chúng ta trực tiếp được chấp nhận cho những
giá trị rộng hơn và phổ quát hơn mà nó mang
đến trong những ý nghĩ của chúng ta.” - Georg
Wilhelm Friedrich Hegel (8, tr.143).
Về cơ bản, các quan điểm trên không mâu
thuẫn với quan điểm của các nhà nghiên cứu
được xem là cha đẻ của kí hiệu học và ngôn
ngữ học hiện đại (Charles Sanders Pierce và
Fedinand de Saussure), rằng: biểu tượng là
“một cái gì đó thay thế hoặc diễn giải cho một
cái khác” (something stands for something).
Theo đó, cấu trúc của biểu tượng (cũng giống
như cấu trúc của một kí hiệu) gồm
cái biểu đạt
(signifier) và
cái được biểu đạt (signified).
Cái
biểu đạt được hiểu là các sự vật, hiện tượng,
ý niệm được sử dụng như là mặt hình thức kí
hiệu của biểu tượng (còn gọi là
cái thay thế,
vật đại diện…);
cái được biểu đạt là nội dung
ý nghĩa được biểu đạt qua cái biểu đạt. Tuy
nhiên, cần thiết phải nhấn mạnh tính đặc biệt
của kí hiệu biểu tượng so với các kí hiệu thông
thường khác bởi một số lí do sau:
Thứ nhất, nếu các ký hiệu thông thường đơn
giản và có thể ví như cánh cửa đi vào thế giới
vật thể của ý nghĩa (các hình ảnh và khái niệm)
thì biểu tượng là cánh cửa dẫn vào thế giới phi
vật thể của các ý niệm.
Thứ hai, nếu mối quan hệ giữa
cái biểu đạt
và
cái được biểu đạt của các tín hiệu quy ước
thông thường là võ đoán (không có lí do) thì mối
quan hệ giữa
cái biểu đạt và
cái được biểu đạt
của kí hiệu biểu tượng thường có lí do.
Thứ ba, bản chất biểu tượng bộc lộ ở “Sự ứ
tràn của nội dung ra ngoài dạng biểu đạt của
nó” hay nói cách khác, “Chỉ một cái biểu đạt
giúp ta nhận thức ra nhiều cái được biểu đạt;
hoặc giản đơn hơn, cái được biểu đạt dồi dào
hơn cái biểu đạt”(1, tr. 27).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: