ một sự biết ơn nào. Nếu họ thể hiện một thái độ biết ơn nào đó thì mừng cho họ vì họ đang sống điều cần thiết cho tâm hồn. Còn nếu họ vô ơn thì mong lời ông bà đã dạy sẽ cảnh tỉnh nhân cách họ:

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mình trồng

Những người phụ nghĩa quên công

Dẫu đeo trăm đóa hoa hồng cũng vẫn chẳng thơm.

Về khía cạnh công bằng xã hội, khi mượn thì cần phải trả, khi nhận thì cần phải thể hiện sự trân trọng biết ơn, biết ơn Đấng Ban Ơn và người làm ơn. Đó là một điều đúng và tốt. Bản thân Viễn còn muốn đi xa hơn vì anh là một Kitô hữu: Ai đã giúp cho anh bất cứ điều gì thì anh sẽ luôn ghi lòng tạc dạ và cầu nguyện cho họ, ngay cả trong trường hợp bây giờ họ không còn tốt với anh nữa hoặc đang gây khó gây khổ cho anh. Kitô hữu là thế! Một khi đã biết Thầy thì con đường cần đi là con đường hướng lên những tầm vóc mới của tình yêu thương quảng đại, cho dù trước mặt là đồi cao của lòng người hiểm trở.

+++++

Reng reng reng…



Điện thoại di động của Viễn trên bàn cà phê rung rung. Số này lạ nên Viễn không trả lời. Đến lần thứ ba thì Viễn bắt máy. Hơi bực mình.

“Alô. Ai vậy?”

“Alô.  Anh Viễn phải không ạ?”

“Vâng, tôi đây.”

“Tôi tên là Tâm, mẹ của cháu Phúc. Cách đây mấy tháng, con tôi gặp nạn trên đường bị gãy chân. Anh nhớ không?”

Viễn nghe mơ hồ, chẳng nhớ ra chuyện như thế. Chị Tâm tiếp tục:

“Lúc ấy anh đã tốt bụng xuống xe, gọi taxi và yêu cầu chở con tôi vào bệnh viện để chữa trị. Anh còn đưa cho cháu Phúc một trăm đô-la để chữa trị. Thật không thể ngờ thời buổi này mà có người tốt như anh! Hôm nay thì cháu Phúc đã đi lại được. Tôi xin lỗi đã không thể gọi điện cám ơn anh sớm hơn. Vô cùng cảm ơn anh!”

Viễn không nhớ đã giúp ai bị tai nạn. Chắc là có sự nhầm lẫn nào đó.

“Dạ, xin cho hỏi làm sao chị biết số điện thoại và tên tôi?”

“Dạ, cháu Phúc nói hôm ấy lúc anh lấy tiền trong túi ra để giúp cháu thì anh đã làm rơi một tấm giấy có tên và số điện thoại này của anh. Cháu nói là chú Viễn tuy đi chiếc xe cũ nhưng đeo kính cận nhìn hiền lành lắm.”

“Ồ! Kính cận! Chẳng lẽ là thằng Nhân?” Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu Viễn. Chị Tâm nói tiếp:

“Một lần nữa, vô cùng biết ơn anh đã ra tay cứu giúp con tôi! Nhà chúng tôi ở gần quán Quà cuối phố. Tôi xin chân thành mời anh ghé ăn bữa cơm đạm bạc và xin được gửi lại món quà anh đã rộng lượng giúp cháu lúc hoạn nạn.”

“Dạ, chị đừng lo nghĩ gì nhé. Cháu bình phục thì mừng rồi.”

“Dạ, tôi hiểu khi anh đã quyết định giúp đỡ thì không có nghĩ đến chuyện lấy lại hoặc được báo đáp nhưng món quà đó là một món tiền lớn mà anh cũng có nhiều thứ để trang trải trong thời buổi khó khăn này.”

“Ồ, không cần đâu chị.” Viễn cảm thấy một ánh sáng trong lòng soi chiếu.

Người phụ nữ đầu dây bên kia có vẻ hơi ngạc nhiên, chưa biết nên ứng xử thế nào gì thì Viễn nói tiếp:

“Xin lỗi chị, tôi không thể nhận lại vì tôi cũng chỉ là một người chuyển quà mà thôi. Chúc chị và gia đình luôn hạnh phúc. Xin chào chị nhé!”

Viễn cúp điện thoại.

Chị Tâm: …

+++++


Dòng đời tiếp tục trôi như mọi ngày nhưng có người đã được biến đổi.

Quán nước Quà vẫn ở gần nhà chị Tâm. Viễn thỉnh thoảng vẫn đến đó để uống một ly cà phê ấm. Chẳng ai biết ai nhưng có ai biết một lúc nào đó họ cùng có mặt trong quán và cùng chiêm ngẫm về những điều kỳ diệu vẫn diễn ra trong cuộc sống. Biết đâu lúc Viễn đang ngồi nhìn ra khung cửa sổ cuối phố nghĩ về những món quà do Đấng Yêu Thương nhờ anh chuyển giúp thì đâu đó trong quán nước này có một người khác đang thầm nghĩ: Người chuyển quà đúng là một lời tỏ tình đặc biệt của Người Tặng Quà gửi đến trong dòng đời. Và một nụ cười nhẹ nở trên môi.

Giuse Việt

[200A+V614]



Blog: http://only3minutes.wordpress.com/

BTT CGVN xin hân hạnh giới thiệu tác phẩm "Ngủ Trên Sóng" của tác giả Cát Thường.

Tác giả Cát Thường chính là bút hiệu của Lm. Giuse Tuấn Việt, O.Carm, một linh mục rất gần gũi với các ban trẻ, và luôn hướng lòng về với các bạn trẻ. Ngủ trên Sóng không phải chỉ là một kinh nghiệm sống của một đời thường, nhưng là của một tâm hồn có niềm tin mãnh liệt vào Đức Kito, Đấng đã làm nên mọi sự và vẫn còn đang tiếp tục đồng hành với bất cứ ai tin theo Ngài.

Các bạn có thể tìm gặp tập sách nhỏ rất dễ thương này tại các nhà sách công giáo. Nếu bạn thực tâm muốn đi tìm bình an hạnh phúc trong cuộc đời luôn đầy biến động này, hãy cùng với Cát Thương  chia sẽ "Ngủ Trên Sóng"

Chúc nhau bình an và thật nhiều may mắn.

BBT CGVN

VỀ MỤC LỤC



tải về 0.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương