Asoka Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Vua a dục Tuyển tập o0o Nguồn


Sự Chinh Phục Và Các Sứ Giả Của A Dục Vương



tải về 0.52 Mb.
trang6/10
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích0.52 Mb.
#37884
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Sự Chinh Phục Và Các Sứ Giả Của A Dục Vương

Cũng một đoạn trích dẫn ấy hình như là sai lầm khi đề cập đến các quốc gia đã bị A-Dục Vương chinh phục bằng tâm linh, nếu như pháp của ông ta là pháp chinh phục (dhammavijaya). Theo như tôi biết thì A-Dục Vương đã bành trướng đế quốc mình bằng sức mạnh, nhưng sau đó lại nghĩ ra được nguyên tắc chiến thắng bằng đạo đức, và rồi truyền thừa nguyên tắc ấy cho hậu duệ của ông ta.


Theo tôi thì nguyên tắc chủ đạo của A-Dục Vương là bất sát sanh (ahimsa), hay nói cho đúng ra thì đó là kết quả sự hối hận của ông sau cuộc tàn sát đẫm máu ở Kalinga. Đạo dụ đầu tiên của ông ban ra hầu hết toàn bộ liên quan đến việc nghiêm cấm sát sanh trong đời thường, gồm cả việc giết súc vật để tế lễ và ăn thịt.
Trong Đao dụ thứ 13 ông kể đến câu chuyện sau chiến thắng ở Kalinga thì chết chóc và khổ đau xảy ra như thế nào, chính điều đó đã cắn rứt lương tâm ông và ông thiết tha mong mỏi có đạo đức (dhamma-pháp). Song điều làm A-Dục Vương đau lòng là chính những người tuân thủ theo pháp của ông ta, trong đó bao gồm cả các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thì chính họ lại chịu khổ đau. Lúc bấy giờ, điều ông muốn là một cuộc chinh phục bằng pháp, bao gồm cả sự an ninh cho mọi loài, sự tự chế ngự, tính trầm tĩnh và hòa nhã. Các sứ giả được phái đi khắp nơi để thuyết giảng pháp này, gồm cả những vương quốc miền Tây Hy Lạp. Cuộc chinh phục bằng đạo đức (dhamma) của ông được công bố với hy vọng rằng hậu duệ của ông sẽ không nghĩ rằng đó là chiến thắng bằng quân sự, bằng vũ trang mà thường dẫn đến thảm sát giống như ở Kalinga. Chiến thắng như vậy sẽ mang tính nhẫn nại (khantil) và trừng phạt nhẹ (lahudandatà). A-Dục Vương cầu mong sao cho những người dân trụ ngụ trong rừng núi (giống như ông ta) có thể ăn năn (những việc làm sát sanh xưa kia?) và chấm dứt sát hại (trong tương lai).
Và theo tôi thì chắc chắn những vị sứ giả được phái đến các Vương quốc Hy Lạp kia không phải là được giao cho sứ mạng truyền bá Phật giáo. Dường như họ được phái đến để nhằm tận lực thuyết phục các nhà cai trị ở các nước lân bang rằng họ cũng nên từ bỏ đi tham vọng chinh phục bằng chiến tranh, mà nên thiết lập một vương quyền hòa bình và an định, trên cơ sở nguyên tắc pháp của A-Dục Vương. Theo tôi việc A-Dục Vương cho tăng cường các phái đoàn sứ giả đến Hy Lạp, quả là một sai lầm vậy. Cố nhiên chúng ta cũng chẳng có bằng chứng nào về phía Hy Lạp cho biết rằng có bao nhiêu phái đoàn sứ thần đã đến nước này vào khoảng năm 250 trước Công Nguyên.
---o0o---

Phật Giáo Của A Dục Vương

Thật quá rõ ràng từ những điều tôi vừa mới nói về pháp của A-Dục Vương mà những ai cho rằng ông ta đã làm cho Phật giáo trở thành quốc giáo, thì quả thật quá rộng về nhận định. Trong các Đạo dụ của mình, A-Dục Vương đề cập rất ít hay thậm chí là chẳng nói gì về Phật giáo cả. Ông chẳng hề đề cập đến giáo lý căn bản của Phật giáo như là Luân hồi (samsàra), giải thoát (mokkha), Niết-bàn (nibbàna), Vô ngã (anatta), Bát Chánh Đạo, hay Tứ Diệu Đế. Một trong những Đạo dụ riêng khác có nhấn mạnh rằng mục tiêu mà ông nhắm đến là vì hạnh phúc của tất cả; và nhiều bia ký khác cũng có ghi lời tuyên bố rằng mục đích chính của ông là muốn cho dân chúng ông được sống trong hạnh phúc trên cõi thế, trên trời và ở các thế giới khác nữa. Ông ta khoe khoang rằng ông đã hòa lẫn con người với chư thiên. Tôi đưa ra điều này là để muốn nói rằng ông đã thành công trong việc đưa con người lên Thiên giới, mà nơi đó dĩ nhiên rồi một lúc nào đó họ cũng được tái sanh làm chư thiên. Theo tôi thì điều này lại hoàn toàn khác với giáo lý tái sanh luân hồi vô tận của Phật giáo.


Sự thất bại chung của ông là lý giải Phật giáo khác đi rất nhiều. Chắc có lẽ vì vô minh hay chăng, mặc dù ông đã nghiễm nhiên là một vị cư sĩ Phật giáo, song ông chẳng có một chút hiểu biết gì về giáo lý Phật giáo cả. Có lẽ ông cũng hiểu biết về Phật giáo, nhưng ông lại nghĩ rằng Phật giáo thường biệt đãi một giáo phái nào đó quá mức, và như thế nó sẽ phá hủy tính không thiên vị mà ông nhắm đến để bày tỏ một nơi nào đó. Cũng có thể là ông cho rằng Phật giáo không thích hợp cho việc ông ban hành Đạo dụ, hay nói trắng ra, là không phù hợp cho việc ông muốn lưu bố cái gọi là pháp hành cá nhân của ông, mà pháp này mục đích đem lại hòa bình cho đế quốc ông và có thể làm cho thần dân ông được sống trong tinh thần hài hòa bình đẳng với nhau.
Một trong những giải thích hơi kỳ lạ mà tôi đã có đề cập qua là quan điểm cho rằng những gì A-Dục Vương truyền đạt trong các Đạo dụ của mình chính là giai đoạn mà trong đó Phật giáo chính là thời kỳ của ông ta. Hultzsch cho rằng: "Pháp của A-Dục Vương được đồng ý khắp nơi dưới hình thức đạo đức Phật giáo mà đạo đức ấy là bảo tồn trong… Kinh Pháp Cú. Ở đây, chúng ta thấy rằng Phật giáo đang còn tuổi ấu thơ vậy…". Ông ta còn nói thêm rằng: "Trong một quan điểm trọng chính mà các bia ký của A-Dục Vương khác với Kinh Pháp Cú là không phản ánh giai đoạn khởi nguyên hình thành nên thần học và siêu hình học Phật giáo như đã diễn đạt trong kinh này. Ông chẳng biết tý gì về giáo lý Niết-bàn, thế mà giả định trước đức tin Ấn Độ giáo cho rằng phần thưởng của việc tu tập theo pháp của ông là sẽ được hạnh phúc trong đời này và phước báo cho đời sau ". Ông Hultzsch đã nêu lên một vấn đề rất lý thú về bản chất của siêu hình học Phật giáo. Có thể rằng giáo lý Niết-bàn là thuộc vào giai đoạn phát triển sau này của Phật giáo chăng? Tôi chẳng tin vấn đề lại như vậy, và vì lẽ đó tôi nghĩ rằng lý do mà ông Hultzsch đưa ra sự thất bại của A-Dục Vương khi đề cập đến Niết-bàn là không đúng.
Ở một khía cạnh khác, vấn đề có vẻ giống hệt với những gì đã được tìm thấy ở Srilanka và được Richard Gombrich miêu tả nên. Richard tường thuật rằng: "Nhưng hầu hết người dân Tích Lan không muốn Niết-bàn… họ chỉ bảo rằng họ chỉ muốn sanh lên Thiên giới mà thôi". Vâng ít nhất là mấy người này cũng hiểu rõ về Niết-bành. Còn A-Dục Vương thì chưa từng bao giờ nghe đến điều ấy cả. Mặc dù lời tuyên bố của những người dân làng kia nghe có vẻ lạ thật, nhưng thật ra nó lại hoàn toàn trùng khớp với lời tuyên bố mà chúng ta có thể tìm thấy ở cuối Kinh Xà Dụ (Alagaddùpamasutta) của Kinh Trung Bộ (Majjhima-nikàya), ở đó đức Phậ tuyên bố rằng những vị Tỳ-kheo nào tu tập đúng pháp với pháp có tín tâm, thì sẽ được chánh giác (sambdhi); còn những ai chỉ có tín tâm vào Phật và kính quý Ngài thì người ấy sẽ được sanh lên Thiên giới. Như vậy những người dân làng này biết rất rõ về Niết-bàn, nhưng họ thích sanh lên Thiên giới hơn vì họ kính quýĐức Thế Tôn. Còn A-Dục Vương thì chẳng thể hiện sự kính quý nào đối với Đức Thế Tôn cả. Đối với ông ta, sanh lên Thiên giới làn nhờ làm những điều như đã quy định trong pháp của ông. Như ông đã từng đặt câu hỏi trong Đạo dụ thứ 9 rằng: "Còn có điều gì hơn là được sanh lên Thiên giới chăng?"
---o0o---


tải về 0.52 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương