Bài 1 giới thiệu tông huấn familiaris consortio



tải về 342.63 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu12.09.2017
Kích342.63 Kb.
#33119
1   2   3   4

3. Ghi nhớ
Sống trong xã hội vội vã và nhiều lo toan hôm nay, các bạn trẻ nam nữ cần ý thức rằng sống đời hôn nhân không phải là chuyện đùa chơi, nhưng là một quyết định hết sức quan trọng của đời người, nên phải có thời kỳ đính hôn như một thời gian chuẩn bị cần thiết để tìm hiểu về nhau, về gia cảnh của nhau, về Bí Tích Hôn Phối, về bậc sống Hôn nhân và Gia đình.
4. Quyết tâm
Trong thời gian đính hôn, đôi bạn hãy quyết tâm dành thời gian để cầu nguyện với nhau và cho nhau, tìm hiểu nhau và gia cảnh của nhau, tích cực giúp nhau học hỏi Giáo Lý Hôn Nhân và Gia Đình, chứng thực cho nhau về một tình yêu chín chắn, trưởng thành, chân thật, trong sạch và chung thủy để nuôi lớn ý thức trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ sự sống trong đời sống hôn nhân.

Bài 14

TÍNH DỤC VÀ HÔN NHÂN
1. Lời Chúa
Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ.  Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nỗi mà Satan lợi dụng cám dỗ” (1 Cr 7,4-5).
2. Giải thích
Sự thật về sứ mạng truyền sinh:

Khoa học ngày nay đã chứng thực Sự Thật Mạc Khải về Sứ Mạng Truyền Sinh: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 2,28): Việc Tế Bào Mầm – sau này sẽ trở thành tinh trùng hay trứng bằng tiến trình giảm phân - được hình thành rất sớm khi phôi mới chỉ 3 tuần tuổi cho thấy rõ tầm quan trọng của Tính dục trong việc lưu truyền nòi giống. Ngoài ra, việc tế bào hợp tử khởi đầu sự sống đã quyết định phái tính của mỗi người - hoặc là nam (nếu tinh trùng có 22 nhiễm sắc thể + Y và trứng có 22 nhiễm sắc thể + X) hoặc là nữ (nếu tinh trùng có 22 nhiễm sắc thể + X và trứng có 22 nhiễm sắc thể + X) - chứng thực con người sinh ra là nam hay là nữ. Như vậy, phái tính thuộc bình diện hiện hữu chứ không phải chiếm hữu: phái tính chung phần làm nên toàn bộ cấu trúc một con người, chứ không phải là một yếu tố phụ tùy tạm bợ. Phái tính làm nên vị thế tâm sinh lý và siêu hình mà mỗi người cần thể hiện để được cứu rỗi.



Vai trò của tính dục trong tình yêu vợ chồng:

Các hành vi tính dục giúp tình yêu vợ chồng mở ngỏ cho công cuộc lưu truyền nòi giống cũng như diễn tả sự phong phú của Thiên Chúa và góp phần xây dựng nền văn minh tình yêu: “Chính Đấng Tạo Hóa đã muốn rằng trong nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng cảm thấy một sự vui thú và thỏa mãn nơi thân xác và tinh thần. Vì vậy, vợ chồng chẳng làm điều gì xấu khi tìm kiếm và tận hưởng sự khoái lạc đó. Họ đón nhận những gì Đấng Tạo Hóa đã ban cho” (ĐGH Piô XII, Bài giảng ngày 29.10.1951).



Các nguyên tắc luân lý tính dục:

Tuy nhiên, họ phải biết giữ tiết độ” (ĐGH Piô XII, Bài giảng ngày 29.10.1951). Thật vậy, mầu nhiệm thập giá của Đức Giêsu Kitô không cho phép chúng ta ảo tưởng về thân phận yếu đuối và tội lỗi của con người, đặc biệt về những gì liên quan đến lãnh vực tính dục là một trong Ba Kẻ Thù lớn: ma quỷ, thế gian, xác thịt. Tất cả mọi người Kitô hữu đều phải học hỏi kỹ lưỡng các Giới răn thứ Năm “cấm giết người”, thứ Sáu “cấm làm sự dâm dục” và Thứ Chín “cấm muốn vợ chồng người” để tránh các tội chống lại sự sống cũng như xúc phạm đến đức khiết tịnh và phẩm giá hôn nhân.


3. Ghi nhớ
Cần ghi nhớ hai nguyên tắc chính yếu:

1. Trong khuôn khổ hôn nhân tự nhiên và hôn nhân Công giáo, các hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quý và chính đáng (x. MV 49,2; GLGHCG 2362).

2. Luân lý Công giáo dạy “tôn trọng” chứ không “tôn thờ” thân xác (x. Thánh Phaolô: “Chúa của họ là cái bụng”). Do đó, các hành vi tính dục cần được thực hiện phù hợp với luật lệ của Thiên Chúa và đời sống hôn nhân Công giáo phải là đời sống trong sạch và tiết độ (x. GLGHCG 2395 và 2337).
4. Quyết tâm
Bảo vệ sự sống bằng nỗ lực sống theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong anh em mà anh em đã lãnh nhận nơi Thiên Chúa, và anh em không còn thuộc về chính mình nữa sao? Vì anh em đã được mua chuộc bằng một giá rất lớn. Vậy anh em hãy tôn vinh Chúa trong thân xác anh em” (1 Cr 6,19-20).

Bài 15

TÌNH YÊU VỢ CHỒNG

 

1. Lời Chúa


Bấy giờ, Tôbia nói:“Giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết không phải vì dục tình mà tôi cưới em này làm vợ, song chỉ vì muốn có con cái nối dòng, để danh Chúa được chúc tụng muôn đời”. Sara cũng nguyện rằng:“Lạy Chúa, xin thương xót chúng tôi, xin thương xót chúng tôi, xin cho hai chúng tôi được an khang trường thọ” (Tb 8,7).
2. Giải thích
Tình yêu vợ chồng mở ngỏ cho sự sống con người:

Chính việc mở ngỏ cho sự sống con người để lưu truyền sự sống cho nhân loại làm nên đặc tính riêngsự khác biệt độc đáo của của tình yêu vợ chồng so với các dạng tình yêu khác như tình bạn, tình phụ tử, mẫu tử, tình huynh đệ… Chính đặc tính riêng này cho phép vợ chồng được phép kết hợp “nên một xương một thịt” và hướng đến việc kết hợp nên một toàn diện, quyết liệt, trọn vẹn: “Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân thể” (St 2,24; Mt 19,5; Mc 10,8).  Khi lấy nhau thành vợ chồng, đôi bạn nam nữ thành một xương một thịt và một tâm hồn, cùng chia sẻ một vận mệnh, một cuộc sống và cùng chung một trách nhiệm. Sự kết hợp đó sâu xa đến nỗi chỉ cái chết mới có thể chia lìa. Chính vì vậy, tình yêu hôn nhân đòi hỏi sự đơn nhất – một vợ một chồng - và bất khả phân ly – chung thủy đến chết - (x. GLGHCG 1943-1645).



Lưu truyền sự sống vừa là một ân huệ, vừa là một sứ mạng cao cả:

Thật vậy, truyền sinh vừa là một ân huệ, vừa là một sứ mạng thuộc bản chất của hôn nhân. Vì thế, mọi hành vi ân ái phải mở ngỏ cho việc truyền sinh có trách nhiệm. Đây là điều chính Thiên Chúa đã muốn và con người không được phá bỏ. Vì được mời gọi thông truyền sự sống, đôi vợ chồng tham dự vào quyền năng sáng tạo và tình phụ tử của Thiên Chúa (x. Ep 3,14; Mt 23,9). Khi thi hành bổn phận truyền sinh và giáo dục con cái trong tinh thần trách nhiệm của một con người và một Kitô hữu, đôi vợ chồng cần nhận biết họ đang được diễm phúc cộng tác với Thiên Chúa Tình Yêu trong công trình tác tạo sự sống cao cả của con người và có sứ mạng diễn đạt Tình Yêu của Ngài. Như vậy, tính dục không chỉ là hành vi sinh lý, mà còn liên can đến những điều thâm sâu nhất của nhân vị: sự trao hiến trọn vẹn toàn thể con người dẫn đôi bạn đến sự kết hợp mật thiết với nhau thành một trái tim, một tâm hồn, một cuộc sống. Nhờ sự kết hợp nên một và sự trao hiến trọn vẹn suốt đời của vợ chồng, họ vừa tôn vinh Thiên Chúa Tình Yêu, vừa nuôi dưỡng tình yêu vợ chồng vừa lưu truyền sự sống cho sự trường tồn của nhân loại.


3. Ghi nhớ
Tình yêu hôn nhân đòi hỏi vợ chồng phải dứt khoát chọn sống kết hợp nên một toàn diện với nhau suốt đời, bởi vì do giao ước hôn nhân, họ không còn là hai, nhưng đã trở thành một thân thể duy nhất. Nhờ chung thủy yêu thương, vợ chồng trở thành chứng nhân cho tình yêu trung tín của Thiên Chúa và có khả năng chu toàn sứ mạng sinh dưỡng dục con cái nên người (x. GLGHCG 1646-1648).
4. Quyết tâm
Bảo vệ sự sống bằng cách lắng nghe và thực thi lời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắn nhủ: “Ngày nay, làm chứng về giá trị cao quý của sự bất khả phân ly trong hôn nhân và của lòng chung thủy giữa hai vợ chồng là một trong những bổn phận quan trọng và cấp bách nhất của các đôi bạn Kitô hữu” (FC 20).


Bài 16

SINH CON CÓ TRÁCH NHIỆM
1. Lời Chúa
Hiền thê bạn trong cửa trong nhà, khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128,3-4).
2. Giải thích
Trách nhiệm sinh con:

Sinh ra làm người, dù bán khai hay văn minh, ai cũng dễ dàng nhận ra rằng lớn lên lấy vợ lấy chồng là lẽ đương nhiên và việc sinh con đẻ cái vừa là nguồn hoan lạc vừa là trách nhiệm cao cả vì nó gắn liền với sứ mạng sinh, dưỡng, dục và lưu truyền nòi giống. Đối với người Kitô hữu, sinh con còn là diễm phúc được cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng loài người (x. MV 50,2; GLGHCG 2367).



Sinh sản có trách nhiệm:

Việc sinh con cần “phải được kế hoạch hóa” với tinh thần trách nhiệm chứ không thể “buông thả” theo phương châm “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, vì nó liên quan mật thiết đến lợi ích của chính vợ chồng, của con cái, của xã hội và Giáo Hội. Trên thực tế, sống trong xã hội hôm nay, trách nhiệm sinh con đang chịu áp lực về nhiều mặt: áp lực truyền thống luân lý đạo đức, áp lực kinh tế, áp lực giáo dục con cái, áp lực của xu hướng hưởng thụ, áp lực của chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình… Vì thế, một mặt Giáo Hội kêu gọi và đào tạo người Kitô hữu biết tôn trọng tiếng nói lương tâm để họ có khả năng lãnh nhận trách nhiệm sinh con và can đảm tuân giữ luật Chúa và luật của Giáo Hội, mặt khác, Giáo Hội kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị xã hội biết tôn trọng lương tâm của các đôi vợ chồng, vì lương tâm là chuẩn mực giúp họ quyết định về số con của mình (x. SSCN 10).



Những thách đố mới trong sinh sản có trách nhiệm:

Những bước phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật trong lãnh vực y sinh học đang giúp con người ngày càng am hiểu hơn và có khả năng can thiệp nhiều hơn vào tiến trình hình thành sự sống con người. Trong trách nhiệm sinh con, người Kitô hữu hôm nay đang đối mặt với nhiều thách đố mới như vấn đề ngừa thai nhân tạo, vấn đề phá thai, vấn đề thụ tinh nhân tạo trong chữa trị hiếm muộn. Vì mục đích bảo vệ nhân phẩm và sự sống con người từ trong trứng nước, Giáo Hội nghiêm cấm người Kitô hữu phá thai cố ý, triệt sản hay thụ tinh nhân tạo cũng như không được phép dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo ngược với Luật tự nhiên, mà chỉ cho phép ngừa thai tự nhiên theo phương pháp Ogino-Knauss dựa trên chu kỳ kinh nguyệt và phương pháp Billings dựa trên việc quan sát chất nhờn giúp xác định ngày trứng rụng để biết những ngày nào có thể thụ thai hay không thể thụ thai: “Khi cần hòa hợp tình yêu vợ chồng với việc sinh sản con cái có trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý muốn thành thực và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính nhân vị và của hành động nơi nhân vị: những tiêu chuẩn ấy tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực. Đó là điều không thể thực hiện được, nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng” (x. MV 51,3).


3. Ghi nhớ
Việc sinh con cần phải có trách nhiệm vì liên quan mật thiết đến lợi ích của chính vợ chồng, của con cái, của xã hội và Giáo Hội.
4. Quyết tâm
Nỗ lực tìm hiểu và thực thi phương pháp tiết dục định kỳ trong sinh sản có trách nhiệm nhằm bảo vệ sự sống con người đúng với Luật Chúa và Luật của Giáo Hội.
*****

CHỦ ĐỀ 4


GIA ĐÌNH TRUYỀN GIÁO
Bài 17

HÔN NHÂN KHÁC TÔN GIÁO
1. Lời Chúa
Nếu anh em nào có vợ ngoại mà người đó thuận ở với mình, thì chớ rẫy vợ. Và người vợ nào có chồng ngoại mà người đó thuận ở với mình, thì đừng bỏ chồng. Vì chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1 Cr 7,12-14).
2. Giải thích
Trong xã hội Việt Nam vốn có nhiều tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau, nhất là khi Công giáo chỉ là thiểu số, các cuộc hôn nhân giữa người Công giáo với người ngoài Công giáo càng ngày càng gia tăng. Đây là một trong những ưu tư đặc biệt của Giáo Hội Công giáo đối với đời sống hôn nhân và gia đình của con cái mình, vì những cuộc hôn nhân này thường gặp nhiều khó khăn do những khác biệt về niềm tin.

Giáo luật về hôn nhân khác đạo:

Giáo Hội Công giáo có quyền ban phép chuẩn cho người Công giáo được kết hôn với người không Công giáo. Điều kiện để được Giáo Hội cho phép chuẩn dành cho hôn nhân khác đạo, đó là:

1. Hai đương sự phải hiểu biết, chấp nhận mục đích và đặc tính của hôn nhân theo Giáo lý Công giáo.

2. Bên Công giáo cam kết giữ đức tin của mình, bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Giáo Hội Công giáo.

3. Bên không Công giáo tôn trọng tôn giáo của bên Công giáo.

Lý do Hội Thánh bận tâm và dè dặt đối với hôn nhân khác đạo:

Thái độ của Hội Thánh là một sự “nhượng bộ” vì không thể tránh được, chứ không hề khuyến khích. Đây là thái độ cần thiết trong tư cách làm cha làm mẹ trước hạnh phúc của con cái mình.

Hội Thánh biết rằng, bên cạnh tình yêu, niềm tin tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng đối với đời sống hôn nhân và gia đình, trước những chọn lựa các vấn đề của cuộc sống, nhất là trong việc giáo dục con cái.

Vợ chồng không cùng chung niềm tin, tất nhiên có nhiều khác biệt giữa họ. Những khác biệt nầy dễ dẫn đến đổ vỡ hạnh phúc, hoặc sẽ đưa đến những thiệt hại cho bên Công giáo. Nếu cùng một niềm tin tôn giáo, họ sẽ có được một nền tảng chung và vững chắc, giúp vượt qua những khó khăn và thử thách. Lúc ấy, người bạn đời cũng là người bạn đạo, cả hai cùng có đủ ơn Chúa để thống nhất một chí hướng, đó là xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc trong yêu thương và hiệp nhất.



Những thái độ sống:

Đối với nhau: Phía Công giáo hãy can đảm đón nhận điều Thiên Chúa và Hội Thánh mong ước: làm chứng cho Tin Mừng. Bên Công giáo đừng quên rằng mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của bạn mình, bằng cách biết dịu dàng thể hiện trọn vẹn Đức Tin của mình, và qua cuộc sống tốt lành của mình, làm cho người bạn đường của mình hiểu biết thêm về Thiên Chúa, đồng thời tha thiết cầu nguyện cho bạn mình mỗi ngày. Cũng nên trân trọng trao vào tay bạn mình một quyển Thánh Kinh, hay quyển Kinh nguyện Gia đình.

Với gia đình hai bên: Sự khác biệt tôn giáo không chỉ tạo khoảng cách giữa hai người mà còn tạo khoảng cách với gia đình của bạn đời mình, vì thế phía người Công giáo cần gia tăng lòng cậy trông vào Chúa, sống chân thành, và khi có dịp, đừng ngại chia sẻ niềm tin cho những người mình yêu mến. Về việc tôn kính tổ tiên, cả hai cần hiểu kỹ quan điểm của Hội Thánh Công giáo và chu toàn phận vụ mình trong gia tộc cách tận tụy.

Với giáo xứ: Cần vượt thắng tâm trạng xa cách với giáo xứ bằng việc thắt chặt tình thân với một nhóm gia đình trong giáo xứ. Sự gắn bó ấy sẽ là yếu tố quan trọng nâng đỡ và đồng hành với mình trong cuộc sống.

Kỳ vọng của Mẹ Hội Thánh:

Hôn nhân khác đạo bao giờ cũng có nhiều khó khăn, nhưng Hội Thánh luôn tin tưởng vào ơn Chúa, cầu nguyện và ước mong rằng “chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1 Cr 7,14).


3. Ghi nhớ
Tôn giáo có một vai trò rất quan trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình, vì niềm tin tôn giáo ảnh hưởng đến lối suy nghĩ, cách xử sự và việc giáo dục con cái. Trong một số các trường hợp cụ thể, Hội Thánh ban phép chuẩn khác đạo để tín hữu Công giáo kết hôn với người ngoài Công giáo, với những điều kiện sau đây:

- Hai người phải hiểu biết và chấp nhận những mục đích và đặc tính của hôn nhân.

- Bên Công giáo phải cam kết giữ đức tin của mình, bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo.

- Bên không Công giáo phải tôn trọng tôn giáo của bên Công giáo.


4. Quyết tâm
Ý thức đời sống hôn nhân khác đạo có nhiều thử thách và khó khăn, mọi người cần cầu nguyện, thăm viếng, nâng đỡ, và động viên, nhất là phía gia đình cha mẹ Công giáo. Nhờ đó giúp gia đình nhỏ này vượt qua được những khác biệt để họ có thể trở thành không những là bạn đời, mà còn là người bạn đạo của nhau.

Bài 18

CÁC THỦ TỤC VÀ NGHI LỄ HÔN PHỐI
1. Lời Chúa
Ta hãy vui mừng hoan hỉ, hãy tôn vinh Chúa! Vì này đã đến rồi, tiệc cưới Chiên Con, và hiền thê của Ngài đã trang điểm sẵn sàng. Và nàng được mặc trúc bâu rạng ngời tinh sạch” (Kh 19,7-8).
2. Giải thích
Tự bản chất, hôn nhân mang tính xã hội, vì nối kết đôi bạn trước mặt gia đình, bạn bè, cũng như trước mặt toàn thể xã hội. Chính vì thế, xã hội nào cũng có những quy định về cưới hỏi, tạo nên những phong tục, tập quán riêng.

Đối với Kitô giáo, hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh và đã được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích. Bởi vậy, Hội Thánh cũng có những thủ tục và lễ nghi nhằm diễn tả bản chất đích thực của giao ước hôn nhân, đồng thời giúp đôi tân hôn đón nhận dồi dào ân sủng do bí tích Hôn phối mang lại.

Là Kitô hữu Việt Nam, khi tổ chức hôn lễ, chúng ta cần diễn tả đức tin theo văn hoá truyền thống của mình.

Các thủ tục và nghi lễ dân sự:

- Đăng ký kết hôn: tại Ủy ban Nhân dân, nơi đang cư trú (xã, phường) của một trong hai bên kết hôn.

- Tổ chức đăng ký kết hôn: Khi tổ chức đăng ý kết hôn phải có mặt hai bên nam nữ. Hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn trước mặt vị đại diện chính quyền, sau đó sẽ nhận Giấy chứng nhận kết hôn.

Các nghi lễ theo truyền thống Việt Nam:

Thuở trước, nghi lễ cưới hỏi của người Việt Nam khá phức tạp vì ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, ngày nay, các thủ tục và lễ nghi đã được đơn giản hơn, chủ yếu tập trung vào trong 3 lễ sau: dạm hỏi; đính hôn và lễ cưới.

- Dạm hỏi: Đây là nghi thức đầu tiên, sau khi đôi trai gái đã quên biết nhau và được cha mẹ hai bên đồng ý. Nghi lễ này thường được tổ chức trong phạm vi gia đình hai bên. Tuy nhiên, ngày nay nhiều nơi đã bỏ lễ này, chỉ còn giữ lễ đính hôn và lễ cưới.

- Lễ đính hôn: Sau thời gian tìm hiểu, bên nhà trai mang lễ vật đến nhà gái chính thức xin cầu hôn. Lễ nầy cũng được gọi là lễ hỏi.

- Lễ cưới (bên nhà trai thì lễ Thành Hôn, bên nhà gái thì Lễ Vu Quy).

Các thủ tục và nghi lễ Công giáo:

Các thủ tục của Hội Thánh có mục đích bảo đảm việc cử hành Bí tích Hôn phối được thành sự.



- Chuẩn bị:

+ Hai gia đình cùng với người đại diện khu vực, xóm đạo đến trình cha quản xứ bên nữ nhằm xác minh là tín hữu công giáo và trong tình trạng độc thân.

+ Ôn tập giáo lý hôn nhân cũng như cách sống đức tin trong đời sống hôn nhân và gia đình. Việc chuẩn bị này là điều rất quan trọng để lời cam kết của hai anh chị trở thành một hành vi tự do và có trách nhiệm, cũng như hôn ước của họ có được nền tảng tự nhiên và siêu nhiên, vững chắc và lâu dài.

+ Rao hôn phối: việc rao hôn phối tại mỗi xứ (bên nam và bên nữ) nhằm để cho mọi người trong cộng đoàn biết, thêm lời cầu nguyện và cộng tác với linh mục quản xứ xem xét các ngăn trở nếu có, đồng thời để ấn định lễ cưới.



- Cử hành Bí tích Hôn phối:

+ Địa điểm: tại nhà thờ giáo xứ của bên nữ hoặc bên nam. Nếu cử hành tại một nhà thờ khác hay một nhà nguyện, cần có phép của cha xứ.

+ Nhân chứng: cần có 2 người làm chứng.

+ Vị chứng hôn: thông thường cha xứ là người chứng hôn. Ngài cũng có thể ủy quyền cho các linh mục khác hay phó tế chứng hôn. Nơi nào không có linh mục, Đức Giám mục địa phận có thể ủy quyền chứng hôn cho một giáo dân xứng hợp.

+ Ghi sổ: sau khi cử hành bí tích Hôn phối, đôi tân hôn, vị chứng hôn và hai người làm chứng ký tên vào Sổ Hôn phối. Sau đó ghi việc kết hôn vào Sổ Rửa tội của đôi tân hôn.
3. Ghi nhớ
Khi quyết định tiến tới hôn nhân, đôi bạn cần trình cha xứ để làm được chỉ dẫn làm tốt các công việc chuẩn bị cho việc cử hành bí tích hôn phối, cụ thể là các việc này:

- Một là làm tờ khai hôn phối.

- Hai là được hướng dẫn về giáo lý hôn nhân.

- Ba là rao hôn phối.

- Bốn là quyết định ngày cử hành hôn lễ.

Đối với các tín hữu công giáo, Hội Thánh buộc các tín hữu cử hành hôn phối theo nghi thức của Hội Thánh. Và đây là bốn lý do:

- Bí tích Hôn phối là hành vi phụng vu.

- Hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh.

- Cần phải có sự chắc chắn về sự kết hôn (nên buộc phải có người làm chứng).

- Việc công khai bày tỏ sự ưng thuận sẽ giúp hai vợ chồng sống chung thuỷ với nhau.


4. Quyết tâm
Ngày nay cái nhìn về hôn nhân và gia đình thay đổi mạnh mẽ theo hướng tiêu cực hơn là tích cực, nhất là nơi người trẻ, với não trạng không muốn bị ràng buộc với các luật lệ, phong tục tập quán... Vì thế, những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, đặc biệt các linh mục quản xứ và cha mẹ cần phải nắm vững kiến thức và ý nghĩa của các nghi lễ theo truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như của Giáo Hội, nhằm truyền đạt cho con cái ngay từ độ tuổi thiếu niên, qua các giờ giáo lý tại giáo xứ và tại gia đình.

Nên sử dụng các Nghi thức Đính hôn, Vu quy và Thành hôn theo các mẫu mà Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin đã đề nghị trong sách Giáo Lý Hôn Nhân và Gia Đình, nhằm nêu bật tinh thần Kitô giáo trong các nghi lễ này, nhất là khi có thân nhân là những người ngoài Công giáo.



Bài 19

ĐẠO HIẾU

 

1. Lời Chúa


Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1 Tm 5,8).
2. Giải thích
Truyền thống gia đình Việt Nam xem trọng đạo hiếu và tình gia tộc. Bước vào cuộc sống hôn nhân, hai vợ chồng không phải chỉ bước vào cuộc sống riêng tư đóng kín, chỉ riêng hai người với nhau, mà còn mở ra với cha mẹ đôi bên, cũng như với anh chị em bà con họ hàng.

Kinh Thánh xem hiếu thảo là điều răn quan trọng hàng đầu trong tương quan giữa người với người (x. Ep 6,1-2). “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa (GLGHCG, 2197). Chúa Giêsu khi đến trần gian đã nêu gương hiếu thảo: cuộc sống ở trần gian của Ngài chỉ có 33 năm, nhưng Ngài đã dành 30 năm sống hiếu thảo, vâng lời trong gia đình Nadarét (x. Lc 2,51-52).

Ngày 20 tháng 10 năm 1964, Tòa Thánh đã chấp thuận đề nghị của các Giám Mục Việt Nam xin áp dụng Huấn thị Plane Compertum Est (8/12/1939), về việc tôn kính tổ tiên, cho Giáo Hội tại Việt Nam, với một vài hướng dẫn cụ thể tóm lược như sau:

- Giáo Hội Công giáo luôn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc... Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện, hoặc bổ túc để đi đến chỗ thiện hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã thánh hóa những phong tục cũng như những truyền thông chân chính của các dân tộc.

- Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt, đó là không tham dự cách chủ động và tích cực vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào, hoặc lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mặc khải một đạo không sai lầm trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội luôn tôn trọng nhìn nhận những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác.

- Đối với việc tôn kính tổ tiên và các anh hùng dân tộc, Huấn thị Plane Compertum Est nhận định rằng trước đây những cử chỉ bày tỏ lòng tôn kính với các bậc tổ tiên được coi là một hành vi tôn giáo, vì thế mà bị cấm đoán. Nay nhận thấy chỉ là những phương cách biểu lộ lòng tôn kính đối với các bậc tiền nhân; về các nghi lễ có tính thế tục, lịch sự và xã giao, Giáo Hội chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho các nghi thức đó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy trường hợp. Vì thế, Huấn thị xác định được thi hành và tham dự cách chủ động.

- Tuy nhiên, vì nhiệm vụ bảo vệ sự tinh tuyền của đức tin Công giáo, Giáo Hội không thể chấp nhận cho các Kitô hữu có những hành vi, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý của Giáo Hội Công giáo. Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công giáo, như các lễ nghi biểu lộ sự phục tùng và lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như thể đối với Thiên Chúa, hoặc những việc dị đoan rõ rệt, hoặc nghi lễ cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự... thì các Kitô hữu không được thi hành và tham dự. Trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động.

- Trong trường hợp những nghi thức tế tự này không rõ thế tục hay tôn giáo, thì phải dựa trên nguyên tắc: nếu những hành vi này, theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với đức tin Công giáo, nên được tham dự; còn trường hợp nếu chưa hết nghi nan, thì theo hướng dẫn của lương tâm ngay lành và xử sự cách khôn khéo. Sự tham dự chỉ được có tính cách thụ động.



tải về 342.63 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương