3.3.2. Dịch vụ truyền dữ liệu
Một số dịch vụ dữ liệu có thể được sắp xếp thành những tín hiệu STM-N nhờ card SDH matrix được cắm vào thiết bị OMSN. Card 4×ANY cung cấp 4 truy nhập vật lý và kết chuỗi ảo cho tín hiệu dữ liệu. Thông lượng của nó bằng 16 VC-4.
Hình 3.3. Ứng dụng dịch vụ dữ liệu
Bảng 3.1 cho thấy các dịch vụ dữ liệu được cung cấp bởi OMSN.
Tín hiệu dữ liệu
|
Tốc độ bit
|
Số lượng VC-4
|
Gigabit Ethernet
|
1,25 Gbit/s
|
8
|
FICON
|
1,0625 Gbit/s
|
8
|
Fiber Channel
|
1,0625 Gbit/s
|
8
|
Digital Video
|
270 Mbit/s
|
2
|
ESCON
|
200 Mbit/s
|
2
|
Fast Ethernet
|
125 Mbit/s
|
1
|
FDDI
|
125 Mbit/s
|
1
|
Bảng 3.1. Các loại dịch vụ dữ liệu được cung cấp bởi OMSN
3.3.3. Dịch vụ ATM
Metro OMSN được tích hợp khả năng chuyển mạch kênh ảo VC và đường dẫn ảo VP ATM nhờ card chuyển mạch tùy chọn chứa ma trận ATM. Để cung cấp dịch vụ ATM, card ISA-ATM được cắm vào thiết bị 1660SM là giải pháp tối ưu để truyền dẫn và tập hợp lưu lượng ATM. Về mặt chức năng, ATM đặc biệt hữu ích trong truy nhập cấu hình Ring cục bộ và metro để hợp nhất lưu lượng dữ liệu từ những người sử dụng khác nhau lên trên cùng SDH VC, do đó tối ưu băng thông truyền.
3.3.4. Dịch vụ MPLS
MPLS là cơ chế truyền tải dữ liệu dạng chuyển gói (packet-switched). Trong mô hình OSI, MPLS có thể xem như nằm giữa lớp 2 và lớp 3…Vì vậy MPLS có thể được xem như là giao thức thuộc lớp 2.5. MPLS được thiết kế để thống nhất các loại dịch vụ truyền tải dữ liệu cho cả mạng chuyển gói và chuyển mạch, hỗ trợ cả IP, ATM, SONET, Ethernet…Do đó sử dụng MPLS sẽ tiết kiệm được chi phí rất nhiều. MPLS cho phép xây dựng một hệ thống mạng sử dụng một loại cơ sở hạ tầng có thể quản lý được dữ liệu, âm thanh thoại, video conference…
Ở đầu vào, bộ định tuyến biên nhãn LER (Label Edge Router) sẽ kiểm tra gói tin được đưa tới và quyết định có đánh nhãn gói tin hay không.Việc đánh nhãn sẽ dựa vào một cơ sở dữ liệu đặc biệt được lưu trong LER. Sau đó, một header MPLS sẽ được chèn vào. Gói dữ liệu được chuyển đi. Gói dữ liệu truyền đi sẽ lần lượt đi qua các LSR (Label Switching Router), các LSR sẽ không thêm vào hay bớt đi nhãn nào, nó chỉ thay đổi các nhãn và chuyển gói tin đến LSR tiếp theo, các LSR xác định việc đổi nhãn hay LSR tiếp theo dựa vào một bảng dữ liệu trong router. Nếu dữ liệu không chứa nhãn nào, nó sẽ hoạt động như một router bình thường. Do vậy, các đường dẫn sẽ được thiết lập giữa các LER và LSR. Những đường dẫn này được gọi là Label switch paths (LSPs). Ở đầu ra, LER sẽ tách header MPLS ra và gói dữ liệu sẽ được truyền đi một cách bình thường. Ngoài ra MPLS cho phép xác định chế độ ưu tiên cho dữ liệu, thuật ngữ mạng là FEC (Forward Equivalence Class - Lớp chuyển tiếp tương đương). Thực chất, việc xác định mức độ ưu tiên cho dữ liệu là rất quan trọng. Do có những dữ liệu quan trọng cần chất lượng mạng cao hơn. MPLS cho phép chọn mức độ ưu tiên để cung cấp chất lượng mạng hợp lý cho các loại dữ liệu này. Sau đó, dựa vào mức độ FEC của gói thông tin đã được đánh nhãn mà các loại đường truyền khác nhau có thể được thực hiện. Có thể là gói tin sẽ được truyền qua ATM, frame-relay. Nếu gói tin không có nhãn, nó sẽ được coi có mức ưu tiên thấp nhất và được truyền đi như một gói tin IP bình thường.
Kỹ thuật MPLS được sử dụng trong những hệ thống truyền tải Alcatel để phân phối và định tuyến các gói dữ liệu được tạo ra bởi dịch vụ gói hóa bất kỳ (packetized service) đang hoạt động tại lớp mạng và được đóng gói thành khung Ethernet. Một hoặc nhiều nhãn được gắn vào mỗi gói Ethernet và được sử dụng để chuyển gói. Sự phân loại các gói dữ liệu đến chỉ được thực hiện một lần tại cạnh của mạng MPLS, những bộ định tuyến MPLS bên trong chỉ phải chọn bước truyền kế tiếp bằng cách tìm và hoán đổi nhãn ở trên cùng. Những gói Ethernet cùng đích và cùng chất lượng dịch vụ được gán đến cùng một FEC ngay cả khi chúng thuộc một luồng khác. Theo cách này, những luồng gói riêng biệt được tập hợp đến một đường dẫn chung.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |