Bài thi tìm hiểu 70 năm thành lập QĐnd việt Nam và 25 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân


Chiến dịch Bình Giã: Diễn ra từ ngày 2 tháng 12 năm 1964 đến ngày 3 tháng 1 năm 1965



tải về 285.66 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích285.66 Kb.
#28954
1   2   3   4

1. Chiến dịch Bình Giã: Diễn ra từ ngày 2 tháng 12 năm 1964 đến ngày 3 tháng 1 năm 1965.

Dựa trên khả năng thực tế của chiến trường miền Nam, Trung ương Cục đề ra nhiệm vụ năm 1964-1965 là tiến công liên tục, kiên quyết làm thất bại kế hoạch Mác Namara, tạo điều kiện mở ra cục diện mới, tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Thực hiện chủ trương này, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch trên địa bàn miền Đông Nam Bộ; lấy Bình Giã làm điểm quyết chiến của chíên dịch, nên gọi là “chiến dịch Bình Giã”. Bộ Chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí: Lê Văn Tưởng chính uỷ, Nguyễn Văn Bứa chỉ huy phó, Lê Xuân Lựu phó chính uỷ, Nguyễn Hoà tham mưu trưởng.

Chiến khu Đ là hậu phương trực tiếp đồng thời là bàn đạp của chiến dịch quan trọng này.

Để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch, các đoàn hậu cần khu vực 81 của Miền tại Chiến khu Đ cùng đoàn quân nhu Khu E và các hội đồng cung cấp tỉnh Phước Thành, Biên Hoà, Bà Rịa chuẩn bị lương thực đảm bảo cho 7.000 quân tập trung huấn luyện tại Chiến khu Đ và hành quân xuống chiến trường. Đoàn hậu cần còn kết hợp với các tỉnh miền Đông thành lập các đội dân công hoả tuyến, thanh niên xung phong tải thương, tải đạn, các đội phẫu thuật cứu chữa thương binh. Trong một thời gian ngắn, được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, ta đã chuẩn bị được 217 tấn gạo, đảm bảo cho chiến dịch mở màn đúng thời gian.

Lực lượng chủ công của chiến dịch gồm 2 trung đoàn: Q761 và Q762 của Miền, từ Chiến khu Dương Minh Châu và Long Nguyên vượt đường 13 tập kết về Chiến khu Đ để học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Sau đó 2 đơn vị vượt sông Đồng Nai qua đường 20, đường 1, hành quân liên tục ngày đêm về phía đông và bí mật tập kết ở lộ 2.

Sau khi nghiên cứu kỹ địa hình ở khu vực Bà Rịa, Bộ chỉ huy chiến dịch đề nghị Bộ Chỉ huy Miền chấp thuận mở màn là “ấp chiến lược Bình Giã”, với ý đồ kéo chủ lực địch đến đây để tiêu diệt.

Ấp chiến lược Bình Giã có hơn 400 giáo dân di cư bị địch lừa hỉnh tuyên truyền đầu độc tư tưởng “chống cộng”, đa phần có gia đình là sĩ quan, binh lính nguỵ. Nếu bị ta tiến công, địch buộc phải chiếm lại Bình Giã và giải vây chi khu quân sự Đức Thạnh bằng mọi giá.

Theo đúng kế hoạch, đêm 4-12-1964, các đơn vị nổ súng tiến công Bình Giã và pháo kích chi khu Đức Thạnh. Địch chống trả hết sức quyết liệt nên đến sáng, ta chỉ chiếm được hai phần ba ấp. Địch cho trực thăng đổ quân xuống cứu viện. Q762 vận động kịp thời đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 38 và 1 đại đội bảo an, buộc địch phải tháo chạy về ấp Ngãi Giao ven lộ 2. Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương gài thế buộc địch kéo thêm lực lượng đến để ta tiêu diệt…

Chiến dịch tiếp diễn từ 7-12 đến 20-1-1965, sau gần 100 ngày chiến đấu liên tục, bộ đội chủ lực kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị của quần chúng, đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.755 tên địch; đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn biệt động quân, 1 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến, 1 chi đoàn thiết xa M113, 2 đoàn xe cơ giới, 7 đại đội bảo an, phá huỷ 45 xe các loại, bắn rơi và bắn bị thương 55 máy bay, thu trên 1.000 súng và 100 máy thông ti; bắt 293 tù binh.

Kết hợp với mũi tiến công quân sự, nhân dân phá banh, phá rã nhiều ấp chiến lược dọc lộ 2, ven biển Hàm Tân. Hầu hết lực lượng dân vệ tan rã. Ta giải phóng vùng này và toàn bộ huyện Hoài Đức, mở rộng căn cứ từ Hắc Dịch và đông tây lộ 2 nối lên Chiến khu Đ với tỉnh Bình Thuận của Khu 6, mở ra các bến tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc chi viện cho chiến trường Nam bộ.

Một lần nữa chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của Mỹ bị thất bại. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, ta diệt đơn vị nguỵ cấp tiểu đoàn, trong đó có tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ thuộc lực lượng tổng trù bị của Sài Gòn.

Chiến thắng Bình Giã thể hiện một bước phát triển nhảy vọt của lực lượng vũ trang giải phóng, khẳng định vai trò vị trí Chiến khu Đ đối với các chiến dịch lớn ở miền Đông.

Về thắng lợi của chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định: “Chiến thắng Bình Giã đánh dấu sự thất bại về căn bản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.



2. Chiến dịch Ba Gia: Diễn ra từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 20 tháng 7 năm 1965.

Được sự chỉ đạo của trên, lực lượng vũ trang quân khu 5 nhanh chóng triển khai chiến dịch ‘Tây Sơn Tịnh’ (Quảng Ngãi), tiến công cứ điểm Gò Cao (còn gọi là cứ điểm Ba Gia), mục đích tiêu diệt một bộ phận lực lượng của sư đoàn 25 nguỵ.

Đêm 29 tháng 5 năm 1965 ta mở màn chiến dịch, trung đội bộ đội địa phương huyện Sơn Tịnh tiến công đồn dân vệ Phước Lộc nhằm thu hút tiểu đoàn 1(trung đoàn 51) nguỵ từ Ba Gia đến giải toả, tạo thế cho trung đoàn 1 bộ đội chủ lực quân khu vây diệt toàn bộ tiểu đoàn này.

Ngày 30 tháng 5, Quân đoàn 1 nguỵ vội điều tiểu đoàn 39 biệt động quân, tiểu đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ và tiểu đoàn 2 (thuộc trung đoàn 51) lập thành một chiến đoàn hành quân giải toả Ba Gia.

Trung đoàn 1 được tăng cường tiểu đoàn 45 bộ binh độc lập của quân khu, tập trung lực lượng đánh trận then chốt chiến dịch, tiêu diệt cơ bản chiến đoàn nguỵ trên trục đường từ Sơn Tịnh đến Ba Gia, sau đó tập kích diệt các bộ phận còn lại của chúng ở các vị trí Chóp Nón, Phước Lộc, điểm cao 47, Mã Tổ.

Tiếng súng tiến công địch vừa dứt, ngày 3 tháng 6, các Đảng bộ địa phương đã huy động 10 vạn người kéo vào thị xã hỏi tin tức, đòi chồng con… gây náo loạn lớn. Nhân cơ hội đó, lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị của quần chúng phối hợp hoạt động bức hàng, bức rút hàng chục đồn bốt, phá tan từng mảng “ấp chiến lược”, giải phóng phần lớn nông thôn đồng bằng và miền núi tỉnh Quảng Ngãi (các đợt hoạt động này còn kéo dài đến 20 tháng 7 năm 1965).

Từ ngày 4 tháng 7 đến 20 tháng 7 năm 1965, ta mở đợt 2 chiến dịch tiến công xoá sổ hoàn toàn đồn Ba Gia, giải phóng 3 xã trên trục đường dài 11km từ Trà Bồng đến Bà Lãnh.

Như vậy, lần đầu tiên trên chiến trường khu 5, một trung đoàn chủ lực quân giải phóng diệt một chiến đoàn chủ lực địch (trong đó có một chiến đoàn thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược của chúng), đánh bại biện pháp ứng chiến giải toả nhanh bằng đơn vị cấp chiến đoàn của chủ lực nguỵ. Chiến thắng này thể hiện sự lớn mạnh và tài nghệ đánh tiêu diệt của quân giải phóng miền Nam.

Sau chiến thắng trung đoàn 1 chủ lực Quân khu 5 vinh dự được mang tên trung đoàn Ba Gia.

3. Chiến dịch Plâyme: Diễn ra từ ngày 19 tháng 10 đến ngày 26 tháng 11 năm 1965.

CHIẾN DỊCH PLÂYME - IA ĐRĂNG (19.10 - 26.11.1965): những trận chiến đấu đầu tiên giữa 3 trung đoàn Quân Giải phóng Tây Nguyên với sư đoàn kị binh bay Mĩ ở thung lũng Ia Đrăng. Chia làm hai đợt.

Đợt 1 (19 - 23.10): bao vây căn cứ Plâyme (căn cứ của lực lượng đặc biệt Mĩ), phục kích tiêu hao nặng chiến đoàn thiết giáp đến ứng cứu. Đợt 2 (1 - 26.11): Quân Giải phóng chuyển sang đánh quân đổ bộ đường không đến ứng cứu. Ngày 1.11, đánh tan một đại đội kị binh bay ở tây Plâyme; ngày 3.11, diệt gần hết một đại đội kị binh bay đổ bộ đường không xuống gần biên giới Cămpuchia và một đại đội khác ở bắc Plâyme 13 km. Ngày 12.11, tập kích sân bay dã chiến ở đồn điền chè Bàu Cạn và sở chỉ huy Lữ đoàn 3 gần đó. Ngày 14.11, phục kích một tiểu đoàn kị binh bay đổ bộ xuống Chư Prông (cách Plâyme 25 km về phía tây) và đón đánh một tiểu đoàn khác đổ bộ xuống ứng cứu cho tiểu đoàn trước. Bị căng ra nhiều hướng và bị đánh thiệt hại khắp nơi, hai cánh quân sau này phải rút theo đường bộ về thung lũng Ia Đrăng (cách Chư Prông 5 km) và đến 17.11, bị Quân Giải phóng phục kích, loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn (Lữ đoàn 3) của quân Mĩ. Đây là chiến dịch đánh Mĩ đầu tiên ở Tây Nguyên trong Kháng chiến chống Mĩ.

4. Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Gian - xơn - xi - ty: Diễn ra từ ngày 22 tháng 2 đến ngày 15 tháng 4 năm 1967.

Mặc dù bị thất bại nặng nề trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất (1965-1966), nhưng với ảo vọng giành thắng lợi quân sự để giải quyết cuộc chiến tranh ở miền Nam nước ta, vì thế mới bước vào mùa khô 1966-1967 quân Mỹ đã thực hiện cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, tập trung đánh vào vùng Đông Nam Bộ, trọng điểm là căn cứ bắc Tây Ninh (căn cứ khu B), hòng nhanh chóng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực, bịt chặt biên giới, phá nát căn cứ kháng chiến của ta, mở rộng vành đai an ninh cho Sài Gòn. Để bảo đảm chắc ăn, chúng huy động tổng lực cả lính Mỹ và quân nguỵ dồn sức vào cuộc càn lớn mang tên Gian-xơn-xi-ty, hy vọng cố giành chiến thắng để cổ suý cho âm mưu hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định”.

Thực hiện quyết tâm của Bộ và Nghị quyết 4 của Trung ương Cục về nhiệm vụ đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của địch trong năm 1967, mục tiêu bẻ gãy cuộc hành quân Gian-xơn-xi-ty, vì đây là cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ ở vùng Đông Nam Bộ. Nhưng cái khó rất lớn của căn cứ khu B là địa bàn ở đây rất ít dân, vùng trung tâm căn cứ không có dân, chỉ có cơ quan dân, chính, đảng và bộ đội. Vì thế Bộ tư lệnh chiến dịch (các đồng chí Trần Văn Trà, Nguyễn Văn Linh, Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm) đã nhanh chóng xác định phương châm tác chiến, xoay chuyển tình hình, tạo thế trận mới để phù hợp với địa bàn, bảo đảm giành thắng lợi trong trận chiến không cân sức này. Trước mắt du kích, cơ quan, bộ đội địa phương và bộ đội bảo vệ căn cứ kiên quyết bám trụ đánh địch tại chỗ bảo vệ an toàn cơ quan. Bộ đội chủ lực cơ động phối hợp cùng du kích, lực lượng cơ quan đánh nhỏ, đánh vừa từng bước tạo điều kiện đánh lớn tiêu diệt từng tiểu đoàn, chiến đoàn địch bằng tập kích, phục kích, bẻ gãy bằng được các mũi hành quân của chúng. Cùng lúc ấy Bộ chỉ huy Miền đã kịp thời điều chỉnh 3 tiểu đoàn bảo vệ căn cứ cùng lực lượng cơ quan tổ chức thành từng đại đội bổ sung xuống các cơ sở trực tiếp chiến đấu. Với phương thức mỗi cơ quan từ 20 đến 30 người tổ chức thành một ấp có một tiểu đội du kích, từ 2 đến 3 ấp hợp thành một xã. Cứ như thế xã có 3 đội du kích, huyện có đại đội cơ động. Mỗi đơn vị, cơ quan phải đào hầm bí mật tích trữ lương thực thực phẩm, bảo toàn tính mạng.

Ngày 22-2-1967, cuộc càn lớn mang tên Gian-xơn-xi-ty bắt đầu. Sau hàng trăm lượt máy bay chiến đấu (có cả máy bay B.52) ném bom dọn bãi, chúng đổ xuống đây lữ đoàn dù 173. Liên tiếp hơn 200 lần máy bay lên thẳng từ Minh Thạnh đổ hai lữ đoàn xuống Sóc Mới, Rùm Đuôn… Nhưng mới chỉ sau 6 ngày hành quân (28-2) từ các hướng nhỏ lẻ Sê Lô, Rùm Đuôn, Ang Khắc, Sóc Ky, Tà Đạt… du kích cơ quan Trung ương Cục cùng bộ đội địa phương đã gây cho chúng nhiều thiệt hại, buộc chúng phải đưa 1/3 lực lượng chiến đấu ra để bảo vệ các tuyến đường vận chuyển, các căn cứ hành quân. Trong khi đó ta vẫn chủ động với chủ trương sử dụng bộ đội địa phương, du kích bám đánh địch, tiến công vào các chốt trú quân, đánh vào các trục đường vận chuyển, phối hợp với bộ đội chủ lực tiến công mạnh vào hai bên sườn, tạo điều kiện tập kích lớn, tiêu diệt lớn quân địch. Sau nhiều lần đánh vào Tà Đạt không thành, lại bị tiêu hao nặng, quân Mỹ co cụm lại chốt ở dọc các lộ 22, 4 và lộ ủi. Chiến đoàn A thủy quân lục chiến nguỵ cùng lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn 25 Mỹ càn quét khu vực Tà Bằng, xóm Giữa (phía tây lộ 22). Lập tức bị du kích các cơ quan binh vận, phòng công binh, du kích Tà Đạt, Giếng Thi, xã H.19 liên tục bám đánh nhỏ, tiêu hao quân, chặn bước tiến.

Để bảo đảm việc “đánh dập” “bẻ gãy” cuộc hành quân này, theo kế hoạch, Sư đoàn 9 được pháo binh yểm trợ thực hiện trận quyết định chọc thủng tuyến bộ binh cơ giới vòng ngoài, đánh thọc sâu làm tê liệt sở chỉ huy của địch. Sau 3 giờ chiến đấu sư đoàn 9 đã tiêu diệt gọn một tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo và 3 chi đoàn cơ giới. Loại khỏi vòng chiến đấu hơn một nghìn tên Mỹ, bắn rơi 8 máy bay, phá huỷ 18 khẩu pháo, 72 xe quân sự, thu nhiều đồ dùng quân dụng. Phát hiện thấy dấu hiệu địch rút quân, ta thực hành tổ chức bao vây chặt, đánh chặn đường lui, hiệu quả nhất là các hướng Trại Bí, Mỏ Cày, suối Ông Hùng, trục đường 4 và 22. Làm cho địch phải kéo quân rút khỏi Trảng Ba Vũng, Bàu Trăm, Bàu Cột, sóc Con Trăng, kết thúc thảm bại cuộc càn rầm rộ Gian-xơn-xi-ty. Không tìm diệt được cơ quan đầu não kháng chiến, không tìm diệt được các đơn vị chủ lực của ta, không phá được căn cứ kháng chiến, không bịt được biên giới. Ngược lại ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 15 nghìn tên (chủ yếu là quân Mỹ), phá hỏng hàng nghìn xe quân sự, hàng trăm khẩu pháo, máy bay bị bắn cháy và phá hủy.

Đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn-xi-ty của Mỹ là một thắng lợi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, mở đầu cho chiến dịch đông xuân 1966-1967, củng cố niềm tin, khẳng định ý chí quyết chiến quyết thắng của bộ đội ta trong điều kiện địch mạnh hơn ta gấp bội cả về lực lượng và trang bị vũ khí. Thắng lợi trong chiến dịch này là sự vận dụng tốt yếu tố bất ngờ, áp sát địch, đánh và giành thắng lợi trong thời gian ngắn… Đặc biệt là biết tạo ra thế chiến tranh nhân dân ở một địa bàn ít dân và không có dân. Trong bối cảnh bị địch áp đảo về lực lượng, ta đã khéo léo tổ chức các cơ quan dân, chính, đảng thành những đơn vị dân quân du kích, tự vệ. Thế chiến tranh nhân dân do ta chủ động tạo nên ở một địa bàn không có dân là một điều bất ngờ lớn đối với địch.



5. Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh: Diễn ra từ ngày 20 tháng 1 đến ngày 15 tháng 7 năm 1968.

Chiến dịch Khe Sanh được tiến hành theo 4 đợt chiến đấu liên tục và quyết liệt:

Ngày 21-1: Mặt trận Khe Sanh mở đầu bằng trận tiến công tiêu diệt chi khu quân sự Hưng Hóa. Ngày 7-2, quân ta lại diệt cứ điểm Làng Vây. Từ ngày 8-2 đến ngày 31-3, quân giải phóng vây hãm cụm cứ điểm Tà Cơn. Tháng 4 quân giải phóng lại đánh bại “cuộc hành quân Ngựa bay” hòng cứu nguy đồng bọn đang bị vây hãm ở Khe Sanh. Trong trận đánh ở đồi 595 ngày 6 và 7-4, năm chiến sĩ giải phóng đã đánh thắng 4 đại đội Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên, bắn rơi và bắn hỏng 3 máy bay. Từ tháng 5 đến tháng 9, quân dân tiếp tục vây hãm bọn lính thủy đánh bộ Mỹ ở Khe Sanh. Bị thiệt hại nặng nề, trước tình thế bị bao vây, cô lập, bắt đầu từ ngày 26-6, giặc Mỹ đã buộc phải rút bỏ Khe Sanh. Ngày 9-7, quân ta đã chiếm Tà Cơn, vị trí trung tâm của căn cứ Khe Sanh.

Sau 170 ngày đêm chiến đấu liên tục và vô cùng anh dũng, quân giải phóng mặt trận Khe Sanh đã chiến thắng oanh liệt, buộc Mỹ phải chịu thất thủ Khe Sanh. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 17.000 tên địch, trong đó có 1.300 tên Mỹ; bắt sống hàng trăm tên khác; tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đòan Mỹ, 1 chiến đòan dù và tiểu đòan thuộc lực lượng đặt biệt ngụy, 39 đại đội Mỹ - ngụy; bắn rơi và phá hủy 480 máy bay các loại, phá hủy hàng trăm xe quân sự, hơn 60 khẩu pháo, phá hủy hơn 50 kho xăng, đạn, thu hàng ngàn súng các loại, hàng trăm tấn lương thực.

Trong thư gửi Luật sư Nguyễn Hữu Thọ và Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam ngày 13-7-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cuộc thắng lợi của ta ở Khe Sanh tỏ rõ mưu lược và sức mạnh vô địch của quân, dân và cán bộ ta, nó góp phần xứng đáng vào thắng lợi to lớn của toàn dân miền Nam từ đầu xuân đến nay. Cùng với những thắng lợi to lớn của ta ở các chiến trường khác, nó mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa”.

(Nguồn:Trần Quỳnh Cư, Nguyễn Hữu Đạo, Đỗ Thị Nguyệt Quang 2003, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945-1975), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 352.)

6. Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào: Diễn ra từ ngày 30 tháng 1 đến ngày 23 tháng 3 năm 1971.

Ngày 30-1-1971, Mỹ bắt đầu thực hiện kế hoạch – Cuộc hành quân “Lam Sơn 719” , mở đường số 9 đến biên giới và sử dụng Khe Sanh làm sân bay trực thăng. Tướng Abơram, Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam cùng Thiệu huy động lúc cao nhất có 15 trung đoàn bộ binh, hai trung đoàn thiết giáp, 21 tiểu đoàn pháo binh, hơn 700 máy bay, 4 tiểu đoàn quân ngụy Lào gồm trên 42.

Ngày 30-1-1971, Mỹ bắt đầu thực hiện kế hoạch – Cuộc hành quân “Lam Sơn 719” , mở đường số 9 đến biên giới và sử dụng Khe Sanh làm sân bay trực thăng.

Tướng Abơram, Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam cùng Thiệu huy động lúc cao nhất có 15 trung đoàn bộ binh, hai trung đoàn thiết giáp, 21 tiểu đoàn pháo binh, hơn 700 máy bay, 4 tiểu đoàn quân ngụy Lào gồm trên 42.000 quân cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác. Riêng ở mặt trận Khe Sanh, quân địch có khoaûng 23.000 tên; trong đó có 15.000 tên Mỹ, 200 đại bác và súng cối, hơn 1.000 xe quân sự rải khắp đường số 9 dài khoảng 70 km từ Đông Hà đến Lao Bảo. Đây là cuộc hành quân lớn nhất, điển hình của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Tập trung một lực lượng lớn gồm 60.000 cán bộ, chiến sĩ thuộc nhiều binh chủng và nhiều phương tiện chiến tranh nhằm quyết tâm đánh bại chiến dịch “Lam Sơn 719” của Mỹ - Ngụy.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên BCT, Phó bí thư QUTƯ, Tổng tham mưu trưởng là đại diện của QUTƯ và Bộ Tổng tư lệnh tại mặt trận. Bộ chỉ huy chiến dịch: thiếu tướng Lê Trọng Tấn – Phó Tổng tham mưu trưởng làm tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo – Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy.

Sau hơn một tháng phản công, trong đó có nhiều trận chiến đấu ác liệt, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên hai vạn tên địch, đánh thiệt hại nặng 6 trung đoàn, lữ đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh; phá hủy 1.100 xe, hơn 100 khẩu pháo lớn, bắn rơi 550 máy bay. Ta bắt hơn 1.000 tù binh, thu 3.000 khẩu súng các loại và nhiều trang bị quân sự. Quân đội Sài Gòn bị một đòn tiêu diệt nặng.

Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân đội ta thực hành thắng lợi một chiến dịch phản công quy mô lớn bằng các lực lượng binh chủng hợp thành.

Ngày 31-3-1971, lực lượng tham gia chiến dịch được BCHTƯ Đảng gửi thư khen: “Đánh giỏi, thắng giòn giã, lập chiến công xuất sắc”.

(Nguồn:Trần Quỳnh Cư, Nguyễn Hữu Đạo, Đỗ Thị Nguyệt Quang 2003, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945-1975), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 421.)

7. Chiến dịch Trị Thiên: Diễn ra từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 27 tháng 6 năm 1972.

Quảng Trị - Thừa Thiên là chiến trường được lựa chọn làm hướng tiến công chủ yếu trong Cuộc tổng tiến công chiến lược 1972 trên chiến trường miền Nam. Từ ngày 30-3 đến ngày 27-6-1972, ta mở chiến dịch tiến công, giải phóng tỉnh Quảng Trị và 3 xã thuộc tỉnh Thừa Thiên. Tiếp theo, từ ngày 28-6-1972, sau khi Mỹ trở lại dùng lực lượng không quân và hải quân chi viện cho quân chủ lực ngụy bắt đầu cuộc phản công quy mô lớn định chiếm lại vùng ta vừa giải phóng

Hướng tiến công chủ yếu Trị - Thiên năm 1972 diễn ra trong bối cảnh lịch sử rất đặc biệt là Hội nghị Pari bàn về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đang đi tới giai đoạn quyết định một giải pháp chính trị. Do đó, trên hướng tiến công chủ yếu này đã diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch. Mỗi bên đều tập trung nỗ lực cao nhất để giành thắng lợi lớn nhất nhằm làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho mình, phục vụ cho ý định chiến lược lâu dài, trong các giai đoạn tiếp sau. Hướng tiến công chủ yếu trong Cuộc tổng tiến công chiến lược 1972 trên chiến trường miền Nam đã bảo đảm các yêu cầu đặt ra:

Một là, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã lựa chọn và trực tiếp chỉ đạo các chiến dịch mở trong Cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972

Theo dõi sát mọi chuyển động trên chiến trường, trong nước, khu vực và thế giới có liên quan tới cuộc chiến tranh Việt Nam, tháng 5-1971, Bộ Chính trị đã họp để đánh giá tình hình, xác định thời cơ chiến lược và đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta: Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ.

Tháng 8-1971, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn trong năm 1972 trên toàn miền Nam nhằm vào ba hướng chính: Trị -Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Trong đó, chiến trường Trị - Thiên có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngự chiến lược ở miền Trung và Tây Nguyên của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Sau khi cân nhắc kỹ, đầu tiên miền Đông Nam Bộ được chọn làm hướng tiến công chủ yếu, rồi đến chọn Tây Nguyên và cuối cùng là chọn Trị - Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu.

Ngày 11-3-1972, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết về Kế hoạch chiến lược năm 1972, trong đó xác định: “Trị - Thiên từ vị trí là hướng phối hợp quan trọng nay chuyển thành hướng chiến lược chủ yếu nhằm tiêu diệt lực lượng lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới”. Trên hướng tiến công chiến lược chủ yếu Trị - Thiên, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy chiến dịch: Trung tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, Trung tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy. Đây là sự lựa chọn sáng suốt của Quân ủy Trung ương bởi địa bàn Trị - Thiên nằm sát với hậu phương lớn miền Bắc, việc tập trung binh lực, bảo đảm hậu cần, hệ thống giao thông lớn và đặc biệt là tập trung sự chỉ đạo cho một chiến dịch lớn mang ý nghĩa chiến lược tương đối thuận lợi.

Tiếp đó, ngày 15-3-1972, Đảng ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch họp triển khai kế hoạch tác chiến và nhấn mạnh: Trị - Thiên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngự chiến lược của địch. Mặc dù bị đánh đau, chúng không chịu từ bỏ một điểm nào. Từ cuối năm 1971, Mỹ - ngụy đã phán đoán hướng tiến công chiến lược năm 1972 của ta, tuy không phải là Trị - Thiên nhưng chúng vẫn tăng cường phòng vệ, ráo riết hành quân, phát hiện lực lượng và sự chuẩn bị của ta. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ta quyết định mở đợt tiến công hướng chính là Trị Thiên vào thời gian đúng như dự kiến là 30-3-1972 làm cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn hết sức lúng túng và phải thừa nhận: “Lực lượng của Việt cộng đó gây bất ngờ cho quân phòng thủ của Việt Nam cộng hòa và đồng minh Mỹ”. Trung tuần tháng 3-1972, Bộ Chính trị thông qua lần cuối và phê chuẩn kế hoạch tiến công trên hướng chủ yếu Trị - Thiên. Theo đó, các đơn vị đã vào vị trí tập kết để chiến dịch bắt đầu từ ngày 30-3 đến ngày 1-5-1972.

Trong quá trình diễn ra chiến dịch, địch có sức cơ động cao, có nhiều khả năng chuyển hóa so sánh lực lượng từ yếu thành mạnh trong thời gian ngắn, nên khi chọn hướng tiến công chủ yếu vào nơi địch yếu và sơ hở Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã tính đến khả năng đối phó của chúng khi ta không còn giữ được yếu tố bất ngờ.

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, bộ đội ta phải sử dụng chiến thuật phối hợp hỏa lực và vận động, dùng pháo binh, xe tăng dẫn đầu đánh tan những vị trí địch yếu kém. Các dàn súng phòng không cơ động đã ngăn không cho máy bay đến đúng tầm có thể yểm trợ, nhờ đó xe tăng của ta ào tới chiếm các mục tiêu của địch. Trong khi đó, các đơn vị quân đội Sài Gòn do không quen cầm cự với hỏa lực pháo tập trung và chưa được huấn luyện để chặn cuộc tiến công ồ ạt của xe tăng, nên đã tán loạn kinh hoàng trước cuộc tiến công thần tốc của ta.

Tại hướng tiến công chủ yếu Trị - Thiên, ta đã sử dụng phương pháp tác chiến tiến công thích hợp để tiêu diệt tập đoàn chủ yếu của địch, phá vỡ hệ thống phòng ngự kiên cố, kết hợp tiêu diệt địch và phá thế phòng thủ của chúng. Sau đó, ta dùng phương pháp tác chiến chủ yếu của nghệ thuật chiến dịch tiến công, tập trung đột phá trọng điểm trên hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch, tạo được ưu thế áp đảo nên ta đã giành thắng lợi hoàn toàn vào ngày 2-5-1972. Học giả người Mỹ W.R. Baker đã đánh giá: “Cộng sản tấn công với tốc độ nhanh và chính xác. Đây là những cuộc tấn công hướng tới thành Cổ Quảng Trị và quan trọng nhất là một số đơn vị của Cộng sản là lực lượng tại chỗ ngăn chặn bất kỳ sự nỗ lực nào của Việt Nam cộng hòa”.

Sau khi ta giải phóng Quảng Trị, trước yêu cầu về chính trị, Mỹ - ngụy vẫn cố gắng tập trung lực lượng lớn để tổ chức những cuộc tiến công mới nhằm chiếm lại toàn tỉnh Quảng Trị.

Đối với ta, ngay từ giữa tháng 7-1972, qua phân tích tình hình ta, địch, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo phương hướng chuyển chiến dịch vào phòng ngự. Trong điện số 118 - ĐK ngày 10-7 và điện số 144- ĐK ngày 18-7, đồng chí Văn (Bí danh đồng chí Võ Nguyên Giáp) chỉ rõ: “Trong khi thực hiện kế hoạch trước mắt, cần có ngay một kế hoạch tương đối cơ bản”. Liên tiếp các bức điện vào tháng 8, Quân ủy Trung ương cũng truyền đạt ý định tổ chức phòng ngự gọi là: “Kế hoạch tác chiến phòng thủ khu vực”, đồng thời giúp Bộ Chỉ huy chiến dịch tổ chức phòng ngự ở thị xã Quảng Trị.

Ngày 17-9-1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch: “Bộ đội ta rút khỏi thị xã là một sự lui quân có tính chất chiến thuật. Cần có nhận thức đầy đủ rằng đứng về phạm vi cả mặt trận thì cuộc chiến đấu của ta còn tiếp tục”. Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương thường xuyên chỉ đạo chiến dịch rất cụ thể, lưu ý Bộ Tư lệnh chiến dịch coi trọng việc chỉ đạo về cách đánh, về giữ vững trận địa, đặc biệt là khu vực Ái Tử - Đông Hà - Cửa Việt, về việc luân phiên tác chiến và đưa lực lượng ra phía sau củng cố. Trong các bức điện số 253-D, 276, ngày 22-9-1972 tiếp tục chỉ rõ nhiệm vụ của từng cánh quân.

Trong suốt tháng 9, với sự chỉ đạo ráo riết của Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh chiến dịch, các hướng mới thực sự quán triệt được yêu cầu phải xây dựng hệ thống trận địa phòng ngự, mới biết cụ thể cách thức xây dựng chốt, cụm chốt liên hoàn, cách bố trí sử dụng binh lực, hỏa lực. Trong bức điện số 233-Đ, Bộ Tổng Tham mưu chỉ rõ: “Tăng cường hỏa lực, xung lực, tổ chức tốt các khu vực phòng thủ thị xã, bảo đảm phòng thủ liên hoàn có chiều sâu. Chuẩn bị trận địa phòng không thật mạnh, đề phòng tình huống địch tập kích hóa học rồi đổ bộ bằng trực thăng”.

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, các đơn vị vừa khẩn trương xây dựng trận địa, vừa làm kế hoạch tác chiến phòng ngự, vừa điều chỉnh lực lượng, vừa tiếp tục chiến đấu. Đặc biệt là trên từng khu vực, nhất là khu vực trọng điểm đã dần dần hình thành hệ thống trận địa phòng ngự liên hoàn, có chiều sâu, tạo thế phòng ngự chắc từng khu vực, hình thành các khu vực phòng ngự sư đoàn, trong đó mỗi trung đoàn hình thành một khu vực trận địa liên hoàn, bao gồm các cụm điểm tựa tiểu đoàn, điểm tựa đại đội, trung đội, yểm hộ lẫn nhau, tạo thế cho nhau, có sự hiệp đồng chi viện của pháo mặt đất và pháo phòng không. Cách đánh cũng được xác định ở từng chốt, cụm chốt lên đến khu vực phòng ngự trung đoàn, sư đoàn nên ta đã giành thắng lợi.

Sự chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch sáng tạo, kiên quyết của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch, thể hiện bằng nghệ thuật tổ chức chiến trường, thế trận chiến dịch; cách đánh chiến dịch, chỉ đạo chiến thuật; khi lâm trận lúc thắng không dừng tiến công, khi khó khăn tổn thất không nao núng, mà đã từng bước chuyển hóa thế trận, từ tiến công chuyển vào phòng ngự.

Trong quá trình diễn ra chiến dịch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo cụ thể, sâu sắc để chiến dịch Trị - Thiên thắng lợi. Qua đó, có thể thấy được tác động to lớn của Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam, đặc biệt ở Quảng Trị là rất lớn, đáp ứng kịp thời và có hiệu quả yêu cầu của đấu tranh ngoại giao trên bàn hội nghị.

Hai là, hướng tiến công chiến lược Trị - Thiên 1972 là chiến dịch có quy mô lớn nhất (từ đầu kháng chiến chống Mỹ đến năm 1972) cả về không gian, thời gian, lực lượng sử dụng và mức độ ác liệt

Do vị trí đặc biệt của Trị - Thiên đối với cả địch và ta năm 1972, tại chiến trường này đã xảy ra sự đọ sức quyết liệt nhất giữa địch và ta, bên nào cũng nỗ lực cao nhất, tập trung mọi khả năng có thể có, để giành thắng lợi. Ta đã sử dụng một lực lượng lớn nhất từ trước đến lúc bấy giờ, bao gồm nhiều sư đoàn chủ lực, cả bộ binh và binh chủng kỹ thuật. Địch cũng đưa hầu hết các lực lượng tinh nhuệ và dự bị chiến lược vào cuộc đọ sức này. Quân ngụy miền Nam đã dùng lực lượng dự bị chiến lược tinh nhuệ nhất mới xây dựng được sau hai năm “Việt Nam hóa chiến tranh”; Mỹ ồ ạt triển khai trở lại lực lượng không quân (kể cả không quân chiến lược) và hải quân (bao gồm cả tàu sân bay của Hạm đội 7) để chi viện cho quân ngụy.

Các lực lượng của ta và địch tại Trị - Thiên gồm: Bộ binh: ta: 11 sư đoàn và 23 trung đoàn; địch: 13 sư đoàn và 11 trung đoàn, lữ đoàn; Pháo binh: ta: 5 trung đoàn và 7 tiểu đoàn; địch: 65 tiểu đoàn và 85 trung đội; Tăng, thiết giáp: ta: 4 tiểu đoàn; địch: 22 tiểu đoàn và 21 trung đội. Ngoài ra địch còn có 1692 máy bay chiến đấu các loại, 1611 hạm tàu. Các lực lượng của ta và địch đều được bố trí thành các cụm phòng ngự liên hoàn, có công sự kiên cố. Ở thời điểm đầu năm 1972, trên một hướng chiến lược chủ yếu cả ta và địch đã tập trung đến mức cao nhất về lực lượng để quyết chiến thắng.

Bắt đầu từ trưa ngày 30-3-1972, Sư đoàn 308 với sự yểm trợ của trung đoàn xe tăng và pháo binh vượt qua khu phi quân sự tại giới tuyến 17 chia cắt 2 miền. Từ phía Tây, Sư đoàn 324B, với xe tăng yểm trợ theo đường 9 từ Lào vượt qua Khe Sanh, tiến vào thung lũng sông Thạch Hãn. Lực lượng tương đương 3 sư đoàn này của ta đã “gây bất ngờ cho quân phòng thủ Việt Nam cộng hòa và đồng minh Mỹ”, sau đó làm tan rã lực lượng này. Trong thời gian từ ngày 2-4 đến ngày 29-4, quân ta chủ động tiến công trên nhiều hướng và đến trưa ngày 1-5-1972, Chuẩn tướng Vũ Văn Giai (Tư lệnh Sư đoàn 3 ngụy) bỏ chạy khỏi Quảng Trị. Từ Huế, tại đồn Mang Cá, Trung tướng Hoàng Xuân Lãm xúc động mạnh và nói: “Tối nay, địch (Việt cộng) sẽ vào Quảng Trị mà không tốn thêm một viên đạn nào” và tình báo Mỹ có trụ sở tại Đà Nẵng, trong báo cáo đã viết: “Về cơ bản, các lực lượng quân đội Bắc Việt đã chiến thắng nhanh như chớp. Quân đội Việt Nam cộng hòa ngạc nhiên khi quân đội Bắc Việt sử dụng lực lượng trong các cuộc tiến công”.

Từ 30-3 đến 1-5-1972, quân và dân Quảng Trị đã quét sạch hệ thống phòng ngự kiên cố nhất và đập tan bộ máy kìm kẹp của Mỹ - ngụy từ sông Bến Hải đến sông Mỹ Chánh, từ Lao Bảo đến Cửa Việt. Báo Quảng Trị giải phóng, số ra ngày 4-5-1972 có đoạn: “Thắng lợi ở Quảng Trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nó tỏ rõ sự trưởng thành vượt bậc, sức mạnh to lớn của ta, chính quyền Mỹ bị sức ép mạnh của nhân dân Mỹ và dư luận thế giới” và giới quân sự ở Sài Gòn nhận định: “Thật khủng khiếp, Bắc Việt Nam sử dụng lực lượng ồ ạt như vũ bão trong các cuộc tiến công. Và rồi họ chiến thắng, bỏ xa quân đội Việt Nam cộng hòa”

Mặc dù từ đầu đến cuối chiến dịch, ta luôn giữ quyền chủ động chiến lược, chiến dịch, buộc địch phải bị động điều quân, làm cho thế bố trí chiến lược của chúng trên toàn miền Nam bị đổ vỡ, rối loạn, nhưng khả năng của ta có hạn, không thể đánh dứt điểm các mục tiêu như ý định ban đầu. Mặc dù vậy, cuộc đương đầu lịch sử đã phân rõ thắng bại.

Sau khi ta giải phóng Quảng Trị, đối tượng tác chiến của chiến trường Trị - Thiên từ tháng 5-1972 là quân tinh nhuệ nhất của ngụy và 2 quân chủng mạnh nhất của Mỹ. Ngoài ra, để chuẩn bị cho âm mưu lâu dài sau Hiệp định Paris, chỉ trong vài tuần lễ cuối tháng 11-1972, Mỹ đã ồ ạt đưa toàn bộ số viện trợ quân sự của cả năm 1973, trị giá hàng chục tỉ đô la vào cho quân ngụy. Đồng thời Mỹ đã chi viện hỏa lực cho ngụy quân lúc này còn cao hơn cả thời kỳ chi viện cho bộ binh Mỹ chiến đấu.

Cùng với sự viện trợ lớn nhất về vũ khí và tiền bạc, Mỹ - ngụy còn sử dụng một khối lượng bom đạn lớn nhất của cuộc chiến tranh để ném vào chiến trường Quảng Trị. Trong phạm vi một chiến dịch, hơn 2 phần 3 tổng số lần xuất kích của máy bay trên chiến trường Đông Dương địch dồn vào chiến trường này (có ngày tập trung cả 100% phi vụ B52), trong đó Mỹ đảm nhiệm 97% lực lượng không quân tham gia chi viện.

Mỹ - ngụy huy động toàn bộ lực lượng vào hướng tiến công chủ yếu Trị - Thiên, bởi vì, về quân sự, khu vực Nham Biều, Ái Tử, Đông Hà nằm trên các trục đường chủ yếu, trong đó có đường số 1, đường số 9, đường sông, sân bay. Chiếm được khu vực này địch có một bàn đạp lợi hại để tiếp tục đánh ra vùng giải phóng của ta. Nhưng mọi cố gắng của địch đều không làm thay đổi được tình hình mà chỉ trực tiếp làm cho cuộc chiến đấu ở Quảng Trị, cả tiến công và phòng ngự đều diễn ra quyết liệt, gay go, phức tạp kéo dài, gây nên những hao tổn lớn cho cả ta và địch và kết thúc vào ngày 31-1-1973.

Ba là, thắng lợi của hướng tiến công chiến lược Trị - Thiên 1972 là đòn quân sự mạnh, có tính quyết định, góp phần vào đòn tiến công chính trị buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris năm 1972 theo các điều kiện Việt Nam đưa ra

Mục đích của Mỹ ở thời điểm năm 1972 này là chúng vừa đánh vừa đàm, lấy thắng lợi ở chiến trường làm điều kiện ưu thế trong thương lượng, lấy Trị - Thiên làm chiến trường chủ yếu đọ sức với ta để giành thắng lợi chiến lược trong bước ngoặt lịch sử quan trọng. Bên cạnh đó, yêu cầu chính trị của giới cầm quyền Mỹ trước cuộc tranh cử Tổng thống cuối năm 1971, rồi trước nguy cơ sụp đổ của ngụy quân và ngụy quyền, Mỹ rất muốn có một thắng lợi lớn về chiến lược để chứng minh cho sự đúng đắn hoặc sức mạnh của cái gọi là: “Học thuyết Ních - xơn” và kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, những mục tiêu chiến lược ấy thúc ép Mỹ trở lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam bằng mọi giá. Bởi vậy, một mặt Mỹ ra sức tăng cường viện trợ tiền của, phương tiện chiến tranh, tiến hành mọi biện pháp ngoại giao để cứu nguy cho quân ngụy, mặt khác chấp nhận ồ ạt trở lại tham chiến bằng không quân và hải quân trên quy mô lớn hòng xoay chuyển lại tình hình.

Trước tình hình đó, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của địch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tính đến mọi nỗ lực cao nhất của chúng về chiến lược và thủ đoạn chính trị, ngoại giao, thấy rõ ý đồ chung của Mỹ - ngụy, ý đồ riêng của Mỹ. Vì vậy, việc quyết định chọn hướng tiến công chủ yếu Trị - Thiên là thời cơ mở ra cho chúng ta triển vọng giành thắng lợi lớn trong năm 1972; đồng thời cũng đòi hỏi chúng ta phải cố gắng ở mức cao nhất nhằm giành được thắng lợi lớn nhất, từ thắng lợi quân sự tạo sức ép buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, phải rút hết quân đội Mỹ và đồng minh về nước và ngụy quân, ngụy quyền suy yếu một bước nghiêm trọng. Để đạt được mục tiêu chiến lược đó, chúng ta đã thành công trong chủ động căng, kéo, phân tán lực lượng địch ra để quyết chiến và từng bước tiêu diệt chúng theo ý đồ chiến lược của ta; từ đó ta tạo được ưu thế trong đàm phán và thúc đẩy đàm phán với Mỹ để sớm đi tới một giải pháp chính trị, kết thúc cuộc chiến tranh theo điều kiện của Việt Nam đưa ra, đồng thời vẫn giữ được “thể diện” và “danh dự” cho phía Mỹ.

Nhiệm vụ của hướng tiến công chủ yếu Trị - Thiên rất nặng nề. Về mặt chính trị, thị xã Quảng Trị bao gồm cả thành Cổ, là mục tiêu có tính tượng trưng nhất mà địch cố chiếm bằng được nhằm giành lợi thế ở Hội nghị Paris, nó còn có ý nghĩa tuyên truyền kích động binh sĩ địch và lừa bịp dư luận thế giới lấy lại “danh dự” của chúng sau thất thủ Quảng Trị tháng 5-1972. Vì vậy, ta vừa phải phối hợp tác chiến nhịp nhàng, chặt chẽ với các hướng chiến trường khác để đạt cho được mục tiêu chiến lược đề ra, lại vừa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao để giành thắng lợi trên bàn đàm phán. Để đạt được yêu cầu đó, chúng ta chủ động mở Cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972 trên ba hướng; kiên quyết chấp nhận cuộc đọ sức tổng lực ở cường độ cao với địch trên chiến trường Quảng Trị. Đồng thời chỉ đạo quân và dân miền Bắc chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đập tan cuộc tập kích đường không bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố lớn ở miền Bắc.

Thực hiện nhiệm vụ nặng nề ấy, tại chiến trường Trị - Thiên năm 1972 ta chủ động mở chiến dịch, tiến hành chuẩn bị chiến trường chu đáo, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi, bảo đảm các mặt vật chất tương đối đầy đủ, có lực lượng chiến dịch sung sức với lực lượng dự bị chiến dịch mạnh; có điều kiện chín muồi kết hợp giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng nên ta có thể tranh thủ được khả năng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng toàn chiến trường Quảng Trị - Thừa Thiên trong phạm vi một chiến dịch tiến công quy mô lớn; trên cơ sở thực tế điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch đã có những chuyển biến mới có lợi cho ta trên chiến trường này.

Thực tế, cuộc đấu tranh ngoại giao giữa ta và Mỹ đã kéo dài suốt cả năm 1972, rất quyết liệt và đầy căng thẳng, mặc dù Mỹ đã lâm vào thế thất bại nhưng vẫn cố vùng vẫy để “mặc cả” với ta theo những điều kiện của chúng đưa ra. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ta đã họp bàn và giải pháp đưa ra là cần phải tiến hành một loạt chiến dịch kế tiếp nhằm tạo ra một đòn mạnh về quân sự buộc địch phải chấp nhận thất bại trên chiến trường, mà bắt đầu bằng chiến dịch tiến công tại Quảng Trị. Đúng như dự kiến của Trung ương Đảng, khi kết thúc chiến dịch, bản báo cáo từ Sài Gòn gửi về Washington của địch đã phơi bày: “Quân Bắc Việt đã chiến thắng trên chiến trường Quảng Trị. Giờ đây, bàn Hội nghị tại Pari không còn có sức hút đối với Mỹ nữa…”

Việc giải phóng tỉnh Quảng Trị, một địa bàn chiến lược tiếp giáp miền Bắc xã hội chủ nghĩa cùng với một số dân được giải phóng sau hơn 18 năm dưới ách kìm kẹp của kẻ thù, nhân dân phấn khởi ra sức củng cố địa phương và tham gia kháng chiến, thực sự tạo ra lợi thế mới trong cuộc đấu tranh chính trị tại Hiệp định Paris. Cũng qua thắng lợi của chiến dịch đã đã đẩy lùi phần đất tạm thời do quân ngụy kiểm soát xuống phía Nam. Về mặt quân sự, vùng giải phóng Quảng Trị trở thành một địa bàn chiến lược - chiến dịch quan trọng với nhiều tuyến đường giao thông thủy, bộ thuận tiện. Đặc biệt, từ đây đã tạo thế để củng cố và bảo vệ vững chắc tuyến đường vận tải đường biển khá quan trọng với Cảng Cửa Việt - một trong những cảng lớn ở miền Trung.

Có thể nói, thắng lợi của chiến dịch Trị - Thiên khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, đúng đắn, kịp thời của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; sự chỉ đạo, chỉ huy chiến lược, chiến dịch sáng tạo, kiên quyết của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch đã phân tích và lường định đúng về tình hình, thời cơ, hạ quyết tâm mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam vào thời điểm có lợi nhất trên một hướng chiến lược quan trọng.

Việc chọn hướng tiến công chủ yếu Trị - Thiên năm 1972 đã giành thắng lợi to lớn, góp phần làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris, chấp nhận rút hết quân Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam nước ta, đẩy nhanh quân ngụy vào thế suy sụp mới. Đây là kết quả to lớn trên con đường tiếp tục thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, tạo nên thế chiến lược mới có lợi cho ta để đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi cuối cùng./.


Каталог: imgs -> Thu muc he thong -> Nam 2014
Nam 2014 -> Thứ hai ngày 1/12 năm 2014 Toán: Chia số có 3 chữ số cho số có 1 chữ số I mục tiêu
Nam 2014 -> ĐÁP ÁN ĐỀ ra kỳ NÀy tháng 12/2013 – khốI 12 Câu I: Trong mặt phẳng với hệ toạ độ Oxy, cho hình vuông abcd biết M(2;1)
Nam 2014 -> TRƯỜng th thanh tân cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Nam 2014 -> 1. Dân tộc ta tiến hành cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên vào thời nào, năm nào?
Nam 2014 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế SỞ giáo dục và ĐÀo tạo cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Nam 2014 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế
Nam 2014 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Nam 2014 -> Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ma trận kiểm tra học kì I – MÔn sử LỚP 11 – NĂm họC 2013- 2014
Nam 2014 -> Tuần 13 Ngày Soạn

tải về 285.66 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương