BÀi giảI ĐỀ HÌnh sự lshs/tn-31/240 -> lshs/tn-40/240 ĐỀ 31



tải về 317.42 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích317.42 Kb.
#16219
1   2   3   4

Tình tiết bổ sung


Ngày 27/7/2006, cả Khanh và Tú đều vắng mặt tại phiên toà. Qua quá trình xét xử, TAND huyện M đã ra bản án kết tội Tạ Đức Hiền theo khoản 4 Điều 113 BLHS và xử phạt Hiền 5 năm tù và buộc bồi thường cho Tú số tiền 10 triệu đồng để phục hồi sức khoẻ và bồi thường danh dự nhân phẩm.

Câu hỏi 9 (1 điểm): Anh (chị) hãy giúp bị cáo Hiền viết đơn kháng cáo bản án nêu trên.

Tình tiết bổ sung


Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26/12/2006, chỉ có Khanh có mặt. Khanh khai: Do sức ép của gia đình sau khi bị bắt quả tang khi giao cấu với Thụ nên đã có đơn tố cáo Thụ cưỡng dâm. Đối với Tú tuy thích Tạ Đức Hiền nhưng Tú cũng có nhiều bạn trai khác, do đó Tú hay đi chơi riêng và về khuya. Trước hôm 30/10/2006, Tú đã nhiều lần xin thuốc tránh thai của Khanh sau khi đi chơi về. Còn việc đêm 30/10/2006, Tú không nói gì với Khanh về việc giao cấu với Hiền mà chỉ sang nhà chơi khi thấy ông Vượn chửi Khanh về quan hệ với Thụ.

Đại diện VKS tại phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử y án sơ thẩm.



Câu hỏi 10 (1 điểm): Với những tình tiết mới này, anh (chị) đề nghị như thế nào với Hội đồng xét xử và dựa trên những căn cứ pháp luật nào?

(Học viên được sử dụng BLHS, BLTTHS và các pháp lệnh có liên quan)
Câu 1) Tuỳ trường hợp: Nếu tính thù lao theo giờ cao hơn thì OK, còn nếu tính theo trọn gói lợi hơn thì không chấp nhận. Tất nhiên là luật sư phải làm việc tận tâm, tận lực vì quyền lợi hợp pháp của thân chủ
Câu 2)

  • Biên bản GĐPY tỉnh H mâu thuẫn với Giấy chứng thương số 29/2005 của Bệng viện M

  • Bản GĐPy tỉnh H ngày 20/01/2006 thì khó có độ chính xác các tình tiết trên được, đặc biệt là xác định trong âm hộ, âm đạo có nhiều dịch trắng. Trong khi đó Bệnh viện M khám ngay sau 1 ngày xảy ra vụ việc nên mức độ chính xác cao hơn.

Câu 3)


  • Có mâu thuẫn trong lời khai của Tú và Khanh về việc ai mua thuốc tránh thai cho Tú

  • Khoảng cách giữa Thụ, Khanh với Tú , Hiền là 100m và trong đêm khuya vắng nếu bị hiếp dâm sao Tú không la to lên…

  • Nếu Tú nói với Khanh là bị Hiếp dâm sao Tú lại uống thuốc tránh thai do Hiềm mua cho..

  • Hiền là thương binh, có anh là liệt sĩ nên đây là tình tiết giảm nhẹ về nhân thân.

Câu 4) C vì trong các lời khai có nhiều điểm mâu thuẫn như trên, không thể chứng minh Hiền hiếp dâm hoặc cưỡng dâm. Việc Hiền hứa giúp xin việc sẽ không làm cho Tú túng quẫn hay cưỡng bách mà chấp nhận cho Hiền cưỡng dâm mình…


Câu 5)

  • Kiến nghị với VKS đề nghị làm rõ các mâu thuẫn trong lời khai của Tú, Khanh

  • Kiến nghị Toà án về mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án và không có căn cứ để chứng minh Hiền phạm tội



Câu 6) Cần trao đổi với Hiền về việc thống nhất lời khai, hướng bào chữa cũng như cách thức tại phiên toà
Câu 7) Kế hoạch xét hỏi
Hỏi khanh:

Khanh có trực tiếp hay chỉ nghe Tú nói là mình bị hiếp dâm?

Có phải Khanh là người đưa thuốc tránh thai cho Tú?..........

Hỏi Tú


Ai là người đưa thuốc tránh thai cho Tú?......

Còn nữa xin tự đặt câu hỏi


Câu 8) Bài bào chữa: xin tự viết theo các ý đã nêu phần trên
Câu 9) Đơn kháng cáo: xin tự viết theo các đề trước
Câu 10) Với tình tiết này đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 227 trả tự do cho bị cáo…

……………………………………………………………………………………………………………..


ĐỀ 33 MÃ SỐ ĐỀ THI:
LSHS/TN-33/240

Khoảng 20giờ ngày 6/10/2005, anh Nguyễn Thanh Tùng và Tạ Đức Toàn điều khiển xe máy va vào nhau tại Thị trấn Đông Anh, Hà Nội. Hai xe ngã đổ ra đường, Toàn bị sây sát nhẹ.

Anh Tùng dựng xe máy nói với Toàn việc đi lấn đường và chuyển hướng không quan sát thì Nguyễn Văn Cường , Trần Văn Lâm đi đến giữ đầu xe không cho anh Tùng đi. Phạm Thế Sơn cũng có mặt và bảo anh Tùng: "Ông bồi thường cho nó đi". Anh Tùng nói "Các ông biết gì mà nói" liền bị Cường, Lâm tát vào mặt, đấm vào người. Lúc này, Tạ Đức Hoà (anh trai của Toàn) đi đến và nói với mọi người "nó đi láo, cho nó một bài học" và lao vào đấm 2 quả vào mặt anh Tùng.

Anh Tùng chạy về phía thôn Dương Nội thì Hoà, Lâm, Cường, Sơn đuổi theo. Anh Tùng chạy vào sân nhà Sơn. Tại đây, Hoà nhặt hòn gạch ném vào trúng đầu và lưng anh Tùng, Sơn vào nhà lấy đoạn gậy tre tròn (dài 1,2m đường kính 2,5cm) để chèn cửa ra vụt năm cái vào người anh Tùng. Hoà lấy thanh gỗ (dài 50cm, có cạnh vuông 4cm) vụt vào đầu, vào lưng anh Tùng. Trong lúc này, Cường , Lâm chặn phía ngoài cổng không cho anh Tùng chạy.

Anh Tùng chạy ra phía cổng nhà Sơn, Hoà tiếp tục đuổi theo dùng thanh gỗ vụt nhiều cái vào đầu, lưng anh Tùng cho đến khi anh Tùng ngã bất tỉnh ra đường mới dừng lại. Anh Tùng được đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện Việt Đức nhưng do thương tích quá nặng nên đã chết sau ba ngày nằm điều trị cấp cứu.

Bản giám định pháp y số 53 ngày 4/12/2005 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Nạn nhân bị sưng nề, bầm tụ máu vùng đỉnh, chẩm phải, vỡ xương đỉnh thái dương phải dài 13cm, tụ máu dưới màng cứng bán cầu não phải. Nguyên nhân chết: vỡ xương hộp sọ, gây tụ máu dưới màng cứng do tác động trực tiếp của vật tày.

Ngày 10/10/2005, Cơ quan điều tra công an thành phố H đã ra quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Tạ Đức Hoà, Nguyễn Văn Cường, Trần Văn Lâm, Phạm Thế Sơn về "Tội giết người" theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS.

Ngày 11/10/2005, Cơ quan điều tra CA thành phố H ra lệnh bắt và tạm giam đối với Tạ Đức Hoà, Nguyễn Văn Cường, Trần Văn Lâm, Phạm Thế Sơn trong thời hạn 04 tháng kể từ ngày 11/10/2005.

Sau khi gây án, Tạ Đức Hoà bỏ trốn. Cơ quan điều tra CA thành phố H đã ra quyết định truy nã. Ngày 25/12/2005, Cơ quan điều tra CA thành phố H đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Tạ Đức Hoà do không biết Hoà đang ở đâu và ra quyết định tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra và xử lý sau đối với Tạ Đức Hoà .

Ngày 4/1/2006, gia đình Phạm Thế Sơn đến Văn phòng luật sư A mời luật sư bào chữa cho Sơn từ giai đoạn điều tra vụ án đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm.

Câu hỏi 1(1 điểm): Anh (chị) nhận xét gì về các hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra ?

Câu hỏi 2(1 điểm): Là luật sư được phân công bào chữa cho Sơn, anh (chị) chọn phương án nào trong các phương án sau đây để đề nghị với Cơ quan điều tra công an thành phố H?

Đề nghị phục hồi điều tra đối với bị can Hoà để lấy lời khai của bị can Hoà liên quan đến bị can Sơn và các bị can khác sau đó tách vụ án để xử lý bị can Hoà ở một vụ án khác;

Đề nghị huỷ Quyết định tạm đình chỉ điều tra và Quyết định tách vụ án hình sự đối với bị can Hoà.

Phương án khác.



Tình tiết bổ sung

Ngày 12/1/2006, Tạ Đức Hoà bị bắt theo Quyết định truy nã. Cơ quan điều tra công an thành phố H ra quyết định đình nã, quyết định phục hồi điều tra đối với Tạ Đức Hoà, nhập vụ án hình sự để tiến hành điều tra cùng với Nguyễn Văn Cường, Trần Văn Lâm, Đỗ Đức Sơn.

Ngày 29/1/2006, Cơ quan điều tra công an thành phố H có văn bản đề nghị và được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H gia hạn điều tra vụ án 04 tháng kể từ ngày 10/2/2006.

Ngày 9/6/2006, Cơ quan điều tra CA thành phố H ra bản kết luận điều tra và chuyển hồ sơ vụ án sang Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị truy tố 4 bị can Tạ Đức Hoà, Nguyễn Văn Cường, Trần Văn Lâm, Phạm Thế Sơn về "Tội giết người" theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS.

Tại biên bản hỏi cung bị can Sơn đầu tiên ngày 10/10/2005 không ghi nhận việc Điều tra viên đọc quyết định khởi tố bị can, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can. Tại bản hỏi cung bị can Sơn ngày 13/10/2005 thể hiện: Ngoài nội dung 5 dòng đầu tiên, các nội dung khác giống y hệt biên bản hỏi cung bị can Sơn ngày 10/10/2005 đến từng câu, từng từ, từng dấu phảy, dấu chấm và tại các trang của biên bản này không có chữ ký của bị can Sơn.

Câu hỏi 3(1 điểm): Anh (chị) nhận xét gì về hai biên bản hỏi cung bị can Phạm Thế Sơn ?

Câu hỏi 4(1 điểm) : Anh (chị) có kiến nghị gì với Viện kiểm sát nhân dân thành phố H?

Tình tiết bổ sung

Ngày 5/7/2006, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H ra bản cáo trạng truy tố 4 bị can Tạ Đức Hoà, Nguyễn Văn Cường, Trần Văn Lâm, Phạm Thế Sơn ra trước toà án về "Tội cố ý gây thương tích..." theo khoản 3 Điều 104 BLHS.



Câu hỏi 5(1 điểm): Anh (chị) có nhận xét gì về hoạt động tố tụng của VKSND thành phố H và bản cáo trạng truy tố các bị can ?

Tình tiết bổ sung

Ngày 7/7/2006, trước khi chuyển hồ sơ sang Toà án, VKS ND thành phố H cấp giấy chứng nhận bào chữa cho anh (chị) để vào Trại tạm giam gặp bị can Đỗ Đức Sơn.



Câu hỏi 6(1 điểm): Anh(chị) hãy nêu những nội dung cần trao đổi đối với Đỗ Đức Sơn. Ý nghĩa của việc trao đổi đó ?

Tình tiết bổ sung

Ngày 10/7/2006, Tòa án nhân dân thành phố H nhận hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát nhân dân thành phố H chuyển sang. Ngày 11/7/2006, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố H ra quyết định tạm giam Tạ Đức Hoà, Nguyễn Văn Cường, Trần Văn Lâm, Phạm Thế Sơn trong thời hạn 04 tháng để đảm bảo việc xét xử sơ thẩm.



Câu hỏi 7(1 điểm): Anh(chị) hãy lập kế hoạch xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm?

Câu hỏi 8(1 điểm): Anh(chị) có kiến nghị gì với Chánh án Tòa án nhân dân thành phố H?

Tình tiết bổ sung

Ngày 5/9/2006, Tòa án nhân dân thành phố H ra quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 20/9/2006



Câu hỏi 9(1 điểm): Anh(chị) sẽ chọn hướng bào chữa nào sau đây cho Phạm Thế Sơn tại phiên tòa sơ thẩm?

Phạm Thế Sơn phạm tội giết người với vai trò đồng phạm nhưng không có tính chất côn đồ.

Phạm Thế Sơn phạm "Tội cố ý gây thương tích..." theo khoản 3 Điều 104 BLHS.

Phạm Thế Sơn phạm "Tội gây rối trật tự công cộng »  theo Điều 245 BLHS.

Phương án khác.

Câu hỏi 10(1 điểm): Anh(chị) hãy viết bản luận cứ bào chữa cho bị cáo Phạm Thế Sơn tại phiên tòa sơ thẩm?

(Học viên được sử dụng BLHS, BLTTHS và các pháp lệnh có liên quan)
Câu 1)


  • Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra là đúng

  • Việc tạm đình chỉ vụ án đối với Hoà là sai vì chưa hết thời hạn điều tra mà công an Tp.H ra quyết định tạm đình chỉ vụ án là trái quy định Khoản 1 Điều 160BLTTHS

Câu 2) Phương án 2 (không chắc lắm)


Câu 3) Bản hỏi cung trên rõ ràng đã có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự vì vậy nó sẽ không có giá trị pháp lý
Câu 4) Yêu cầu VKS với chức năng giám sát hoạt động điều tra và công tố cần làm rõ:

  • 2 bản hỏi cung vi phạm nghiêm trọng TTTTHS

  • Không được sử dụng 2 bản cung đó làm chứng cứ buộc tội…………

Câu 5) Sai (nhưng có lợi cho thân chủ mình -> làm ngơ)


Câu 6) Trao đổi với Sơn

  • Về việc thống nhất câu hỏi và hướng bào chữa

  • Căn dặn Sơn các thủ tục tại phiên toà

Câu 7) Kế hoạch xét hỏi: Hỏi Hoà, Lâm, Cường, Sơn về hành vi của từng bị cáo. Hỏi Sơn về tình tiết nhân thân (câu hỏi cụ thể xin tự đặt)


Câu 8) Kiến nghị với Chánh án là theo Quy định tại điếu 177 thì thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử không quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điều 176 BLTTHS (có nghĩa là chỉ được giam từ 3 tháng thôi)
Câu 9) phương án 2
Câu 10) Tự viết

……………………………………………………………………………………………………………


Đề 34 MÃ SỐ ĐỀ THI:
LSHS/TN-34/240

Lê Minh Tú (29 tuổi) và Nguyễn Thị Hồng An (22 tuổi) quen nhau tại một quán Bar và yêu nhau từ tháng 11/2003. Tháng 6/2004, An thông báo cho Tú biết là mình đã có thai với Tú được 2 tháng. Tháng 7/2004, An đề nghị Tú cưới nhưng Tú trả lời là không thể cưới được vì Tú đã có vợ, hiện vợ Tú đang sống ở nước ngoài. Tú và An đã nhiều lần gặp nhau để thống nhất việc cưới nhưng không đạt kết quả. An dọa sẽ tự tử và trước khi tự tử sẽ tố cáo với gia đình và cơ quan Tú về việc đã có thai với Tú. Tú can ngăn An và bàn với An đi phá thai nhưng An không chấp nhận. Thấy An rất kiên quyết nên Tú đã nảy sinh ý định giết An.

Ngày 16/7/2004, Tú đến gặp Nguyễn Xuân Bắc (29 tuổi) là bạn của Tú và nói chuyện với Bắc về tình hình của Tú và An. Sau khi thông báo xong tình hình, Tú nói với Bắc: “Chuyện của tao là vậy. Bây giờ khó sống quá. Tao cũng đã phải cho nó rất nhiều tiền, vàng rồi. Chẳng nhẽ chỉ vì nó mà tao mất gia đình, sự nghiệp, danh dự. Mày nghĩ cách đi. Tao muốn khử nó. Mày phải giúp tao việc này.”. Bắc đã đồng ý giúp Tú. Hai tên bàn bạc cách thức giết An. Vào lúc 21h00’ ngày 18/7/2004, Tú đã gọi điện thoại di động cho An và nói “Hôm nay anh muốn gặp em để bàn chuyện cưới, anh đành chấp nhận vậy. Nhưng anh đang đau bụng. Anh sẽ nhờ thằng em họ anh qua đón em. Thằng này em chưa bao giờ gặp nó. Nó sẽ nói là em họ anh. Khoảng 30 phút nữa nó sẽ đến. Em bảo nó đưa qua nhà anh, anh ở nhà đợi em.”. Tin lời Tú, An đã nhận lời đến nhà Tú. Khoảng 35 phút sau cuộc điện thoại giữa Tú và An, Bắc đã có mặt tại nhà An, Bắc điều khiển xe máy Wave 110, biển kiểm soát 29B - 0001. Sau khi chào hỏi, An đã ngồi lên xe của Bắc và Bắc nói rằng cần đi đường tắt cho nhanh. Đến đoạn đường vắng, trong lúc đang chở An, Bắc giảm ga cho xe đi từ từ và nói với An là xe có vấn đề, dừng lại để kiểm tra. Ngay sau khi cả Bắc và An xuống xe hẳn, Bắc bóp cổ An và dùng dao Thái Lan đâm nhiều nhát vào ngực, bụng An. An bị mất máu nhiều nên đã ngất xỉu, không kêu la được. Bắc còn giật chiếc dây chuyền 3 lượng vàng mà An đang đeo. Tưởng An đã chết, Bắc lên xe quay về quán cafe Chiều Thành và gặp Tú ở đó. Bắc thông báo với Tú là An đã chết. Hai tên về nhà, trên đường đi chúng vứt dao xuống hồ N.T. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, chị An không bị chết.

Tại Bản giám định pháp y số 158/GĐPY ngày 15/5/2004 của Tổ chức giám định pháp y Thành phố H kết luận về thương tích của An như sau:

- Vết thương vùng hạ sườn phải sâu 6 cm, dài 1,5 cm.

- Vết thương khoảng liên sườn 4 và 5 bên trái đường nách giữa sâu 5 cm, dài 1,5 - 2 cm.

- Vết thương nhẹ vùng hông bên phải, không sâu.

Các vết thương vào vùng nguy hiểm nhưng do được cấp cứu kịp thời nên nạn nhân không chết.

Câu hỏi 1 (1 điểm): Bằng lý luận về đặc trưng các loại vụ án, anh (chị) hãy nêu những đặc điểm cơ bản cần lưu ý của vụ án này?

Câu hỏi 2 (1 điểm): Theo anh (chị), các bị can trong vụ án này sẽ bị truy tố theo tội danh và điều khoản nào của Bộ luật hình sự?

Câu hỏi 3 (1 điểm): Anh (chị) hãy nêu những vấn đề cần lưu ý khi nghiên cứu hồ sơ vụ án này.

Tình tiết bổ sung

Ngay sau khi bị bắt, Bắc chỉ khai nhận hành vi do duy nhất mình thực hiện với động cơ là trả thù do ghen tuông. Trong khi đó, người bị hại là Nguyễn Thị Hồng An vẫn hôn mê, bất tỉnh, không thể lấy được lời khai. Trong suy nghĩ của Bắc thì An đã bị chết. Chính vì vậy nên VKSND thành phố H chỉ truy tố Bắc. Anh (chị) được Bắc mời làm luật sư bào chữa cho Bắc. Sau khi anh (chị) vào gặp Bắc, Bắc lại khai rõ sự thật vụ án đó là Bắc chỉ thực hiện hành vi theo sự chỉ đạo của Tú.



Câu hỏi 4 (1 điểm): Anh (chị) sẽ làm gì trước tình huống trên? Căn cứ pháp luật của việc làm đó?

Tình tiết bổ sung

Trong khi thực hiện hành vi đâm chém người bị hại An, Bắc sợ chị An chết nên không tiếp tục thực hiện hành vi nữa và trên thực tế chị An không chết.



Câu hỏi 5 (1 điểm): Trách nhiệm hình sự của Bắc trong trường hợp này được xác định như thế nào? Tại sao?

Tình tiết bổ sung

Gia đình bị cáo Bắc đã đến gặp và thoả thuận với gia đình người bị hại về vấn đề bồi thường nhưng gia đình người bị hại không nhận tiền bồi thường mặc dù lời khai tại cơ quan điều tra phản ánh gia đình người bị hại kê khai tiền yêu cầu bồi thường là 65 triệu đồng và đề nghị giải quyết theo pháp luật.



Câu hỏi 6 (1 điểm): Với tư cách là luật sư bào chữa cho bị cáo Bắc, anh (chị) có hướng giải quyết như thế nào trong tình huống này?

Tình tiết bổ sung

Trong khi hồ sơ vụ án đang được Toà án nghiên cứu, chuẩn bị xét xử thì bị cáo Bắc có các biểu hiện không bình thường trong trại tạm giam. Sau khi giám định, xác định bị cáo đang mắc bệnh tâm thần phân liệt.



Câu hỏi 7 (1 điểm): Là luật sư bào chữa cho bị cáo Bắc, anh (chị) có đề xuất gì với cơ quan tiến hành tố tụng?

Tình tiết bổ sung

Bị cáo Lê Minh Tú và Nguyễn Xuân Bắc bị đưa ra xét xử theo tội danh và điều luật mà anh (chị) đã xác định tại câu hỏi 2. Anh (chị) là người bào chữa cho bị cáo Bắc.



Câu hỏi 8 (1 điểm): Những vấn đề cần hỏi các bị cáo tại phiên toà sơ thẩm?

Câu hỏi 9 (1,5 điểm): Hãy nêu những nội dung chính trong bài bào chữa cho bị cáo Bắc.

Tình tiết bổ sung

Tại phiên tòa, An đề nghị Hội đồng xét xử không cho anh (chị) bào chữa cho Bắc vì Bắc có quan hệ thân thiết với một Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử hỏi ý kiến anh (chị) về vấn đề này.



Câu hỏi 10 (0,5 điểm): Giả sử anh (chị) thực sự có mối quan hệ thân thiết với một Hội thẩm nhân dân và mối quan hệ này có ảnh hưởng đến sự khách quan của Hội thẩm đó trong quá trình xét xử. Anh (chị) sẽ phát biểu ý kiến như thế nào?

(Học viên được sử dụng BLHS, BLTTHS và các pháp lệnh có liên quan)
Câu 1) Những đặc điểm cơ bản cần lưu ý của vụ án này:

  • Đặc điểm về đối tượng phạm tội giết người: các đối tượng này có động cơ, mục đích gì khi gây án?

  • Đặc điểm vế thủ đoạn gây án: Trừ những vụ giết người bộc phát, mang tính côn đồ còn lại hầu hết các vụ giết người thủ phạm điều có giai đoạn chuẩn bị rất kỹ lưỡng …

Câu 2) Có thể bị truy tố theo điểm b,o,q Điều 93 BLHS


Câu 3) Lưu ý khi nghiên cứu hồ sơ vụ án:


  • Nguyên nhân giết người cũng cần phải lưu ý, xem trong vụ án đó vì sao người phạm tội lại giết người? hoàn cản, điều kiện phạm tội

  • Có đồng phạm hay không? ….

Câu 4)


  • Giải thích cho Bắc biết nếu Bắc khai đúng sự thật thì TNHS của Bắc sẽ giảm nhẹ và Bắc có thể hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm p,q BLHS

  • Kiến nghị CQĐT, VKS xác định lại nguyên nhân, động cơ, mục đích của Bắc, có đúng là vì ghen tuông hay không? Bắc và chị An có quan hệ tình cảm không?..

Câu 5) Nếu đúng như vậy thì TNHS của Bắc sẽ giảm nhẹ vì Bắc đã thực hiện hành vi đâm vào vùng hạ sườn và khi thực hiện sợ chị An chết nên không thực hiện hành vi giết người mà nửa chừng đã chấm dứt hành vi cộng với việc chị An không chết thì Bắc có thể được chuyển tội danh xuống “cố ý gây thương tích” hoặc được hưởng tình tiết giảm nhẹ.

Câu 6 )


  • Đến gặp gia đình bị hại thuyết phục họ nhận tiền bồi thường

  • Đề nghị gia đình Bắc thiện chí và nếu có thề tăng mức bồi thường lên một ít để Bắc được hưởng tình tiết giảm nhẹ..

Câu 7) Đề xuất với CQTHTT tạm đình chỉ vụ án để chữa bệnh cho Bắc


Câu 8)

Hỏi Bắc:


Cói phải Bắc sợ chị An chết nên không tiếp tục đâm nữa?

Ai là chủ mưu trong vụ án này ?

Các tình tiết giảm nhẹ TNHS ?

Hỏi Tú :


  • Nguyên nhân nào Tú nhờ Bắc giết chị An ?

  • Bắc nhận lời giết chị An vì tình bạn bè đúng không ?

Câu 9 Điểm chính



  • Tú là người chủ mưu trong vụ án này

  • Bắc thực hiện theo yêu cầu của Tú...

  • Khi thực hiện hành vi vì sợ chị An chết nên Bắc khi tiếp tục đâm nữa mà bỏ đi

  • Các tình tiết giảm nhẹ..

Câu 10) ( Đề viết nhầm rồi sau đó sao Bắc có quan hệ với HTND đáng lý ra là Luật sư chớ)

Nếu rơi vào trường hợp này thì người bị thay đổi là HTND vì Luật sư là người tham gia từ đầu vụ án, Vì vậy khi phân công tham gia phiên toà Chánh án, THẩm phán và HTND phải lưu ý đế điều này...
Đề 35 (BÀI NÀY HƠI KHÓ ĐỂ XÁC ĐỊNH ĐỒNG PHẠM VÀ DƯỚI ĐÂY LÀ QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÀM)

MÃ SỐ ĐỀ THI:
LSHS/TN-35/240

Do có sự mâu thuẫn về đất đai từ trước giữa gia đình Hoàng Văn Hoàn với Hà Thị Dầu, khoảng 16h ngày 27/12/2002, Hoàng Văn Bình là con trai của Hà Thị Dầu có đi qua quán bán nước của gia đình anh Hoàn do cháu Hoàng Thị Duyên 14 tuổi là con gái của anh Hoàn trông hàng. Hai người có nói nhau, sau đó chửi nhau bằng tiếng dân tộc. Bình tức Duyên nên nghĩ sẽ giết Duyên. Bình về nhà lấy con dao thái chuối dài khoảng 50 cm, rộng 7 cm đã mài rất sắc. Bình giấu dao vào cạp quần bên trong áo đằng sau rồi đi vào quán bà Lương Thị Lưu đối diện với quán cháu Duyên khoảng 25m, uống cốc rượu để lấy can đảm.

Đến 17h cùng ngày, Hà Thị Dầu đi qua quán cháu Duyên, Duyên và Dầu lại nói nhau dẫn đến cãi chửi nhau. Dầu lấy nải bằng vải đập vào mặt cháu Duyên. Lúc này chị Đặng Thị Phương là mẹ cháu Duyên đi làm vừa về, thấy vậy ra can ngăn. Bà Hoàng Thị Quy là mẹ anh Hoàn (bà nội của cháu Duyên) cũng ra can. Hà Thị Dầu chửi nhau với gia đình bà Quy. Hai bên to tiếng và xô sát giằng co lẫn nhau. Đỗ Thu Hằng (là vợ của Bình) thấy vậy cũng ra chửi nhau và xông vào đánh cháu Duyên.

Hoàng Kí Khoà (con trai của bà Dầu) nghe con trai nói: “ bố ơi, mẹ con bà Quy đánh nhau với bà mình”, thấy vậy Khoà chạy sang nhà anh Hoàn. Hoàng Văn Kết (con trai bà Dầu) đang ở gần đó, nghe tiếng chửi nhau, Kết đi gọi Hoàng Văn Tương (em trai của Kết) rồi cùng nhau đến chỗ đánh nhau. Khi đi, Tương có cầm theo một thanh củi bổ rộng và dài khoảng 80 cm. Lúc này anh Hoàn vừa đi làm về, có vào can không cho cãi chửi nhau nữa, nhưng không can được. Hoàng Văn Bình nhìn thấy hai gia đình đã xảy ra ẩu đả. Trong lúc giằng co, Hà Thị Dầu nói: “hôm nay tao không giết được một đứa, tao là giống chó”. Hai gia đình đánh nhau lộn xộn. Hằng cầm điếu thuốc lào (điếu cày) đánh cháu Duyên, Duyên cầm ghế nhựa đỡ lại. Hoàng Văn Tương cầm cây củi lao vào đánh chị Phương, anh Hoàn. Hà Thị Dầu hô bằng tiếng dân tộc: “giết chết nó đi”, thấy vậy, Bình từ quán nhà bà Lưu xông sang. Lúc này, Duyên đang cầm ghế nhựa thì bị Hoàng Thị Ban (cháu của bà Dầu) xông vào giằng lấy ghế nhựa. Hằng cầm một tay cháu Duyên, còn tay kia ôm ngang lưng cháu Duyên, thấy Bình rút dao từ lưng ra xông vào chỗ Duyên để chém, thì Hằng cúi người xuống thấp, để Bình chém liên tiếp 03 nhát vào đầu, vào tay trái Duyên, sau đó Hằng buông Duyên ra. Duyên ngã xuống đất và nói: “Chú Bình ơi, cháu xin chú Bình”. Duyên gượng dậy, chạy được mấy bước thì ngã, Bình đuổi theo chém tiếp một nhát nữa vào lưng làm Duyên gục hẳn xuống vỉa hè. Thấy vậy, Dầu đứng chống nạnh nói bằng tiếng dân tộc: “Bây giờ tao giết được chúng mày chưa? tao chỉ sợ chúng mày không chết thôi ”. Trong lúc đánh nhau lộn xộn thì Hoàng Văn Tương dùng thanh củi bổ đánh nhiều nhát vào người chị Phương và anh Hoàn. Sau khi Bình chém cháu Duyên xong thì Bình chạy về phía anh Hoàn vung dao chém tiếp cả anh Hoàn. Bình chém vào đầu anh Hoàn, anh Hoàn kịp nghiêng đầu và giơ tay lên đỡ nên bị chém vào tay. Bình tiếp tục chém phát thứ 2 thì bị Kết giằng dao của Bình. Lúc này đã có nhiều người đến xem và kêu cứu, nên bên gia đình Dầu đã bỏ về. Kết đem theo con dao về đằng sau nhà cất giấu trong đống tro nhà vệ sinh. Còn Bình chạy trốn lên núi. Đến 22h40’ ngày 28/12/2002, Bình ra đầu thú tại công an huyệnV, tỉnh L.

Cháu Duyên, anh Hoàn, chị Phương được mọi người đưa đi Bệnh viện Đa khoa tỉnh cấp cứu. Do vết thương quá nặng, cháu Duyên đã chết ngày 30/12/2002 do vết thương sọ não hở.

Chị Đặng Thị Phương bị gãy hai xương sườn và nhiều vết thương vùng đầu, mặt.

Anh Hoàn bị một vết thương ở cánh tay phải làm mẻ xương và nhiều vết xây sát phần mềm. Tỷ lệ thương tích của anh Hoàn là 12%, chị Phương là 18%.



Câu hỏi 1 (1 điểm): Theo anh (chị), trong vụ án trên, những bị can nào bị truy tố? Truy tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?

Câu hỏi 2 (1điểm): Trong vụ án trên, có đồng phạm hay không? Xác định rõ những người là đồng phạm (nếu có) và vị trí đồng phạm của họ.

Tình tiết bổ sung


Viện kiểm sát nhân dân tỉnh L truy tố các bị can về tình tiết phạm tội có tổ chức (tình tiết định khung) theo tội danh mà anh (chị) xác định như trên.

Câu hỏi 3 (1 điểm): Anh(chị) có nhận xét gì về việc truy tố đó? Giải thích tại sao?


tải về 317.42 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương