Abhidhammattha Saṅgaha a manual of AbhidhammaNhững sự phối hợp khác nhau của các tâm sở
Ghi chú: [6] Moha (Si) là căn nguyên của tất cả các tâm Bất Thiện. Người ta có hành động bất thiện vì không biết (Si) hậu quả bất thiện của nó. Cùng liên hợp với "Si" là trạng thái không hổ thẹn khi làm điều bất thiện, và bất kể đến (không sợ) hậu quả của hành động bất thiện. Khi đã hành động bất thiện tức nhiên tâm không yên, có trạng thái phóng dật. [7] Do Tà Kiến phát sanh khái niệm "Ta" và "Của Ta" có liên quan đến tự ngã. Vì lẽ ấy Tà Kiến phát sanh trong các loại tâm bắt nguồn từ căn tham. [8] Māna (Ngã Mạn) cũng phát sanh do khái niệm sai lầm về "Ta". Vì lẽ ấy, Māna chỉ hiện diện trong những loại tâm bắt nguồn từ căn tham. Tuy nhiên, Diṭṭhi và Māna không phát sanh cùng một lúc trong một loại tâm riêng biệt. Nơi nào có Diṭṭhi (Tà Kiến) thì không có Māna (Ngã Mạn). Các bản chú giải so sánh Diṭṭhi và Māna như hai con sư tử dữ tợn không biết sợ, không thể cùng sống chung với nhau trong một chuồng. Māna có thể phát sanh trong bốn loại tâm bất thiện không liên hợp với Tà Kiến. Như vậy không có nghĩa là Māna luôn luôn hiện diện trong các loại tâm ấy. [9] Bốn tâm sở nầy không phát sanh trong những loại tâm bắt nguồn từ căn tham bởi vì trong các tâm sở nầy có một vài hình thức bất toại nguyện, thay vì có một loại tham ái nào. Chí đến Macchariya (Xan Tham) cũng là một loại bất toại nguyện đối với kẻ khác, tranh đua với mình. [10] Hôn Trầm và Thụy Miên, Thīna và Middha, do bản chất thiên nhiên của nó, là đối nghịch với trạng thái thích ứng. Trong trạng thái thụy miên và hôn trầm không có sự hối thúc. Do đó hai trạng thái nầy không thể phát sanh trong những loại tâm không có sự xúi giục (Asaṅkhārika), vì theo bản chất tự nhiên của nó, những loại tâm nầy là nhiệt thành và tích cực. Thīna và Middha, Hôn Trầm và Thụy Miên, chỉ phát sanh trong những loại tâm có sự xúi giục. -ooOoo-
Sobhana Cetasika
|
8. (a) Sobhanesu pana sobhanasādhāraṇā tāva ek'ūna vīsati cetasikā sabbesu pi ek'ūnasaṭṭhisobhana- cittesu saṁvijjanti. (b) Viratiyo pana tisso'pi Lokuttaracittesu sabbathā'pi niyatā ekato'va labbhanti. Lokiyesu pana Kāmāvacarakusalesv'eva kadāci sandissanti visuṁ visuṁ. (c) Appamaññāyo pana dvādasasu pañcamajjhāna vajjitamahaggatacittesu c'eva Kāmāvacara- kusalesu ca sahetukakāmāvacarakiriyācittesu c'āti aṭṭhavisaticittesv'eva kadāci nānā hutvā jāyanti. Upekkhāsahagatesu pan'ettha Karunā Muditā na santī'ti keci vadanti. (d) Paññā pana dvādasasu ñāṇasampayuttakāmā- vacaracittesu c'eva sabbesu pañcatiṁsamahag- gatalokuttaracittesu c'āti sattacattāḷīsa cittesu sampayogaṁ gacchatī'ti. 9. Ek'kūnavīsati dhammā jāyant'ekūnasaṭṭhisu Tayo soḷasacittesu aṭṭhavisatiyaṁ dvayaṁ Paññā pakāsitā sattacattāḷīsavidhesu'pi Sampayuttā catuddhv'evaṁ sobhanesv'eva sobhanā. |
§8 (a) Trong những tâm sở "Ðẹp" (Tịnh Quang tâm sở) trước tiên có mười chín tâm sở Ðẹp cùng chung hiện hữu trong tất cả năm mươi chín loại tâm Ðẹp. (b) Ba tâm sở Tiết Chế, nhất định luôn luôn đồng phát sanh cùng một lúc trong tất cả những loại tâm Siêu Thế. Nhưng, trong những loại tâm Thiện thuộc Dục Giới, các tâm sở nầy, từng lúc, phát sanh riêng biệt. (8 + 8 = 16). (c) Các tâm "Vô Lượng" phát sanh từng lúc và riêng biệt nhau trong hai mươi tám loại tâm sau đây: Mười hai loại tâm Cao Thượng, ngoại trừ tâm Ngũ Thiền, tám loại tâm Thiện và tám loại tâm Hành Hữn Nhân thuộc Dục Giới. Tuy nhiên vài người chủ trương rằng hai tâm sở Bi và Hỷ không hiện hữu trong những loại tâm liên hợp với thọ Xả. (12 + 8 + 8 = 28). (d) Trí Tuệ phối hợp với bốn mươi bảy loại tâm sau đây: Mười hai loại tâm thuộc Dục Giới có liên hợp với tri kiến, tất cả ba mươi lăm loại tâm Cao Thượng [11] và Siêu Thế. (12 + 35 = 47).
Mười chín tâm sở phát sanh trong năm mươi chín loại tâm vương, ba trong mười sáu, hai trong hai mươi tám loại. Trí Tuệ được xác nhận là nằm trong bốn mươi bảy loại. Tâm sở Ðẹp chỉ hiện diện trong các tâm vương Ðẹp. Do đó, các tâm sở nầy phối hợp bằng bốn cách.
|
[11] Tâm Cao Thượng - Những loại tâm Thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới được gọi chung là Mahaggata. Ðúng theo nghĩa của từng chữ là "lớn đi đến", tức là tâm đã được phát triển. Có nơi gọi là Ðại Hành Tâm, nơi khác gọi là Cao Nhã Tâm.
-ooOoo-
10. Issā-Macchera-Kukkucca -- Viratī Karuṇādayo Nānā kadāci Māno ca -- Thīna-Middhaṁ tathā saha Yathā vuttānusārena – sesā niyatayogino Saṅgahañ ca pavakkhāmi -- tesaṁ'dāni yathārahaṁ Chattiṁsānuttare dhammā -- pañcatiṁsa mahaggate Aṭṭhatiṁsā'pi labbhanti -- Kāmāvacarasobhane. Sattavīsatyapuññamhi -- dvādasāhetuke'ti ca Yathāsambhavayogena -- pañcadhā tattha saṅgaho. |
§10 Ganh Tỵ, Xan Tham, Lo Âu, Tiết Chế (ba) Bi, Hỷ, và Ngã Mạn phát sanh riêng biệt và tùy lúc. Cùng thế ấy cặp Hôn Trầm và Thụy Miên. Ngoài ra, những tâm sở còn lại (52 - 11 = 41) phát sanh trong những loại tâm nhất định. Bây giờ tôi sẽ đề cập đến sự phối hợp của các tâm sở ấy. Ba mươi sáu tâm sở phát sanh trong tâm Siêu Thế, ba mươi lăm trong các tâm Cao Thượng, ba mươi tám trong các tâm Ðẹp thuộc Dục Giới. Hai mươi bảy trong những tâm Bất Thiện, mười hai trong các tâm Vô Nhân. Tùy theo phương thức mà các tâm sở ấy phát sanh, ở đây sự phối hợp của chúng có năm.
|
11. Katham? (a) Lokuttaresu tāva aṭṭhasu paṭhamajjhānikacittesu Aññasamānā terasa cetasikā Appamaññāvajjitā tevīsati Sobhanacetasikā c'āti chattiṁsa dhammā saṅgahaṁ gacchanti. (b) Tathā Dutiyajjhānikacittesu Vitakkavajjā. (c) Tatiyajjhānikacittesu Vitakka-Vicāravajjā. (d) Catutthajjhānikacittesu Vitakka-Vicāra-Pītivajjā. (e) Pañcamajjhānikacittesu'pi Upekkhāsahagatā te eva saṅgayhanti'ti sabbathā'pi aṭṭhasu Lokuttaracittesu Pañcamajjhānavasena pañcadhā'va saṅgaho hotī'ti. Chattiṁsa pañcatiṁsā ca -- catuttiṁsa yathākkamaṁ Tettiṁsadvayam'iccevaṁ -- pañcadhānuttare ṭhitā. |
§11. Bằng cách nào? (a) Trước tiên, trong tám loại tâm Sơ Thiền Siêu Thế có ba mươi sáu tâm sở phối hợp như sau: Mười ba tâm Aññasamānas, Bất Ðồng (tức 7 Phổ Thông và 6 Riêng Biệt) và hai mươi ba tâm sở Ðẹp, ngoại trừ hai tâm sở Vô Lượng [12]. (13 + 23 = 36). (b) Cùng thế ấy, trong tâm Nhị Thiền Siêu Thế, tất cả những tâm sở kể trên, ngoại trừ tâm sở Tầm. [13] (c) Trong Tam Thiền (tất cả), ngoại trừ Tầm và Sát. (d) Trong Tứ Thiền (tất cả) ngoại trừ Tầm, Sát và Phỉ. (e) Trong loại tâm Ngũ Thiền liên hợp với Xả, tất cả những tâm sở trên, ngoại trừ Tầm, Sát, Phỉ và Lạc. Như vậy, trong mỗi phương cách, sự phối hợp của những tâm sở phát sanh trong tám loại tâm Siêu Thế chia làm năm phần, tùy theo năm tầng Thiền (Jhānas). Theo thứ tự, có ba mươi sáu, ba mươi lăm, ba mươi bốn, và ba mươi ba trong hai trường hợp cuối cùng. Ðó là năm phương cách mà các tâm sở phát sanh trong những loại tâm Siêu Thế.
|
[13] Trong tầng Nhị Thiền, tâm sở Tầm, Vitakka, bị loại trừ. Trong các tầng Thiền còn lại những tâm sở khác cũng lần lượt bị loại cùng một thế ấy.
[12] Bởi vì đối tượng của các tâm sở Vô Lượng là chúng sanh, trong khi đối tượng của tâm Siêu Thế là Niết Bàn.
Chú Giải:
52. Aniyatayogi và Niyatayogi, tâm sở Không Cố Ðịnh và tâm sở Cố Ðịnh.
Trong năm mươi hai tâm sở, có mười một được gọi là Aniyatayogi, Không Cố Ðịnh. Những tâm sở nầy phát sanh riêng rẽ trong những loại tâm khác nhau, bởi vì đối tượng riêng biệt của mỗi tâm đều khác nhau. Chúng có thể phát sanh hay không phát sanh trong những loại tâm liên hệ với chúng. Thí dụ Ganh Tỵ, Xan Tham và Phóng Dật phải phát sanh trong những loại tâm liên hợp với bất toại nguyện. Một trong ba tâm sở trên phải phát sanh vào một lúc nhất định. Tất cả ba không phát sanh cùng một lúc.
Ngoài ra, ba loại tâm nầy không nhất thiết phải hiện hữu trong một loại tâm tương tợ. Cùng thế ấy, ba tâm Tiết Chế, hai tâm Vô Lượng, Ngã Mạn, Hôn Trầm và Thụy Miên.
Bốn mươi mốt tâm sở còn lại được gọi là Niyatayogi, tâm sở Cố Ðịnh. Các tâm sở nầy luôn luôn -- một cách cố định, bất di dịch -- phát sanh trong những loại tâm liên hệ với chúng.
Ba tâm sở nầy chỉ được thấy hiện hữu chung trong tâm Siêu Thế, vì chúng là ba chi (Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng) của Bát Chánh Ðạo. Ba loại tâm nầy không thể phát sanh chung trong các loại tâm thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới, cũng không thể hiện hữu chung trong những tâm Hành (Kriyā) và tâm Quả (Vipāka) thuộc Dục Giới. Ba tâm nầy liên quan đến ba hình thức tiết chế là lánh xa hành động bất thiện trong lời nói, việc làm, và lối nuôi mạng. Như vậy, các tâm sở nầy chỉ phát sanh một cách riêng rẽ trong tám loại tâm Thiện, tùy theo loại tiết chế nào mà ta thực hành.
Những tiết chế nầy chỉ phát sanh với đầy đủ năng lực trong các loại tâm Siêu Thế vì các loại tâm Bất Thiện đối nghịch với những tiết chế ấy đều đã bị tiêu trừ trọn vẹn. Trong những loại tâm Thiện thuộc Dục Giới chỉ có sự chế ngự tạm thời các tâm Bất Thiện đối nghịch.
Vì tâm Quả thuộc Dục Giới (Kāmāvacara-Vipāka-cittas) chỉ là những hậu quả, không thể phát sanh trong những tâm Tiết Chế. Chỉ có những vị A La Hán mới chứng nghiệm các tâm Hành (Kriyā-cittas), vì lẽ ấy tâm sở Tiết Chế không thể phát sanh trong tâm Hành. Các Tiết Chế không phát sanh trong những loại tâm thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới vì tác dụng của các Tiết Chế là thanh lọc tâm, mà trong những cảnh Sắc và Vô Sắc thì không có nhu cầu ấy.
Trong bốn tâm sở Vô Lượng chỉ có hai được ghi nhận ở đây. Hai tâm sở kia đã được đề cập đến ở một nơi khác.
Phải ghi nhận rằng đối tượng của những tâm Vô Lượng ấy là chúng sanh. Vì lẽ ấy các tâm sở nầy không thể phát sanh trong những loại tâm Siêu Thế mà đối tượng là Niết Bàn.
Như vậy không có nghĩa rằng chư vị A La Hán và các vị Thánh Nhân khác không có những phẩm hạnh nầy, mà chỉ có nghĩa rằng các tâm sở nầy không có mặt trong các tâm Ðạo và Quả.
Các Vô Lượng tâm cũng không phát sanh trong Ngũ Thiền vì ở đây thọ là Xả, Upekkhā. Các loại tâm thuộc Vô Sắc Giới cũng liên hợp với thọ Xả nên không thể có tâm sở Vô Lượng đồng phát sanh. Trong tám tâm Hành (Kriyā-cittas) mà chỉ những vị A La Hán mới chứng nghiệm, có hiện hữu tâm Vô Lượng, vì các Ngài cũng rải những tư tưởng Bi và Hỷ đến tất cả chúng sanh.
-ooOoo-