BỘ thông tin và truyềN thông cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc


Công tác chỉ đạo của Đảng và quản lý của nhà nước đối với hoạt động xuất bản



tải về 211.45 Kb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích211.45 Kb.
#30175
1   2

3. Công tác chỉ đạo của Đảng và quản lý của nhà nước đối với hoạt động xuất bản

- Về thuận lợi

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều sự quan tâm đối với hoạt động xuất bản, thể hiện qua các văn bản chỉ đạo và văn bản quy phạm pháp luật được ban hành như: Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25/8/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản; Thông báo kết luận số 122-TB/TW của Ban Bí thư về sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 42/CT-TW, Thông báo số 289-TB/TW ngày 04/12/2009 thông báo kết luận của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng mô hình tổ chức của nhà xuất bản trước yêu cầu mới; Quyết định số 281-QĐ/TW ngày 26/01/2010 của Ban Bí thư quy định về việc chỉ đạo, định hướng tư tưởng đối với các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong nội dung xuất bản phẩm; Quyết định số 282-QĐ/TW ngày 26/01/2010 của Ban Bí thư quy định trách nhiệm, quyền hạn và việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật cán bộ lãnh đạo của nhà xuất bản;

Sau khi Luật Xuất bản được ban hành, Bộ Văn hóa-Thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông) đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan chức năng soạn thảo để trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền một số văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thi hành Luật (Nghị định số 111/2005/NĐ-CP, Nghị định số 11/2009/NĐ-CP, Nghị định số 110/2010/NĐ-CP, Nghị định số 72/2011/NĐ-CP) và nhiều văn bản khác để hướng dẫn thi hành Luật Xuất bản và điều chỉnh các lĩnh vực xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm cho phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển đi đôi với tăng cường quản lý.

Bên cạnh đó, Bộ cũng đã phối hợp với các cơ quan có liên quan ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về đặt hàng xuất bản phẩm sử dụng ngân sách nhà nước, kinh phí trợ cước xuất bản phẩm ra nước ngoài, trợ giá cước vận chuyển sách báo cho miền núi, hải đảo; Phối hợp với Bộ Công an ban hành Thông tư liên tịch về phối hợp phòng, chống in lậu, đồng thời chỉ đạo các đơn vị chức năng trong Bộ phối hợp với Bộ Công an thành lập Đoàn liên ngành phòng, chống in lậu tại Trung ương và cấp tỉnh để tiến hành kiểm tra thường xuyên và đột xuất các cơ sở in và kinh doanh xuất bản phẩm để kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Các Sở Văn hóa-Thông tin, Sở Thông tin và Truyền thông nhanh chóng tiếp cận và thực thi các quy định mới của Luật, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất bản được thuận lợi, đúng pháp luật.

Sự quan tâm chỉ đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước, trong 6 năm qua hoạt động xuất bản đã có sự khởi sắc hơn. Thông qua việc liên kết xuất bản, các nhà xuất bản đã thu hút được nguồn bản thảo nhiều hơn, huy động được tiềm lực kinh tế của các đối tác theo quy định của Luật Xuất bản tham gia vào hoạt động xuất bản. Từ khi Chính phủ chủ trương bãi bỏ một số giấy phép và chuyển một số giấy phép thành điều kiện kinh doanh, hoạt động in và phát hành có môi trường pháp lý minh bạch và thông thoáng hơn. Nhiều cơ sở in hiện đại được thành lập, hệ thống siêu thị, cửa hàng, bán sách qua mạng đã xuất hiện và ngày càng phổ biến giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động...;

- Khó khăn, vướng mắc

So với vị trí, vai trò và tính chất của hoạt động xuất bản, thì các chính sách của Nhà nước đối với hoạt động này còn chưa tương xứng. Vẫn còn nhiều nội dung trong chủ trương của Đảng và Luật Xuất bản đối với hoạt động xuất bản chưa được cụ thể hóa bằng cơ chế, chính sách của Chính phủ.

Các chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ hoạt động xuất bản còn thiếu đồng bộ, một số quy định không phù hợp với thực tiễn hoạt động phát hành xuất bản phẩm, gây khó khăn khi triển khai thực hiện. Thực hiện Quy hoạch ngành Xuất bản, In, Phát hành sách giai đoạn 2001-2010 còn nhiều tồn tại, thiếu sót, một số nội dung chưa được triển khai thực hiện. Có chính sách đã được quy định trong Luật Xuất bản, nhưng đến nay vẫn chưa được thực hiện do chưa có văn bản hướng dẫn. Hoặc có những chính sách đã được ban hành nhưng mức độ hỗ trợ quá ít không tương xứng với vị trí, vai trò của ngành và yêu cầu hưởng thụ của nhân dân đặc biệt là tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới và hải đảo.

Đã có những điểm không thống nhất (“vênh”) giữa Luật Xuất bản với một số quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Cán bộ, công chức,…dẫn đến công tác điều hành, quản lý hoạt động xuất bản và thực thi Luật Xuất bản gặp không ít khó khăn,vướng mắc.

Do thiếu vốn hoạt động nên nhiều nhà xuất bản phải liên kết với các thành phần kinh tế khác, hay gọi là “bán giấy phép” cho đối tác và bỏ qua các nguyên tắc quản lý để các đối tác liên kết thao túng, chi phối sâu vào hoạt động xuất bản.

Việc đào tạo, bồi dưỡng và quan tâm đến đời sống của biên tập viên, cán bộ quản lý chưa thật đúng mức. Đặc biệt, đối với đội ngũ lãnh đạo thì việc quy hoạch, bổ nhiệm phải tuân thủ theo quy định của Luật Xuất bản nhưng trong thực tế việc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo nhà xuất bản ở một số nhà xuất bản không đúng quy trình, không phù hợp với quy định của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, cần xem xét, cụ thể hóa tiêu chuẩn bổ nhiệm theo Quyết định số 282-QĐ/TW ngày 26-1-2010 của Ban Bí thư Trung ương về trách nhiệm, quyền hạn và việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo nhà xuất bản vào Luật Xuất bản.



II- TÌNH HÌNH CHUẨN BỊ SỬA ĐỔI LUẬT XUẤT BẢN

1. Đánh giá 6 năm thi hành Luật Xuất bản

Ngay sau khi Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội khóa XIII về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và điểu chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 được ban hành, trong đó có dự án Luật Xuất bản (sửa đổi), với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ động chỉ đạo các Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh, thành phố, các cơ quan chủ quản nhà xuất bản, các đơn vị xuất bản, in, phát hành trên cả nước tiến hành tổng kết, đánh giá việc thi hành Luật Xuất bản trên mọi phương diện. Qua đó, nêu lên các vướng mắc, khó khăn trong việc thực thi Luật cũng như các hạn chế, tồn tại, bất cập từ chính các quy định của Luật trong quá trình thực thi tại cơ sở, đồng thời đề xuất phương án dự kiến sửa đổi.

Trên cơ sở tổng kết, đánh giá thi hành Luật Xuất bản tại các bộ, ngành, đơn vị và các địa phương trên cả nước, ngày 12 tháng 10 năm 2011, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức Hội nghị đánh giá 6 năm thi hành Luật Xuất bản. Hội nghị đã tập trung thảo luận về những mặt được, chưa được trong công tác thi hành Luật Xuất bản 6 năm qua và tập trung thảo luận về những nội dung dự kiến đề xuất sửa đổi Luật sắp tới. Để chuẩn bị tốt cho việc xây dựng dự án Luật Xuất bản (sửa đổi) Hội nghị đã thống nhất một số vấn đề cần nghiên cứu sâu, có tính quyết định và định hướng cho việc sửa đổi Luật để báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ trước khi triển khai.

2. Thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập dự án Luật Xuất bản (sửa đổi)

Thay mặt Chính phủ và thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông đã dự kiến thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập dự án Luật Xuất bản (sửa đổi) do Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông làm Trưởng ban và các thành viên là đại diện của các Bộ, Ban ngành có liên quan: Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Bộ Công thương.



3. Dự kiến đề xuất sửa đổi Luật Xuất bản

3.1. Sự cần thiết phải sửa đổi Luật Xuất bản

Luật Xuất bản được Quốc hội ban hành năm 2004, sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động xuất bản (bao gồm cả in và phát hành xuất bản phẩm), phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng và hiệu quả, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của đất nước và góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Luật Xuất bản năm 2004 qua 6 năm thi hành đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế như sau:

Một số quy định chưa cụ thể, bất cập như: Phạm vi điều chỉnh, vị trí pháp lý, tính chất, mục đích của hoạt động xuất bản; chính sách hỗ trợ cho hoạt động xuất bản; đối tượng thành lập nhà xuất bản; điều kiện thành lập nhà xuất bản; liên kết trong hoạt động xuất bản; xuất bản và phát hành sách trên mạng internet,v.v...Một số quy định của Luật hiện hành còn mang tính chất nguyên tắc chung, chưa được cụ thể hóa nên rất khó thực hiện trong thực tiễn.

Trong 6 năm qua, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước ta đã có những biến đổi nhanh chóng. Trong hoạt động xuất bản đã xuất hiện nhiều quan hệ xã hội mới, nhiều hiện tượng mới phát sinh mà những quy định của Luật Xuất bản hiện hành không điều chỉnh được hoặc thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, thậm chí mâu thuẫn với những văn bản Luật có liên quan (Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Cán bộ, công chức,…) nên gây khó khăn, vướng mắc cho công tác quản lý và tổ chức thực hiện.

Trước xu thế phát triển nhanh của công nghệ thông tin ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động xuất bản, quy định của Luật về xuất bản trên mạng internet chưa theo kịp sự phát triển và còn quá sơ sài, cần thiết phải sửa đổi cho cụ thể, đầy đủ và phù hợp hơn với thực tiễn.

Mặt khác, trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, vừa qua Đảng và Nhà nước đã ban hành một số văn bản liên quan đến hoạt động xuất bản để điều chỉnh từng mặt của hoạt động xuất bản như Chỉ thị 42-CT/TW ngày 25 tháng 08 năm 2004 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng toàn diện hoạt động xuất bản, Thông báo kết luận số 289-TB/TW về việc xây dựng mô hình tổ chức hoạt động xuất bản trước yêu cầu mới; Quyết định số 281-QĐ/TW, số 282-QĐ/TW, số 283-QĐ/TW của Ban Bí thư về chỉ đạo công tác xuất bản, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thuế.... Một số nội dung trong các văn bản nói trên có nhiều khác biệt so với một số điều khoản của Luật Xuất bản năm 2004 nên cần phải sửa đổi Luật Xuất bản cho phù hợp với các văn bản đó.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát triển đúng định hướng trong thời kỳ mới khi Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, đồng thời tăng cường công tác quản lý Nhà nước, đề cao trách nhiệm và quyền hạn của các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản, yêu cầu sửa đổi Luật Xuất bản hiện hành, tăng cường khung pháp luật về hoạt động này là rất cần thiết và đáp ứng đòi hỏi thực tiễn.



3.2. Quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc sửa đổi

Luật Xuất bản (sửa đổi) phải thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế-xã hội nói chung và chủ trương, chính sách về phát triển hoạt động xuất bản nói riêng, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới theo phương châm phát triển đi đôi với quản lý tốt và hội nhập quốc tế.

Luật Xuất bản (sửa đổi) phải đồng bộ, thống nhất với Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư cũng như các chính sách khác của Nhà nước theo hướng thúc đẩy hoạt động xuất bản phát triển trước xu thế hội tụ thông tin và công nghệ giữa xuất bản truyền thống với xuất bản hiện đại sử dụng công nghệ kỹ thuật số.

Luật Xuất bản (sửa đổi) phải kế thừa được những ưu điểm của Luật Xuất bản năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản năm 2008, khắc phục được những thiếu sót, bất cập và bổ sung những chế định còn thiếu như đã nêu trên để điều chỉnh hoạt động xuất bản trong giai đoạn mới.



4. Các nội dung cụ thể của Luật Xuất bản dự kiến sửa đổi, bổ sung

4.1. Khái niệm hoạt động xuất bản

Theo Đại từ điển tiếng Việt - Nguyễn Như Ý giải thích: Xuất bản là việc chuẩn bị bản thảo rồi in ra thành sách, báo, tranh ảnh và phát hành. Tuy nhiên, Điều 1 của Luật hiện hành quy định “hoạt động xuất bản bao gồm các lĩnh vực xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm”… là quy định về phạm vi và như vậy là hoàn toàn chưa thể hiện được khái niệm. Vì vậy, Luật mới cần xác định rõ khái niệm về hoạt động xuất bản.



4.2. Phạm vi điều chỉnh của Luật

Điều 1 Luật Xuất bản hiện hành mới chỉ điều chỉnh các lĩnh vực xuất bản, in xuất bản phẩm và phát hành xuất bản phẩm. Còn lĩnh vực in các sản phẩm không phải là xuất bản phẩm (in báo chí, tem chống giả...) thì lại do Nghị định khác của Chính phủ điều chỉnh (Nghị định số 105/2007/NĐ-CP). Có thể nói, hoạt động in có vị trí, vai trò quan trọng, thông qua công cụ, thiết bị ngành in để tạo ra và gia công sản phẩm với số lượng tùy ý; Về mặt thiết bị thì các cơ sở in báo chí, in bao bì, in tem chống giả,... đều in được xuất bản phẩm. Do đó, việc phân định cơ sở nào có in xuất bản phẩm, cơ sở in nào in sản phẩm không phải là xuất bản phẩm chỉ là tương đối và rất khó kiểm soát về mặt thiết bị, nhất là việc lợi dụng thiết bị in để thực hiện mục đích xấu, trái pháp luật, như: in lậu gây rối loạn thị trường hoặc in tài liệu tuyên truyền chống đối Nhà nước thì tác hại là vô cùng lớn. Do đó, Chính phủ đã đưa hoạt động in vào danh mục của những ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật đến cơ sở in các sản phẩm không phải là xuất bản phẩm (báo chí, tem chống giả, giấy tờ phục vụ quản lý nhà nước, bao bì, nhãn hàng,v.v...) là cần thiết. Hơn nữa, với tư duy hậu kiểm là không thực sự hiệu quả, nếu có xử lý cũng không triệt để. Vì vậy, sửa đổi Luật Xuất bản lần này đối với hoạt động in vẫn theo hướng xã hội hóa hoạt động in để huy động nguồn lực đầu tư, nhưng cần theo hướng bổ sung các quy định về quản lý nhà nước trong hoạt động in (đối với tất cả các loại sản phẩm in), nhằm tạo hành lang pháp lý để hoạt động in phát triển đúng hướng, đúng pháp luật, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi nạn in lậu, làm hàng giả, hàng nhái, văn bằng, chứng chỉ giả, tiền giả, giấy tờ có mệnh giá giả, giấy tờ quản lý nhà nước giả và in tài liệu sai trái như trong thời gian 6 năm vừa qua.

Ngoài ra, trong Điều 1 Luật hiện hành chưa quy định phạm vi điều chỉnh có công tác quản lý nhà nước về xuất bản, vì vậy cần bổ sung thêm. Cụ thể như sau: Luật này quy định về quản lý, tổ chức và hoạt động xuất bản. Đồng thời quy định thêm một điều giải thích từ ngữ để làm rõ một số khái niệm cụ thể trong Luật Xuất bản. Ví dụ: xuất bản phẩm được xuất bản và phát hành xuất bản phẩm trên internet là như thế nào (là xuất bản phẩm hay tác phẩm báo chí), phân định rõ giới hạn điều chỉnh giữa hai Luật Xuất bản và Luật Báo chí, trong đó có in báo chí.

4.3. Vị trí, mục đích của hoạt động xuất bản

Điều 3 Luật hiện hành quy định vị trí, mục đích của hoạt động xuất bản khá đầy đủ, tuy nhiên chưa xác định rõ mục đích của xuất bản không phải chỉ là lợi nhuận, đồng thời còn là những giá trị văn hóa, tinh thần mà nó chứa đựng và chuyển tải. Vì vậy, cần bổ sung thêm tính chất của hoạt động xuất bản là một hoạt động đặc thù, cần có cơ chế chính sách ưu đãi để ngành phát triển, nâng cao vị trí, vai trò trong giai đoạn mới.



4.4. Khái niệm về xuất bản phẩm

Theo Đại từ điển tiếng Việt: Xuất bản phẩm là ấn phẩm nói chung. Nói cách khác, xuất bản phẩm là tên gọi chung của những ấn phẩm được in thành nhiều bản để phát hành như sách, báo, tranh, ảnh. Hiện nay, xuất bản phẩm còn ở dạng băng đĩa các loại và sách điện tử, trên internet. Quy định về xuất bản phẩm như Điều 4 của Luật hiện nay chưa thật cụ thể, không rõ về hình thức, quá rộng về phạm vi nội dung vì hầu như tất cả tác phẩm, tài liệu ở mọi lĩnh vực đều được coi là xuất bản phẩm. Do đó, cần xem xét, sửa đổi cho phù hợp và chính xác hơn.



4.5. Về nguyên tắc công bố, phổ biến tác phẩm

Điều 5 của Luật Xuất bản đã quy định: “Nhà nước bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản”. Tuy nhiên, do sự phát triển của công nghệ thông tin và thực tế đặt ra, nhiều tác phẩm đã được công bố, phố biến dưới dạng điện tử (trên trang thông tin điện tử, trang blog cá nhân, máy đọc sách) mà chủ yếu là không thông qua nhà xuất bản. Do vậy, vấn đề này cần được xem xét và quy định bổ sung vào Luật như thế nào để vừa quản lý tốt nhưng vẫn đảm bảo quyền công bố, phổ biến tác phẩm.



4.6. Về sự thống nhất giữa vị trí pháp lý của hoạt động xuất bản và chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển sự nghiệp xuất bản

Điều 3 của Luật Xuất bản đã quy định rõ vị trí pháp lý của hoạt động xuất bản "thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng...", nhưng tại Điều 6 quy định về chính sách phát triển sự nghiệp xuất bản lại quy định "Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện xây dựng ngành xuất bản trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật phát triển toàn diện". Quy định giữa 2 điều luật này chưa thực sự thống nhất, dẫn đến thực tế những năm qua, việc xây dựng một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển cho hoạt động xuất bản đã gặp phải nhiều khó khăn. Mặt khác, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ trong Luật còn chưa cụ thể, từ đó việc triển khai hướng dẫn, thực hiện chính sách ưu đãi gặp nhiều vướng mắc, lúng túng, thậm chí chưa ban hành được.

Do vậy, đề nghị quy định rõ trong Luật sửa đổi các chính sách ưu đãi, hỗ trợ kinh phí trong từng lĩnh vực xuất bản, in, phát hành (bao gồm ưu đãi về trụ sở, thu tiền cho thuê nhà, thu tiền sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, vay vốn, tăng mức đặt hàng, hỗ trợ kinh phí khen thưởng, hỗ trợ cước vận chuyển xuất bản phẩm trong và ngoài nước, v.v...) một cách cụ thể cả về mức độ, phạm vi và đối tượng thụ hưởng ít nhất ngang bằng với một số lĩnh vực khác đang được hưởng ưu đãi của Nhà nước.



4.7. Về hội nhập quốc tế trong hoạt động xuất bản

Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hoạt động xuất bản (bao gồm 3 lĩnh vực xuất bản, in, phát hành) đang cho nước ngoài được tham gia phát hành xuất bản phẩm (trừ sách), được nhập khẩu xuất bản phẩm (bao gồm cả sách thông qua đầu mối nhập khẩu). Ngoài ra, còn cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia vốn góp trong liên doanh đến 49% đối với dịch vụ in ấn bao bì theo Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS). Nhưng theo yêu cầu của việc ký kết và gia nhập điều ước quốc tế, cụ thể là các hiệp định thương mại quốc tế thì việc sửa đổi Luật Xuất bản (nội luật) cần phải thể hiện được sự thống nhất với các cam kết quốc tế. Mặc dù năm 2008, các điều 38, 39, 43 của Luật về phát hành xuất bản phẩm đã được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO về lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm.

Do hạn chế của Luật Xuất bản là được ban hành trước khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, nên chưa có quy định cụ thể về việc hạn chế hay giới hạn đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài gián tiếp đầu tư (mua cổ phiếu) của doanh nghiệp in, phát hành xuất bản phẩm. Dẫn đến thực tế phát sinh là một số doanh nghiệp cổ phần in, phát hành xuất bản phẩm của Việt Nam đã, đang và tiếp tục niêm yết cổ phiếu trên hai sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội và TPHCM. Theo số liệu do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cung cấp thì đã có 26 công ty in và phát hành sách niêm yết trên trên 2 sàn giao dịch chứng khoán. Tính đến thời điểm tháng 9/2011, nhà đầu tư nước ngoài đã mua cổ phiếu của 24/26 công ty này với số lượng cổ phiếu nắm giữ cao nhất lên đến 14%.

Mặt khác, để thực hiện chủ trương, đường lối của Việt Nam trong việc hội nhập quốc tế đã được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, trong đó có việc tiếp tục tham gia, ký kết các hiệp định song phương và đa phương, mà gần đây nhất là Việt Nam đã tham gia đến phiên đàm phán thứ 8 tại Hoa Kỳ về Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đây là hiệp định thương mại đa phương được cho là mở rộng tự do thương mại, dịch vụ mạnh mẽ hơn so với các hiệp định thương mại khác mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, thậm chí cả WTO, với nhiều nguyên tắc bắt buộc chặt chẽ. Đa số các nước tham gia đàm phán TPP đều xếp hoạt động xuất bản, in ấn và phát hành xuất bản phẩm vào phân ngành dịch vụ, phân phối thương mại. Theo dự kiến việc đàm phán TPP giữa các nước sẽ kết thúc vào cuối năm 2012. Điều này có ảnh hướng lớn đến định hướng quản lý và vị trí pháp lý của hoạt động xuất bản được quy định trong Luật Xuất bản (thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng).

Do đó, đòi hỏi Luật Xuất bản cần phải sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa quan điểm hội nhập, các định hướng quản lý của Việt Nam trong tương lai một cách đầy đủ và minh bạch hơn khi phải tuân thủ các cam kết quốc tế.

4.8. Về đối tượng được thành lập nhà xuất bản và loại hình tổ chức hoạt động của nhà xuất bản

Với vị trí pháp lý của hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, nên việc thành lập và sở hữu nhà xuất bản được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, chỉ đạo chưa cho phép thành phần kinh tế tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài tham gia mà phải do Nhà nước nắm giữ 100% vốn (Quyết định số 38/2007/QĐ-TTg được thay thế bằng Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ).

Tuy nhiên, theo Luật Xuất bản và các Nghị định quy định chi tiết thi hành thì đối tượng được thành lập nhà xuất bản gồm có các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp ở trung ương trực tiếp sáng tạo và công bố tác phẩm và tổ chức khác do Thủ tướng Chính phủ đồng ý được thành lập nhà xuất bản. Nhưng trên thực tế, chính điều này lại gây ra một mâu thuẫn. Một khi nhà xuất bản phải do Nhà nước nắm giữ 100% vốn (bao gồm các loại hình: doanh nghiệp nhà nước trước đây, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty TNHH một thành viên 100% vốn nhà nước) thì các Hội, Hiệp hội là tổ chức phi Chính phủ không thể thành lập được nhà xuất bản, vậy mà đã có một số nhà xuất bản tồn tại nhiều năm qua, thậm chí có nhà xuất bản không phải do Nhà nước nắm giữ 100% vốn. Đáng lẽ, theo Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì các nhà xuất bản này phải giải thể hoặc sáp nhập.

Về loại hình tổ chức, Điều 11 Luật Xuất bản hiện hành quy định loại hình của nhà xuất bản gồm: Đơn vị sự nghiệp có thu và doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Doanh nghiệp, các nhà xuất bản là doanh nghiệp nhà nước đang phải chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên. Riêng đối với nhà xuất bản đã là công ty TNHH một thành viên thì việc quản lý nhà xuất bản cũng gặp khó khăn khi chuyển đổi cơ quan chủ quản là các bộ, ngành, tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố sang hội đồng thành viên và chính điều này đã làm cho các quy định của Luật trở nên bất cập.

Do đó, cần xem xét sửa đổi các quy định có liên quan trong Luật Xuất bản theo hướng nêu rõ đối tượng được thành lập nhà xuất bản (cơ quan chủ quản), loại hình tổ chức của nhà xuất bản và quan hệ sở hữu giữa cơ quan chủ quản với nhà xuất bản trực thuộc cho phù hợp với hệ thống pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư và dễ thực thi hơn.

4.9. Về điều kiện thành lập nhà xuất bản

Điều 12 Luật Xuất bản quy định 5 điều kiện để được thành lập nhà xuất bản. Tuy nhiên, một số điều kiện còn mang tính định tính, không cụ thể, đã phát sinh bất cập, khó thực thi. Cụ thể là tại khoản 3 quy định "trong các chức danh lãnh đạo nhà xuất bản phải có ít nhất một người hoạt động trong lĩnh vực xuất bản từ ba năm trở lên" và khoản 4 quy định "có trụ sở, vốn và các điều kiện cần thiết khác theo quy định của pháp luật". Trên thực tế điều kiện tại khoản 3 rất khó thực hiện đối với các nhà xuất bản thành lập lần đầu, đặc biệt điều kiện quy định tại khoản 4 về cấp vốn cho nhà xuất bản gần như chưa được thực hiện đầy đủ vì vướng các quy định của Luật Ngân sách Nhà nước (đối với các nhà xuất bản hoạt động theo loại hình doanh nghiệp) hoặc các cơ quan chủ quản nhà xuất bản là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp nếu cấp vốn cho nhà xuất bản thì sẽ trái với Quyết định của Thủ tướng Chính phủ như đã nêu tại mục trên vì vốn cấp không phải vốn do Nhà nước sở hữu 100%.

Mặt khác, trong các điều kiện tại Điều 12 lại không quy định phải có đội ngũ biên tập viên, thiếu quy định về vốn cần phải cấp là loại vốn gì (tài sản cố định hay vốn lưu động) và số lượng là bao nhiêu nên rất khó khăn cho quá trình triển khai thực hiện. Do đó, cần phải sửa đổi theo hướng quy định chi tiết, định lượng và thống nhất với các quy định của các luật khác có liên quan và phù hợp với thực tiễn.

4.10. Về trách nhiệm của cơ quan chủ quản

Khi thành lập nhà xuất bản, cơ quan chủ quản có trách nhiệm cấp vốn, cấp trụ sở hoạt động và các điều kiện cần thiết khác cho nhà xuất bản. Tuy nhiên, qua nhiều năm, chỉ có rất ít các cơ quan chủ quản vận dụng được cơ chế để hỗ trợ vốn cho nhà xuất bản của mình, còn lại hầu hết các nhà xuất bản chưa được cấp vốn (Nhà xuất bản Đại học Huế, Tôn giáo, Sân khấu, Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hồng Đức, Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh…) với cả lý do chủ quan và khách quan là vướng mắc các quy định của Luật Xuất bản với Luật ngân sách Nhà nước.

Bên cạnh đó, việc xét duyệt kế hoạch xuất bản của cơ quan chủ quản chỉ mang tính hình thức vì trên thực tế, hầu hết các cơ quan chủ quản không có bộ máy giúp việc chuyên ngành cho lĩnh vực này. Do đó, cần xem xét và điều chỉnh Luật Xuất bản theo hướng quy định những trách nhiệm phù hợp, mang tính khả thi hơn đối với cơ quan chủ quản.

4.11. Về các chức danh lãnh đạo của nhà xuất bản

Theo quy định của Luật hiện hành (Điều 14), lãnh đạo nhà xuất bản gồm 02 chức danh: giám đốc và tổng biên tập. Tuy nhiên, do thực thi theo quy định của Luật Doanh nghiệp, lãnh đạo nhà xuất bản hoạt động theo loại hình công ty TNHH một thành viên thì không có chức danh tổng biên tập, ngược lại còn có thêm các chức danh chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch công ty, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, phó giám đốc, phó tổng biên tập, kiểm soát viên. Do đó, cần xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn.



4.12. Về biên tập viên nhà xuất bản

Hiện nay, hoạt động xuất bản đang gặp nhiều khó khăn về đội ngũ biên tập viên - nguồn nhân lực chính của các nhà xuất bản. Theo số liệu thống kê, 60 nhà xuất bản có 6.480 lao động, thì số lượng biên tập viên là 1.130 người, trong đó biên tập viên có trình độ trên đại học là 215 người và trình độ đại học là 1.115 người. Một số nhà xuất bản lớn và lâu năm mới có nhiều biên tập viên như: Giáo dục Việt Nam, Chính trị quốc gia, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân... còn lại các nhà xuất bản khác có rất ít biên tập viên, thậm chí có nhà xuất bản chỉ có chưa đến 5 biên tập viên.

Việc thiếu nguồn biên tập viên như hiện nay, thứ nhất do ngành xuất bản chưa có sức hấp dẫn đối với xã hội, thu nhập của cán bộ biên tập ngành xuất bản kém hơn rất nhiều so với ngành nghề khác, trong khi yêu cầu về công việc và trình độ đối với biên tập viên lại cao, còn có một nguyên nhân nữa làm khan hiếm nguồn nhân lực của ngành xuất bản đó là đội ngũ những người làm biên tập có kinh nghiệm lâu năm và tâm huyết với nghề đã và đang đến tuổi về hưu. Vì vậy, đang có sự thiếu hụt lớn đối với đội ngũ biên tập viên và tổng biên tập nhà xuất bản.

Bên cạnh đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lãnh đạo các nhà xuất bản chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều cơ quan chủ quản chưa coi xuất bản là một nghề, lãnh đạo nhà xuất bản là một nghề đặc thù nên gần như không có kinh phí đầu tư cho công tác đào tạo nguồn nhân lực của nhà xuất bản. Vì vậy, đội ngũ cán bộ quản lý của các nhà xuất bản chưa chuyên sâu cả về trình độ quản lý kinh tế cũng như trình độ chuyên môn, đội ngũ biên tập viên thì thiếu và yếu cả về chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị, dẫn đến những sai phạm đáng tiếc, bị xử lý.

Để khắc phục tình trạng này, nhằm đảm bảo chất lượng xuất bản phẩm, nhiều nhà xuất bản phải mở rộng mạng lưới cộng tác viên là các nhà khoa học chuyên ngành, các biên tập viên đã nghỉ hưu. Hơn nữa, ngay tại các nhà xuất bản, còn thiếu biên tập viên có đủ trình độ để làm việc, khó có thể gánh thêm nhiệm vụ cho các nhà xuất bản khác. Tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của từng nhà xuất bản, biên tập viên lại có những chức trách khác nhau. Có nhà xuất bản chuyên ngành như Văn học, Xây dựng, Giao thông… nhưng có nhà xuất bản lại mang tính tổng hợp, đa ngành như Thời đại và các nhà xuất bản địa phương. Trong khi đó, hầu hết các biên tập viên khi được đào tạo ở bậc đại học và trên đại học thì họ chỉ được đào tạo chuyên ngành (rất ít biên tập viên có nhiều bằng cấp chuyên ngành khác nhau) nhưng khi làm việc ở nhà xuất bản thì họ lại phải biên tập nội dung sách ở nhiều chuyên ngành khác.

Do đó, trong Luật Xuất bản (sửa đổi) cần phải bổ sung quy định về chế độ ưu đãi, cấp thẻ biên tập viên đối với đội ngũ biên tập viên; chính sách về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đến thang bảng lương, phụ cấp nghề nghiệp. Qua đó, tạo điều kiện để cho biên tập viên nhà xuất bản hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình là cùng với tác giả cho ra đời những xuất bản phẩm chất lượng cao đến với bạn đọc, đồng thời làm tốt nhiệm vụ “lính gác” trên mặt trận văn hóa, tư tưởng.



4.13. Về đăng ký kế hoạch xuất bản của các nhà xuất bản

Hiện nay, việc đăng ký kế hoạch xuất bản của các nhà xuất bản theo quy định của Luật Xuất bản đang xảy ra tình trạng đăng ký “ảo”. Số lượng xuất bản phẩm được đăng ký nhiều nhưng việc thực hiện xuất bản rất ít. Nhiều nhà xuất bản thường xuyên đăng ký bổ sung nhiều lần trong tuần, trong tháng, gây tốn kém thời gian, vật chất cho cơ quan quản lý nhà nước mà thực chất việc đăng ký bổ sung mới là thực hiện xuất bản thực sự. Thêm nữa, trong thực tế, rất ít cơ quan chủ quản đọc duyệt bản thảo của nhà xuất bản để phê duyệt kế hoạch xuất bản trước khi đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước.

Để giải quyết tình trạng này, cần nghiên cứu sửa đổi Luật theo hướng cụ thể hơn, tránh tình trạng đăng ký “ảo”, đăng ký nhiều nhưng thực hiện ít, thiếu thực tế như hiện nay theo các hướng sau:

Phương án 1: Cơ quan chủ quản chỉ định hướng kế hoạch đề tài trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của nhà xuất bản. Căn cứ định hướng của cơ quan chủ quản, nhà xuất bản đăng ký kế hoạch xuất bản với các tên sách cụ thể. Cơ quan quản lý nhà nước xem xét, xác nhận đăng ký và có quyền từ chối xác nhận nếu trái tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của nhà xuất bản hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Phương án 2: Không nhất thiết phải quy định cơ quan chủ quản xét duyệt kế hoạch xuất bản trước khi đăng ký, nhà xuất bản thực hiện tóm tắt nội dung, kê khai các tên sách với cơ quan quản lý trước khi xuất bản, đồng thời chịu hoàn toàn trách nhiệm thực hiện theo kê khai (giống như kê khai hải quan). Cơ quan quản lý nhà nước căn cứ vào kê khai để kiểm tra, thanh tra và xử phạt đối với các sai phạm về thực hiện theo kê khai. Phương án này sẽ gần như không kiểm soát “đầu vào” mà chỉ giám sát, quản lý “đầu ra” khi xuất bản phẩm được nộp lưu chiểu.

4.14. Về chế định hậu kiểm, lưu chiểu xuất bản phẩm

Trong nhiều năm trở lại đây, việc nộp lưu chiểu xuất bản phẩm đã bộc lộ những bất cập. Cụ thể là có sự chênh lệch lớn giữa quyết định xuất bản với lưu chiểu. Nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ việc việc liên kết xuất bản, các nhà xuất bản đã buông lỏng khâu quản lý trong việc thực hiện các quy trình xuất bản theo quy định của Luật Xuất bản. Đặc biệt là quy trình nộp lưu chiểu xuất bản phẩm trước khi phát hành. Vì vậy cần sửa đổi, bổ sung quy định về nộp và kiểm tra lưu chiểu xuất bản phẩm như sau:

Với thực tế như đã nêu trên về thời hạn nộp lưu chiểu, do thời hạn nộp 10 ngày trước khi phát hành đối với một số loại xuất bản phẩm như truyện tranh, chuyên đề định kỳ là không khả thi nên cần nghiên cứu, điều chỉnh thời gian ngắn hơn. Đối với các loại xuất bản phẩm khác, thời gian 10 ngày vẫn không đủ, do số người thực hiện việc đọc kiểm tra nội dung còn hạn chế trong khi số đầu sách hàng năm thì liên tục tăng ngày càng gây áp lực với việc đọc kiểm tra nội dung của cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, cũng cần phải coi trọng vai trò của công luận, của giới phê bình, đồng thời tăng cường trách nhiệm pháp lý của nhà xuất bản, không nên coi khâu hậu kiểm là “con đê” cuối cùng để ngăn chặn các xuất bản phẩm sai phạm. Vì vậy, cần đưa vào Luật quy định: xử lý xuất bản phẩm lưu chiểu có sai phạm về nội dung tại bất cứ thời điểm nào phát hiện sai phạm.

Việc phân cấp cho các địa phương có nhà xuất bản được nhận một bản lưu chiểu để theo dõi, kiểm tra và phục vụ công tác quản lý nhà nước về xuất bản tại địa phương theo đề nghị của một số Sở Thông tin và Truyền thông cần được cân nhắc sao cho phù hợp, vì sẽ dẫn đến tình trạng một nhà xuất bản ở địa phương sẽ phải chịu sự quản lý lưu chiểu của 2 cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương gây nên sự bất bình đẳng với các nhà xuất bản thuộc trung ương.

Lớn hơn nữa là quan điểm cho rằng quản lý nhà nước chỉ nên làm hậu kiểm. Điều này đúng cho những xã hội có dân trí cao, ý thức chấp hành pháp luật tự giác và pháp luật được thực thi nghiêm minh. Thực ra, chất lượng của xuất bản phẩm được hình thành từ các chủ thể chính: tác giả, nhà xuất bản (tổng biên tập, biên tập viên), cơ quan quản lý và công luận.

4.15. Về liên kết trong hoạt động xuất bản

Tại khoản 3 Điều 20 quy định trách nhiệm của đối tác liên kết: “Tổ chức, cá nhân liên kết với nhà xuất bản... liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với xuất bản phẩm liên kết”. Với quy định này, nếu xuất bản phẩm có sai phạm, nhà xuất bản phải chịu trách nhiệm trực tiếp còn đối tác liên kết chỉ chịu trách nhiệm liên đới, hay nói cách khác là chịu trách nhiệm với nhà xuất bản theo các điều khoản trong hợp đồng liên kết.

Tuy vậy, thực tế hiện nay các đối tác liên kết chỉ nộp quản lý phí để có được quyết định xuất bản của nhà xuất bản và họ tự triển khai tất cả các khâu từ tổ chức bản thảo, in đến phát hành. Như vậy nếu xuất bản phẩm có sai phạm thì nguyên nhân chủ yếu do lỗi phía đối tác liên kết. Khi xảy ra sự cố và bị xử phạt, bị thu hồi xuất bản phẩm thì cơ quan chức năng chủ yếu xử lý các nhà xuất bản, còn rất khó khăn để xử phạt đối tác liên kết. Nhà xuất bản lại càng khó để quy trách nhiệm và xử lý đối tác liên kết theo hợp đồng. Lý do vì các nhà xuất bản có khi vì nể nang, có khi vì ký hợp đồng không chặt chẽ, hoặc do chính nhà xuất bản cũng không làm đúng trách nhiệm của mình. Có thể nói một xuất bản phẩm liên kết ra đời có chất lượng tốt hay xấu là do ý thức ngang nhau của nhà xuất bản và đối tác. Nếu sai về mặt thủ tục như: đăng ký xuất bản, lưu chiểu thì có thể dễ dàng phân định trách nhiệm và xử lý. Nhưng nếu xuất bản phẩm sai về nội dung thì không thể chỉ quy trách nhiệm cho nhà xuất bản, vì nhiều khi đối tác liên kết vô ý hoặc cố ý không tuân thủ những góp ý biên tập, không nộp xuất bản phẩm để nhà xuất bản đọc duyệt trước khi phát hành nên đã cho ra đời những ấn phẩm không tốt đến tay bạn đọc.

Do vậy, cần nghiên cứu, bổ sung vào Luật Xuất bản (sửa đổi) một điều quy định về trách nhiệm, tiêu chuẩn, điều kiện của đối tác liên kết, những hành vi đối tác liên kết không được thực hiện. Từ đó đưa ra các chế tài xử lý đối tác liên kết theo từng hành vi sai phạm cụ thể.



4.16. Về xuất bản, phát hành xuất bản phẩm trên mạng Internet và các thiết bị kỹ thuật số

Trước xu thế công nghệ thông tin phát triển ngày càng nhanh và phổ biến, các quy định tại Điều 25 Luật Xuất bản không bao quát hết việc xuất bản, phát hành các loại hình xuất bản phẩm sử dụng công nghệ kỹ thuật số. Thực trạng văn hóa đọc hiện nay cho thấy, nhu cầu đọc sách điện tử, sách trực tuyến đã phát triển song hành và có độ hấp dẫn không kém sách in truyền thống, thậm chí nếu đọc theo chuyên đề thì sách điện tử ưu việt hơn và không thể phủ nhận. Về bản chất, quy trình để xuất bản sách điện tử cơ bản giống với xuất bản sách in, chỉ khác về hình thức thể hiện của sách. Vì vậy, Luật mới tất yếu phải quy định về việc xuất bản, phát hành sách điện tử một cách chi tiết và đầy đủ hơn, tính đến cả việc thành lập nhà xuất bản chuyên thực hiện xuất bản, phát hành trên internet.



4.17. Về quảng cáo trên xuất bản phẩm

Điều 29 Luật Xuất bản quy định cụ thể về vị trí và các thông tin được quảng cáo trên xuất bản phẩm. Đối với sách chỉ được quảng cáo về tác giả, tác phẩm, nhà xuất bản trên bìa 2, 3 và 4 trừ sách chuyên về quảng cáo. Tuy nhiên, trên thực tế một số sách chuyên đề đã có sự “vượt rào” để quảng cáo nhiều loại sản phẩm, dịch vụ, hàng hóa trên sách (thực chất là tạp chí). Vì vậy, Luật Xuất bản (sửa đổi) cần quy định rõ và cụ thể hơn về dung lượng quảng cáo đối với loại này và nội dung được quảng cáo, hoặc quy định dẫn chiếu thực hiện theo Luật Quảng cáo. Riêng đối với sách chuyên về quảng cáo cần nêu rõ không được có các bài viết không liên quan đến quảng cáo.



4.18. Về điều kiện để cấp giấy phép hoạt động in

Các điều kiện để cấp giấy phép hoạt động in quy định tại Điều 31 Luật Xuất bản đang tồn tại một số bất cập so với thực tế, cụ thể là: tại điểm a khoản 1 quy định: "Giám đốc hoặc chủ cơ sở in là công dân Việt Nam". Với quy định này, người đứng đầu doanh nghiệp in chỉ cần đáp ứng một trong hai trường hợp và nhà đầu tư nước ngoài vẫn có thể "lách luật" thành lập doanh nghiệp để in xuất bản phẩm với tư cách là chủ sở hữu và thuê Giám đốc là người Việt Nam, mặc dù lĩnh vực in xuất bản phẩm không được cam kết mở cửa từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trong sửa đổi Luật lần này, nên quy định là “người đại diện theo pháp luật” thay cho “Giám đốc hoặc chủ sở hữu cơ sở in” và có mở rộng đối tượng trực tiếp lãnh đạo cơ sở in cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

Điểm b khoản 1 quy định: "có mặt bằng sản xuất và thiết bị để in xuất bản phẩm". Tuy nhiên, thực tế các doanh nghiệp in rất khó thực hiện điều kiện này khi thành lập mới cơ sở in, bởi lẽ luật yêu cầu doanh nghiệp phải có thiết bị in trước thì mới được cấp giấy phép hoạt động trong khi doanh nghiệp chưa thể biết liệu mình có được cấp phép hay không? Và nếu không được cấp phép hoạt động (bởi lý do nào đó, ví dụ: không phù hợp với quy hoạch phát triển in xuất bản phẩm quy định tại điểm d khoản 1) thì sẽ gặp tổn thất vì đã đầu tư mua thiết bị in.

Điểm d khoản 1 Điều 31 còn quy định: "phải phù hợp với quy hoạch phát triển in xuất bản phẩm". Điều kiện này quy định còn quá chung chung và thực tế đến nay gần như chưa được áp dụng tại các địa phương trên cả nước vì công tác xây dựng quy hoạch của các địa phương chưa được triển khai đồng đều, không được công bố công khai nên cần được xem xét, sửa đổi cho phù hợp hơn.



4.19. Về cấp giấy phép hoạt động in không phải in xuất bản phẩm

Hiện nay, c nước có gn 1500 cơ sở in, trong đó ch có khoảng 300 cơ sở in xut bn phm. Như vậy, gần 1200 cơ sở in chỉ làm thủ tục đăng ký hot động doanh nghip ngành ngh kinh doanh có điu kin. Như đã phân tích ở phần tồn tại của hoạt động in, các cơ sở in không có chức năng in xuất bản phẩm nhưng vẫn tham gia in xuất bản phẩm tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, bất bình đẳng, nạn in lậu tiếp tục gia tăng, làm ảnh hưởng lớn về kinh tế cho các nhà xuất bản và tác giả, vi phạm bản quyền. Hơn nữa, việc in các giấy tờ quản lý nhà nước rất quan trọng như: chứng minh thư, hộ chiếu, văn bằng, chứng chỉ, giấy tờ tùy thân, giấy tờ có giá, hóa đơn tài chính... lại chưa được quản lý. Vì vậy, trong Luật Xuất bản (sửa đổi) phải quy định cấp giấy phép hoạt động in không phải in xuất bản phẩm.

4.20. Về khái niệm hoạt động phát hành xuất bản phẩm

Điều 37 của Luật Xuất bản quy định về hoạt động phát hành xuất bản phẩm là chưa đầy đủ, không cập nhật được sự phát triển ngày càng nhanh và phổ biến về xu thế hội tụ thông tin và công nghệ, kết hợp giữa xuất bản truyền thống với xuất bản điện tử. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.



4.21. Về việc cấp giấy phép hoạt động kinh doanh phát hành xuất bản phẩm

Hiện nay nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có lĩnh vực xuất bản, vì vậy có nhiều thông tin đa dạng, phong phú và đa chiều. Để đảm bảo giữ vững an ninh quốc gia, độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước, chống lại tư tưởng diễn biến hòa bình và sự chống phá của các thế lực thù địch (Trung Quốc đang thực hiện chiến dịch tuyên truyền cho yêu sách bản đồ hình lưỡi bò tại khu vực Biển Đông…) thì việc tăng cường công tác quản lý hoạt động phát hành xuất bản phẩm là hết sức cần thiết, vì chỉ đây chính là đầu mối phổ biến, phát tán rộng rãi xuất bản phẩm và tài liệu chống phá Việt Nam. Do vậy, các cơ sở phát hành xuất bản phẩm cần phải được quản lý bằng việc cấp giấy phép hoạt động kinh doanh phát hành xuất bản phẩm.



4.22. Về thu phí và lệ phí

Luật Xuất bản hiện hành và Pháp lệnh phí và lệ phí đều không quy định cho phép cơ quan giải quyết thủ tục hành chính trong hoạt động xuất bản (gồm 14 loại giấy phép, giấy xác nhận) được thu lệ phí; đặc biệt là trong những trường hợp phải tổ chức thẩm định nội dung xuất bản phẩm để đưa ra quyết định có hoặc không cấp giấy phép nhập khẩu xuất bản phẩm, quyết định xử lý vi phạm (sách có nội dung phức tạp, bằng tiếng nước ngoài có liên quan đến chính trị, lịch sử địa lý…) đang gặp phải những khó khăn về kinh phí thẩm định. Đồng thời, để việc cấp phép, xác nhận đăng ký được thực chất hơn, hạn chế việc đăng ký “ảo”. Cần xem xét, nghiên cứu để quy định trong Luật về việc cho phép cơ quan giải quyết cấp phép được thu lệ phí cấp phép và phí thẩm định nội dung để hỗ trợ kinh phí cho các cơ quan thực hiện.

4.23. Về chức năng thanh tra hoạt động xuất bản

Với vị trí của hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, có ảnh hướng lớn và sâu rộng đến xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng tới an ninh, chính trị, tư tưởng, được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Hoạt động xuất bản bao gồm 3 lĩnh vực là xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm với đối tượng quản lý đông đảo (64 nhà xuất bản, trên 1200 cơ sở in, trên 10.000 cơ sở phát hành trải dài trên 63 tỉnh, thành phố và có số lượng xuất bản phẩm nhập khẩu hàng trăm nghìn tên sách mỗi năm với hàng triệu bản). Thực tế hiện nay, đội ngũ thanh tra chuyên ngành xuất bản, in, phát hành quá mỏng (03 thanh tra viên cấp Bộ, mỗi Sở Thông tin và Truyền thông cũng chỉ có 3-5 thanh tra viên cho cả 5 lĩnh vực thuộc ngành Thông tin và Truyền thông). Trong khi cơ quan nắm bắt rõ nhất về thông tin đối với xuất bản phẩm là cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản. Do vậy, để kịp thời ngăn chặn những vi phạm trong hoạt động xuất bản, cần thiết phải quy định bổ sung trong Luật Xuất bản (sửa đổi) việc giao chức năng thanh tra cho cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010.



4.24. Kế thừa và hợp nhất Luật Xuất bản năm 2004 với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản năm 2008

Với những vấn đề cần sửa đổi của Luật Xuất bản năm 2004 và kế thừa những nội dung được quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản năm 2008, thì Luật Xuất bản (sửa đổi) cần được thiết kế trên cơ sở sửa đổi các quy định đã có và bổ sung các quy định mới, đồng thời hợp nhất 02 Luật này để vừa thống nhất về mặt văn bản và bảo đảm cho việc nghiên cứu, áp dụng một cách thuận lợi nhất.



4.25. Về cải cách thủ tục hành chính

Các điều khoản trong Luật Xuất bản 2004 có quy định về thủ tục hành chính vẫn còn có những bất cập, thiếu minh bạch và cụ thể, từ thành phần hồ sơ, cách thức thực hiện và cơ quan giải quyết và việc phân cấp giải quyết thủ tục hành chính. Do đó, cần phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện các quy định này một cách thuận lợi hơn cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất bản.



5. Một số kiến nghị

5.1. Do thời gian xây dựng dự án Luật Xuất bản (sửa đổi) khá gấp, để đảm bảo tiến độ đề ra, đề nghị các cơ quan có trách nhiệm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ phối hợp, cử cán bộ tham gia Ban soạn thảo và Tổ biên tập dự án Luật.

5.2. Để đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp xuất bản trong thời kỳ mới, lần sửa đổi này đề cập đến tất cả các điều luật của Luật Xuất bản năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản nên đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét tên gọi Luật là “Luật Xuất bản năm 2012” hoặc “Luật Xuất bản - In - Phát hành”.

Để hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý phù hợp, thông thoáng, đồng thời vẫn đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản trong tình hình mới, trước xu thế hội nhập toàn cầu, việc sửa đổi Luật Xuất bản là rất cần thiết và cấp bách. Các nội dung báo cáo trên đây là một cái nhìn tương đối tổng thể, bao quát về tình hình thi hành Luật Xuất bản trong 6 năm qua và tình hình chuẩn bị cho việc sửa đổi Luật Xuất bản trong năm 2012.

Bộ Thông tin và Truyền thông trân trọng báo cáo./.



Nơi nhận:

- Ban Bí thư Trung ương Đảng;



­­- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;

- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Văn phòng Trung ương Đảng;

- Ban Tuyên giáo Trung ương;

- Văn phòng Quốc hội;

- Các Ủy ban của Quốc hội: VH-GD-TTN, PL;

- Văn phòng Chính phủ, các Vụ: PL, KGVX;

- Các Bộ: Tư pháp, Tài chính, Công thương, KH&ĐT

VH-TT-DL, Tài chính, Công an, Quốc phòng;

- Bộ TTTT: Bộ trưởng và các Thứ trưởng;

- Văn phòng, Thanh tra Bộ, các Vụ: PC, KHTC;

- Lưu VT, CXB, HNB



BỘ TRƯỞNG

(đã ký)

Nguyễn Bắc Son








Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 211.45 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương