ĐỊa lý HỌc là HỆ thống các khoa họC


CÁC GIAI ĐOẠN CHÍNH TRONG NHẬN THỨC VỀ BỀ MẶT QUẢ ĐẤT VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CHÍNH CỦA ĐỊA LÍ HỌC



tải về 9.49 Mb.
trang2/9
Chuyển đổi dữ liệu19.04.2018
Kích9.49 Mb.
#36966
1   2   3   4   5   6   7   8   9
CÁC GIAI ĐOẠN CHÍNH TRONG NHẬN THỨC VỀ BỀ MẶT QUẢ ĐẤT VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CHÍNH CỦA ĐỊA LÍ HỌC.
Kiến thức khoa học nào cũng cần thiết cho con người nhưng cần thiết với cuộc sống hàng ngày ngay cả với người nguyên thuỷ là kiến thức địa lí. Trong quá trình kiếm sống và đấu tranh để tồn tại, con người đã tích luỹ được vô số tri thức địa lí (quan sát thiên nhiên, xác định phương hướng, tìm kiếm cây cỏ ăn được v.v…) và đã truyền miệng cho nhau những kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Nhưng chỉ từ khi có chữ viết thì các kiến thức mới được gì chép lại thành hệ thống, tạo điều kiện cho sự ra đời rất sớm của địa lí học.

I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC Ý NIỆM ĐỊA LÍ TRONG THẾ GIỚI CỔ ĐẠI.


Các sách vở còn lưu lại được những thời kì này( từ thế kỉ thứ V trước công nguyên đến thế kỉ thứ V sau công nguyên) hiện còn rât ít ỏi nên thông thường người ta chỉ nêu ra những (lò văn minh) đầu tiên của các dân tộc sống quanh Địa Trung Hải, ở cổ Trung Hoa và Ấn Độ.
Những ý niệm địa lí đầu tiên được hình thành thông qua những cuộc đi ven biển, những hành trình dài trên đất liền, trong đó người quan sát và ghi chép, mô tả các sự kiện. Với khả năng của thời bấy giờ, người ta chỉ có thể nhận thức từng yếu tố tự nhiên riêng biệt hoặc liên kết một vài yếu tố lại với nhau, từ đó rút ra kết luận về đặc tính của chúng.
Trong những ý niệm địa lí của thế giới cổ đại, đáng chú ý là những ý kiến của các nhà bác học ở cổ Ai Cập và cổ La Mã lúc đó là những đế quốc chiếm hữu nô lệ phát triển nhất. Những ý kiến này có thể chia làm hai hướng, hướng địa lí đại cương và hướng địa lí khu vực.
Trong hướng địa lí đại cương, điều làm các nhà bác học cổ đại quan tâm là hình dạng quả đất. Ý niệm về dạng của quả đất đã được Arixtotel (thế kỉ thứ IV trước công nguyên) đưa ra những bằng chứng đầu tiên thông qua những hiện tượng quan sát được như: bóng của quả đất trên Mặt Trăng vào thời gian nguyệt thực, sư biến đổi của bầu trời sao khi người ta đi từ bắc xuống nam theo hướng kinh tuyến. Chân trời càng mở rộng nếu người quan sát càng lên cao. Hiện tượng quan sát con tàu càng ra khơi càng khuất dần được Strabôn (thế kỉ thứ I trước công nguyên) đưa ra bổ sung cho những bằng chứng đó.
Việc đo đạc quả đất được nhiều học giả tiến hành nhưng đáng chú ý nhất là công trình của nhà toán học kiêm thiên văn học và địa lí học Eratoxten (thế kỉ III-IV trước CN). Bằng cách quan sát tia nắng Mặt Trời coi như thẳng góc vào ngày hạ chí ở Siên và lệch đi 7012’ ở Alêxandria và đo khoảng cách giữa hai thành phố đó (5000stadia) Eratoxten đã xác định chiều dài của kinh tuyến phải là 50 lần hơn nghĩa là 250.000stalia. Nếu coi 1stadia (đơn vị đo chiều dài ở Ai Cập ) là 158,3m thì kết quả đo được chính xác một cách kì lạ đối với thời bấy giờ: 39.500km. Chúng ta biết rằng chỉ đến thế kỉ XVIII thì kết quả đo đạc quả đất mới chính xác hơn mà thôi. Cũng nói ngay rằng Eratoxten là người đầu tiên đưa ra khái niệm địa lí học nói chính xác hơn theo nghĩa Hi Lạp là môn học về (mô tả quả đất).
Cũng trong hướng này K.Ptôlêmê (thế kỉ thứ I sau CN) đã tìm cách xây dựng hệ thống địa tâm để biểu diễn vũ trụ vũ trụ và quả đất cũng như bản đồ thế giới đầu tiên. Các tài liệu điạ lí của Plôlêmê được sử dụng rất lâu về sau trong suốt thời kì trung cổ, có mặt đã hạn chế những phát kiến địa lí tiếp tục do uy tín của các kết luận đó.
Hướng khu vực được phản ánh trong các công trình của nhà sử học kiêm địa lí học Hêrôđốt thế kỉ thứ V trước công nguyên), khi ông mô tả các vùng đất và biển mà ông đã đi qua (vùng biển gần biển Đen, các vùng nội địa ở tiểu Á, Lưỡng Hà, Ai Cập, vùng biển Địa Trung Hải ).
Đáng chú ý hơn là công trình của Strabôn (thế kỉ thứ I trước công nguyên-thế kỉ thứ I sau công nguyên) gồm 17 sách (phần) được đặt tên là “địa lí học” trong đó hai sách bàn về các vấn đề địa lí đại cương, 15 sách về các đất đai thuộc các vùng khác nhau. Những ý kiến quan trọng nhất của Strabôn là quan niệm về đối tượng và nhiệm vụ của địa lí học, về sự thống trị của biển so với lục địa (chỉ được coi như là một đảo lục địa) trên bề mặt địa cầu và như vậy là đụng chạm đến những vấn đề quan trọng nhất của địa lí học.
Vào thế kỉ thứ V sau công nguyên các nhà địa lí học cổ đại đã tích luỹ được rất nhiều tài liệu về quả đất và về một số vùng (nhất là các vùng quanh Địa Trung Hải, Tây Á, cổ Trung Hoa và Ấn Độ). Họ đã hệ thống hoá các tư liệu đó và làm cho khoa học địa lí phong phú hơn. Mặc dù một số nhà bác học chuyên về địa lí đại cương và một số khác về địa lí khu vực nhưng ngay từ thời đó, họ cũng đã tìm thấy sự liên kết chặt chẽ giữa hai hướng nói trên.

II. SỰ SUY ĐỒI CỦA ĐỊA LÍ HỌC TRONG THỜI KÌ TRUNG CỔ.



(thế kỉ thứ V sau công nguyên-thế kỉ thứ XV)
Sau một thời kì phát triển rực rỡ, từ thế kỉ thứ V trở đi địa lí học (và không chỉ địa lí học mà cả một số môn khoa học khác) trở nên suy đồi. Nhiều thành tựu khoa học địa lí đã đạt được trong các thế kỉ trước bị phủ định do người ta bắt buộc phải chấp nhận những lời phán có sẵn của nhà thờ. Toà án giáo hội được thiết lập để xử những nhà khoa học dám nói những điều không phù hợp với kinh thánh.
Chẳng hạn, quả đất không được coi như có dạng hình cầu nữa mà là một mặt phẳng hay có dạng đĩa (như ý kiến của nhà địa lí Ai Cập Indicốplov-thế kỉ thứ VI). Bản đồ không còn được định hướng theo phương Bắc mà là phương Đông vì phương Đông là nơi có Thánh đường của Chúa. Thiên đường và đất lìên có tường bao bọc rồi mới tiếp đến hai bầu trời thuỷ tinh nơi có những lỗ đặc biệt để mưa rơi xuống, còn mưa gió và mây đều là do các thiên thần điều khiển..
Nhưng các thế kỉ này – mà Ăngghen gọi là “đêm dài trung cổ” cũng không phải hoàn toàn không mang lại gì cho khoa học địa lí. Người ta nhận thấy ở những nơi nào chưa chịu ảnh hưởng của nhà thờ với các sự rõ ràng buộc khắc nghiệt của nó thì khoa học địa lí vẫn tiếp tục phát triển.
Những người Arập theo đạo Hồi một lần nữa lại đo chiều dài của kinh tuyến bằng 4.000 lôcti-đơn vị đo lường Arập cũ –tức là 40.680km) và mô tả đất đai mới của họ đánh chiếm được hay có giao thông buôn bán. Chẳng hạn vào năm 71, người Arập đã xâm nhập vào bán đảo Pirene vào thế kỉ thứ IX xuống đến Mađagaxca sang Trung Á đến Trung Hoa và có thể đi vòng quanh Châu Á. Những công trình của Maxuđa (thế kỉ thứ X)có rất nhiều đoạn mô tả như thế. Nhà bác học Buruni (thế kỉ thứ XI) đo kích thước quả đất và bắt đầu nói đến Mặt Trời là trung tâm của vũ trụ, như vậy là trước cả Côpecnic. Thương gia ngưòi Marốc Ipbatu đi những 120.000km trong 25 năm trời qua gần tất cả đất đai mà người ta đã biết được vào thời ấy và để lại nhiều tài liệu quý giá.
Ở phương Bắc những người Noócman đã có những cuộc vượt biển táo bạo vào biển Trắng, biển Đen, Địa Trung Hải, chiếm Aixơlan (băng đảo), Groenlan năm1000, họ đến bán đảo Labrađovà đi dọc bờ biển đông châu Mĩ (Êrícson).
Ở Trung Âu, gia đình thương gia Macco Pôlô đến Trung hoa, Mông cổ bằng đường bộ và đi vòng quanh Nam Á vào Tiểu Á bằng đường biển. Các hành trình này kéo dài trong 45 năm và chấm dứt vào 1299. Các tài liệu do Máccô Pôlô để lại mô tả các đất đai này và hiện nay vẫn chưa mất giá trị của chúng.

III-CÁC CÔNG CUỘC PHÁT KIẾN ĐỊA LÍ VĨ ĐẠI.



(cuối thế kỉ XV thế kỉ XVII)
Thời kì gọi là trung cổ trong thực tế có thể là kéo dài đến cuối thế kỉ XVII (Mackôp 1973), nhưng càng về cuối thì “quyền lực của các chúa phong kiến càng bị giảm sút, nhiều vương quốc lớn, về bản chất được đặt trên cơ sở dân tộc đã được cấu tạo từ đó đã phát triển các quốc gia châu Âu, và xã hội hiện đại” (Ăngghen). Ảnh hưởng của nhà thờ cũng bị giảm sút theo.
Các quan hệ buôn bán mang tính chất hàng hoá được mở rộng. Người châu Âu đặc biệt bị thu hút các cuộc buôn bán với Trung Hoa và Ấn Độ là nơi có nhiều hương liệu, vàng bạc, ngà voi, tơ lụa v.v.. Tiền tệ xuất hiện càng làm thúc đẩy sự tìm kiếm thị trường. Trong khi đó ở Tiểu Á, xuất hiện các đế quốc Thổ mà các cuộc đánh chiếm rộng lớn lại ngăn chặn chính sự phát triển buôn bán đó bằng cách cắt đứt con đường thuỷ bộ sang phương đông.
Các nước châu Âu buộc phải tìm kiếm những con đường mới sang phương Đông bằng cách đi về phía tây. Địa lí có những điều kiện mới để phát triển: nhờ thu thập được nhiều tư liệu về các đất đai mới, các nhà địa lí có thể so sánh và rút ra những kết luận, những tổng kết khái quát, mở đầu cho việc cấu tạo các quy luật địa lí.
Thời kì phát triển địa lí vĩ đại bắt đầu bằng hành trình táo bạo của Cơrixtôp Côlômbô vào năm 1942. Nhà hàng hải người Italia này phục vụ cho quyền lợi của vua Tây Ban Nha đã tiến hành 4 hành trình từ châu Âu sang châu Mĩ (1492-1502) đến quần đảo Bahama, Cu ba, Haiti, quần đảo Ăngti bằng con đường phía Tây do đó mà đặt tên cho quần đảo Bahama là Tây Ấn Độ này vẫn còn được sử dụng như là một địa danh), sau đó mới biết là châu Mĩ. Cùng với vàng bạc, dược liệu…những cuộc thám hiểm này thu được như mẫu vật về cây cối và chim chưa từng thấy ở châu Âu cũng như các tài liệu về tự nhiên, dân cư của (thế giới mới) các dòng biển và tín phong, các sự nhiễu động của địa từ thông qua sự chỉ lệch hướng của kim điạ bàn.
Người Bồ Đào Nha cũng không chịu ngồi yên. Họ hi vọng tìm được con đường sang Ấn Độ bằng cách vòng qua châu Phi. Năm 1947 Vaxcô Đờ Gama đã thực hiện được điều này. Người Bồ Đào Nha vì vậy chiếm độc quyền trong thời kì đó về buôn bán với các nước thuộc nam Á và đông nam Á. Năm 1500 một số tàu thuyền thuộc đoàn thám hiểm Cácbala bị dòng biển nam Đại Tây Dương kéo sang tận Braxin ở Nam Mĩ, mở đầu cho giai đoạn xâm nhập của người Bồ Đào Nha vào lục địa này. Thế kỉ thứ XVI, người Bồ Đào Nha đã từ Ấn Độ đến một số đảo thuộc Indonêxia ngày nay, vòng lên phía Trung Hoa và Nhật Bản.
Đầu thế kỉ thứ XVI, người Tây Ban Nha tiếp tục những cuộc thám hiểm mới ở lục địa Mĩ. Họ đã vượt qua eo đất Panama đến bờ biển Thái Bình Dương, vòng lên tận Florida ở phía bắc và xuống biển Pêru, Chilê ở phía nam.
“Sự phát hiện ra châu Mĩ và con đường biển vòng quanh châu Phi tạo cho giai cấp tư sản đang lên một môi trường hoạt động mới”. Mác_Ăngghen viết trong Tuyên ngôn của đảng Cộng sản như vậy. “Các thị trường Tây Ấn Độ và Trung Hoa, sự thuộc địa hoá châu Mĩ, sự buôn bán các thuộc địa, sự tăng các phương tiện lao động và hàng hoá nói chung tạo ra một sự thúc đẩy chưa từng có trước đó đối với thương mại, nghiên cứu về hàng hải, công nghiệp, đồng thời làm phát triển nhanh chóng yếu tố cách mạng trong xã hội phong kiến đang tan rã.”
Sau khi biết rằng phần đất đó gọi là tân thế giới không phải là Ấn Độ, dựa trên lí thuyết quả đất tròn, người Tây Ban Nha lại tìm cách đi xa hơn nữa về phía tây. Cuộc đi thám hiểm vòng quanh thế giới lần thứ nhất được giao cho nhà hàng hải người Bồ Đào Nha là Magienlan thực hiện vào ngày 20/9/1519 cuộc hành trình kéo dài ba năm, lúc đầu đi dọc theo bờ biển nam Mĩ qua eo được đặt tên là Magienlan, vượt qua Thái Bình Dương (tên Thái Bình Dương là do đoàn thám hiểm đặt ra do biển rất lặng sóng), đến quần đảo Marian, đảo Sêbu (nơi mà Magienlan - đánh đổi lấy sự thuần phục của viên chúa địa phương - giúp viên chúa này đánh chiếm đảo Macatan và bị giết ở đây). Từ quần đảo Mã Lai, đoàn thuyền còn lại trở về Tây Ban Nha bằng cách đi vòng quanh châu Phi.

Cuộc đi thám hiểm vòng quanh thế giới này đem lại - còn hơn các cuộc phát kiến trước - nhiều bằng chứng quan trọng về sự tồn tại của các đại dương nối liền với nhau và phân cách các lục địa, về những miền đất mới tồn tại ở những biển phía nam (Patagonia, châu Đại Dương) về các vòng đai gió trên địa cầu…

Những thành công của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha làm các nước Anh và Pháp sốt ruột. Người Anh cũng tìm đường sang phương Đông về phía Tây Bắc hai lần nhưng chỉ đến được Niu Phaolen và bờ đông Bắc Mĩ. Họ lại tìm đường về phía đông bắc nhưng cũng không vượt quá được miền cực bắc bán đảo Scandinavia. Sau những cố gáng liên tiếp của người Anh đến lượt người Hà Lan cũng đi tìm đường về phía ấy: họ đến được biển Kacpxki và bán đảo Yamal.

Các công cuộc khảo sát tiếp tục của người Hà Lan còn được tiến hành ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Năm 1605 họ khám phá ra châu Úc, năm 1642 và đảo Taxmania (được đặt theo tên nhà hàng hải Taxmania) và Niu Dilân.

Người Nga vượt Uran đến Xibia và Viễn đông, thám hiểm miền Trung Á, Ấn Độ, Mông Cổ.

Tóm lại, các cuộc phát kiến địa lí nói trên đã mở rộng phạm vi của thế giới trước mắt con người và giúp họ có một nhận thức đúng dắn hơn về bề mặt địa cầu mà trên đó họ sinh sống. Địa lí học thu thập được một số lượng dữ kiện khổng lồ làm cho nó đã trở thành một hệ thống các khoa học có tầm quan trọng rất to lớn vào thời bấy giờ đồng thời thúc đẩy thiên văn học và địa đồ học phát triển. Nhà địa đồ Méccato (1512 - 1594) nêu ra những nguyên tắc mới để thành lập bản đồ (bản đồ theo lưới chiếu Meccato hiện vẫn được sử dụng rộng rãi) và các tập đồ (Át lát). Nhà địa lí học người Hà Lan Vereni - uýt đã xuất bản cuốn "Địa lí học" trong đó ông đã tổng kết các sự kiện địa lí biết được vào thời ấy và điều quan trọng hơn, đã tìm cách, cắt nghĩa chúng. Hệ thống nhật tâm về vũ trụ do Côpecnic đề ra được phổ biến.

Cũng trong thời gian này, ở nước ta, Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (1438). Có thể coi đây là cuốn sách địa lí đầu tiên về đất nước ta vào thế kỉ thứ XV, mà cho đến nay vẫn còn nhiề giá trị.

IV. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC ĐỊA LÝ TRONG THẾ KỶ XVIII, XIX VÀ ĐẦU THẾ KỶ XX.

Khoa học địa lí bắt đầu phát triển trở lại từ đầu thế kỉ thứ XVIII và tiếp tục mãi cho đến ngày nay: mặc dù có trải qua một thời kỳ khủng hoảng nhất định. Nhiều điều kiện thuận lợi giúp cho sự phát triển có được thực hiện một cách nhanh chóng.

1. Hệ thống sản xất tư bản chủ nghĩa đạt được những thành tựu lớn trên quy mô toàn thế giới sau cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất và cuộc cách mạng tư sản Pháp. Sự tìm kiếm những nguồn nguyên liệu và những thị trường mới, sự giành giật các thuộc địa đòi hỏi phải tổ chức những cuộc thám hiểm quy mô lớn do các quốc gia đài thọ. Nhiều tổ chức nhà nước hoặc quần chúng phục vụ cho địa lí học như Hội địa lí. Sở địa đồ... được thành lập hầu như ở tất cả các nước.

2. Người ta bắt đầu phủ định từng bước một những giáo lí của nhà thờ Thiên chúa giáo, đặc biệt là về sự bất biến của tự nhiên. Quan niệm tiến hóa được xác nhận thông qua học thuyết về nguồn gốc quả đất của Căng - Laplaxơ và học thuyết của Đacuyn. Các định luật của Niutơn đánh dấu một bước nhảy cực kì to lớn trong nhiều lĩnh vực khoa học.

3. Sự phân dị trong khoa học tự nhiên bắt đầu được thực hiện để nghiên cứu sâu hơn về các đối tượng. Trong địa lí học, nhiều ngành chuyên môn được tách ra thành những khoa học địa lí bộ phận: khí hậu học, thuỷ văn học, thực vật học, địa chất học... Cùng với sự phân công lao động theo lãnh thổ trong sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, địa lí kinh tế ra đời. Nhiều nhà địa lí nỏi tiếng xuất hiện nối tiếp nhau, địa lí học đã đi vào việc phân tích so sánh và khái quát hóa.

Trong thời kì kéo dài hơn hai thế kỷ này, sự phát triển của địa lí học vẫn tiếp tục chủ yếu theo hướng phát hiện và khảo sát những vùng đất chưa được biết đến. Các cuộc thám hiểm tập trung vào việc:

1. Nghiên cứu các đại dương. Sau khi người Nga tiến đến bờ Tây Thái Bình Dương, người Anh cũng tìm cách mở rộng phạm vi khảo sát của mình trên các đại dương để tìm kiếm những đất đai mới. Ba lần nhà hàng hải, thám hiểm và địa lí nổi tiếng người Anh, J.Cúc đi vòng quanh thế giới (1776 - 1779), chủ yếu nhằm mục đích phát hiện ra lục địa phía nam (châu Nam cực). là ........ thứ nhất đem lại cho người Anh cơ hội để xâm nhập vào châu Úc Niu Dilân (mà Cúc tưởng đấy là châu Nam Cực). Trong lần thám hiểm lần hai. Cúc và đoàn thuyền của mình 6 lần đi qua vòng cực nam, tìm được ….. đảo (đảo Sanuych và Georgia mới…) nhưng không đến được châu Nam Cực, mong muốn. Hướng thám hiểm lần thứ ba đã thay đổi. Cúc sau khi đi qua Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương lại đi ngược lên Alaxka vào Bắc Băng Dương đến vĩ độ 70020' rồi bị bắt buộc trở về vì băng giá. Người thay thế Cúc…….. (Cúc bị thổ dân ở Haoai giết chết) cũng thất bại trong việc tìm đường nối liền Thái Bình Dương và Đại Tây Dương ở phía Bắc.

Năm 1803, đoàn thám hiểm người Nga dưới sự chỉ huy của Krruzenstéc ……… xianxki cũng đi vòng quanh thế giới để thu thập tư liệu. Đáng chú ý hơn là cuộc thám hiểm của Belinhausen và Lazarep phát hiện ra châu Nam cực (……….. 1820).

Cùng với nhiều cuộc thám hiểm đại dương khác hoặc người Nga ……. của người Anh, vào trung kì thế kỷ thứ XIX người ta đã có thể họa đồ ranh giới của các biển và đại dương, các nhóm đảo và quần đảo chính ………. hiện tất cả các lục địa mà hiện nay chúng ta biết đến, đặc tính của biển một phần đáy biển.

2. Nghiên cứu nội địa các châu lục. Vào thế kỷ thứ XIX, rất nhiều nước quan tâm d dến nội địa châu Phi và châu Mĩ cho đến lúc bấy giờ hầu như chưa được biết đến nhưng về mặt giàu có thì không thua gì các nước phương Đông.

Có thể nêu ra các cuộc thám hiểm chính: thứ nhất là của A.Humbon (……….. 1859) ở Nam Mĩ, Trung Mĩ (được mô tả lại trong 30 tập sách), và ở miền nội địa nước Nga (bắc Uran, Antai); thứ hai là của D.Livingxtôn (1811) vào nam và Trung phi, tạo điều kiện cho người Anh xâm nhập tiếp sau đó; thứ ba là của G.Stanlây ở miền xích đạo châu Phi (1871).

Cũng trong thời gian đó, các hội địa lí xuất hiện ở nhiều nước, đầu tiên Pháp rồi đến Anh, Đức, Nga. Hội địa lí Nga đài thọ và tổ chức nhiều cuộc thám hiểm ở Xibia do Kropotkin đứng đầu, Trung A (1856) với Sêmênốp Tian -……….. và sau đó với Projevanxki (1670 - 1885).

Những cuộc khảo sát vào trung tâm các châu lục lớn này đem lại cho địa lí học rất nhiều dữ kiện mới, làm cho người ta bắt đầu so sánh được tự n hiên ở những bộ phận khác trên địa cầu và khái quát hóa.

3. Nghiên cứu các xứ ở cực. Vấn đề con đường hàng hải đông bắc vẫn tiếp tục được nhiều nước quan tâm vào thế kỷ thứ XIX vì những dự tính khai thác tài nguyên miền Bắc, vì lí do giao thương, kể cả lí do quốc phòng. Thêm vào đó, các nhà khoa học tìm cách khám phá bí mật của các miền cực, cả Bắc cực lẫn Nam cực.

Do vị trí của nước Nga, các nhà khoa học nước này đã trở thành những người đầu tiên mở được con đường phương bắc và đi vòng quanh rìa phía Bứac của lục địa Âu - Á (đoàn thám hiểm Noócdonsen 1878 - 1879).

Về phần mình, người Anh quay trở lại kế hoạch mở con đường hàng hải tây bắc từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương, đoàn thám hiểm Pari (1819), J.Rôx (1829 - 1833), J.Franclanh và chỉ thành công ở đoàn Mac Clu (1845). Năm 1903 - 1906, R.Amunxen lần đầu tiên đi từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương trên con thuyền nhỏ "Loa".



Việc thám hiểm Bắc cực gắn liền với hi vọng kiếm được con đường ngắn nhất nói liền các lục địa. Từ giữa thế kỷ thứ XIX, đã có trên 15 đoàn thám hiểm được tổ chức để thực hiện ý đồ đó. Tuy người đầu tiên đến được Bắc Cực là người Mĩ R.Pêri (6 - 4 - 1909) nhưng đoàn thám hiểm này không đưa lại được gì nhiều lắm cho khoa học. Đoàn thám hiểm do nhà bác học Na Uy Ph.Nanxen chỉ huy trước đó (1893) mặc dù chỉ đến được vĩ tuyến 86014 lại có ích hơn nhiều về mặt này. Đoàn thám hiểm người Nga do Sêtốp (1912) chỉ huy cũng chịu số phận như đoàn của Nanxen, tuy tài liệu khoa học thu thập được rất có giá trị.

Trong khi đó thì công cuộc khám phá lục địa Nam Cực vẫn tiếp tục. Sau cuộc phát hiện của Bêlinhausen, các đoàn thám hiểm của Anh (Bixcô, J.Rôx, R.Scốt, Sáclơtôn), Pháp (đoàn Đuymông đuyếcvin) khảo sát nhiều phần đất ở đấy. Hai đoàn thám hiểm, một của Na Uy (do Amunsen dẫn đầu) một của Anh (do R.Scốt dẫn đầu) tìm cách đến Nam cực. Cũng như đối với Bắc cực, mặc dù đoàn Amunxen đến Nam cực trước vào ngày 14 - 12 - 1911 nhưng các tài liệu khoa học mà đoàn R.Scốt đến chậm sau 1 tháng (17-1-1912) lại giúp nhiều cho vệc tìm hiểu châu này hơn.

Trong toàn bộ hơn hai thế kỷ phát triển rực rỡ của địa lí học này, nổi lên một số nhà địa lí hàng đầu mà phong trào cách làm việc cũng như các công trình khoa học còn để lại dấu ấn cho đến tận ngày nay.

Người đầu tiên là I.Căng (1724-1804), mặc dù được biết nhiều hơn là một nhà triết học nhưng cũng là nhà địa lí nổi tiếng dạy địa lí ở trường đại học Konixbéc trong 42 năm. Học thuyết về cấu tạo vũ trụ của Căng đề xuất nhiều ý mà cho đến nay vẫn chưa hết giá trị. Căng đã cắt nghĩa nguồn gốc các hành tinh bằng các vật chất lạnh tồn tại trong vũ trụ, được liên kết lại với nhau theo định luật vạn vật hấp dẫn của Niutơn. Những sự va chạm khong hướng tâm của chúng ta ra vận động tự quay. Mặt Trời và các hành tinh được hình thành như thế đó. Cách cắt nghĩa của Căng tiến bộ vượt bậc so với khoa học thời đó; các nhà thiên văn học ngày nay ngày càng tin chắc như vậy.

Quan điểm triết học của Căng cho rằng thế giới tồn tại khách quan nhưng con người ta không có cách nào nhận thức được (thuyết bất khả tri) ảnh hưởng rất nhiều đến các kết luận địa lí của ông. Chẳng hạn để cắt nghĩa vì sao vật chất đang từ trạng thái hỗn loạn lại được xếp đặt lại một cách có trật tự, Căng đành phải cầu cứu đến ý muốn của Thượng đế.

Cũng chính từ Căng mà trong học thuyết về vũ trụ đã phổ biến một thời kì về cái "chết năng lượng" của quả đất. Mặt Trời sẽ tắt đi và thế giới sẽ chết vì thiế năng lượng. Như chúng ta đều biết, các kết luận hiện nay không phải như thế.



Cũng chính Căng là người đã nêu ra ý kiến cho rằng địa lí học chỉ có thể nghiên cứu các hiện tượng phân bố trong không gian, còn lịch sử thì nghiên cứu chúng theo thời gian. Ngày nay chúng ta biết rằng không thể nghiên cứu một hiện tượng mà tách không gian khỏi thời gian tức là tách hiện tại với quá trình phát triển của nó. Dù cho có những hạn chế không thể tách khỏi vào thời kì của mình, Căng phải được coi là bậc tiền bối trong địa lí học.
M.V Lômônoxốp(1711-1765) là một nhà khoa học lãnh đạo chuyên ngành địa lí trong viện Hàn lâm Khoa học Nga. Ông nghiên cứu tất cả các thành phần của lớp vỏ địa lí, đặt cơ sở phương pháp duy vật cho địa lí học.

Theo Lômônôxốp thế giới chung quanh ta tồn tại theo những quy luật tự nhiên chứ không phải do thưọng đế cấu tạo (như Niutơn đã nói), thế giới này không nằm trong trạng thái tĩnh mà vận động và phát triển. Lômônôxốp chủ trương xuất bản các tập đồ địa lí, là linh hồn và người tổ chức các cuộc thám hiểm các vùng khác nhau trong nước Nga rộng lớn, nhất là cuộc thám hiểm các vùng đất phương bắc và con đường hàng hải phương bắc.


A.Humbôn (1769-1859) là một nhà địa lí xuất sắc, một người đi đường không biết mỏi: 5 năm ở vùng xích đạo Nam Mĩ với nhà bác học Pháp Bôn-Plan nhiều lần trèo lên các núi cao dãy Andes kể cả ngọn Chimbôrazô (6.272m) thám hiểm thung lũng sông Ôrinôcô, đảo Cuba và vùng Mêhicô. Ở Nga, ông thám hiểm miền bắc Uran xuống miền Trung Á và vùng núi Antai. Humbôn nghiên cứu cả địa mạo, khí hậu và địa thực vật, tự chế tạo một số công cụ khảo sát. Những nhận xét của ông về mặt địa mạo rất đáng chú ý: Ông là người đầu tiên tìm cách xác định độ cao trung bình của các lục địa. Về mặt khí hậu, Humbôn là người phát hiện ra quy luật “giảm nhiệt độ theo độ cao”, xác định vị trí của xích đạo nhiệt và hai cực lạnh của bán cầu bắc, vị trí của ranh giới tuyết từ xích đạo lên các vĩ tuyến cao. Về mặt địa lí thực vật, cùng với Bônplan ông đã thu nhập được 6.000 loại cây, trong đó có 3.500 loại chưa được biết, nghiên cứu các quần xã thực vât, các thành hệ thực vật và những vấn đề mà địa lí thực vât hiện đại đang quan tâm. Các kết luận khái quát của Humbôn còn quan trọng hơn: quy luật địa đới được ông nêu lại (sau nhà bác học cổ HyLạp Êvđốt) trên cơ sở khoa học, nguyên tắc lịch sử trong việc nghiên cứu tự nhiên từ Humbôn trở thành phổ biến, phương pháp so sánh được nâng lên thành một trong những phương pháp địa lí chủ yếu. Humbôn cũng là người đầu tiên nhận thấy rằng các thành phần tự nhiên như khí hậu, thực vật, địa hình mà ông say mê nghiên cứu chỉ là bộ phận của lớp vỏ địa lí thống nhất. Cần phải nó thêm rằng A.Humbôn là một nhà giáo dục lớn: những bài giảng của ông ở trường đại học tổng hợp Beclin cực kì suất sắc, làm cơ sở cho cuốn sách nổi tiếng của ông (cuốn vũ trụ), mà như chúng ta sẽ thấy ở sau, đã lôi cuốn Đácuyn Ch. và thúc dục ông này đi theo con đường thám hiểm.
Đácuyn Ch. (1809-1882). Mặc dù Đácuyn thường được coi như là nhà sinh vật học và ngay các nhà địa lí cũng không tính đến ông như là “người của mình” nhưng hoạt động của ông cho địa lí có tầm quan trọng rất cao về phương diện khoa học và giáo dưỡng” (K.K Mackốp 1973). Đacuyn là nhà thám hiểm địa lí đã đi vòng quanh thế giới trên chiếc tàu Begon trong 5 năm, nghiên cứu vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới bán cầu nam. Học thuyết tiến hóa của ông xâm nhập vào cả trong thế giới vô cơ khi ông cắt nghĩa các đảo san hô (mà cho đến nay chưa ai có thể cắt nghĩa rõ hơn), các bậc thềm biển và thời đại băng hà đệ tứ. Từ Dacuyn trở đi quan điểm tiến hóa và quan điểm lịch sử trở thành vững chắc trong địa lí học.
K.Ritter (1779-1859) cũng là nhà địa lí nổi tiếng. Mặt tích cực của Ritte là đã phát triển phương pháp so sánh lên đến đỉnh cao, đã khái quát hóa đến mức độ chặt chẽ nhất các tài liệu rời rạc thu nhập được và biểu diễn một cách có nghệ thuật các tài liệu khoa học địa lí. Mặt tiêu cực của Ritter là đã gắn sự sáng tạo ra quả đất cho Thượng đế- và trong trường hợp đó ông lạc hậu hơn rất nhiều các nhà bác học đương thời với ông- nhưng còn tệ hại hơn là ông cho rằng sự sáng tạo đó chỉ là nhằm phục vụ người châu Âu. Chính Ritter là người chứng minh trong địa lí học rằng các điều kiện tự nhiên quyết định các hiện tượng xã hội (thuyết duy vật địa lí). Chẳng hạn ông cho rằng các lục địa nam bán cầu giảm nhiệt và điều đó tạo cho các dân tộc ở bán cầu bắc một ưu thế so với các dân tộc ở bán cầu nam cả về mặt số dân cũng như về sự phát triển trí tuệ cao và nhiều mặt (theo K Mackkop). Ritter đã viết sách làm nhiều tập bàn cả về vấn đề địa lí đại cương lẫn khu vực. Sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và rất phổ biến ở Tây Âu.
Cần phải kể đến người học trò gần nhất của ông là F.Ratzen (1814-1904). Ratzen còn tiến xa hơn thầy một bước bằng cách chứng minh sự phân biệt các màu da (người da trắng hơn người da màu) và chủ nghĩa thực dân là một quy luật. Học thuyết của Ratzen như vậy phục vụ một cách đắc lực cho chủ nghĩa đế quốc. Về mặt khoa học, Ratzen là một trong những người đầu tiên ở cuối thế kỷ XIX viết về sinh quyển và đóng góp nhiều cho địa lí tự nhiên.
A.Helne (1859-1941) cũng là nhà địa lí nổi tiếng người Đức. Ông có nhiều đóng góp cho địa lí học, đặc biệt về phương diện khái quát hóa, thí dụ như trong địa mạo học. Do muốn tìm cho địa lí học một vị trí độc lập, ông cho rằng bản chất của khoa học địa lí là khoa học không gian (lặp lại ý kiến của Kant) tách rời khỏi không gian. Ảnh hưởng của Helne lớn đến nỗi cho đến tận ngày nay nhiều nhà địa lí học- mà không chỉ ở phương Tây – vẫn còn lặp lại rằng: địa lí học là khoa học nghiên cứu không gian trong khi lẽ ra phải nói đó là khoa học nghiên cứu “bản chất của các hiện tượng trên bề mặt đất trong không gian- thời gian” (K K Mackop 1973).
E.Reclus (1830-1905. Trái với các nhà bác học Đức (trừ Humbôn), nhà địa lí người Pháp này đã tham gia phong trào công xã Pari và có rất nhiều điểm tiến bộ: ông không coi địa lí chỉ là khoa học về không gian mà cả về thời gian và con người, là một sức lao động quan trọng trên bề mặt đất. Reclus là người đầu tiên đã dùng khái niệm “môi trường địa lí”. E.Reclus là tác giả của một loạt sách địa lí nhiều tập, được dịch ra nhiều thứ tiếng, như cuốn “Quả đất” (6tập), ”Quả đất và con người” (19tập).
Ở nước ta thời kì này có hai nhà địa lí nổi tiến là Lê Quý Đôn (1726-1784) và Phan Huy Chú(1782-1840).
Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn nhất của Việt Nam trong thời kì phong kiến. Ông là nhà triết học, nhà văn, nhà thơ, nhà sử học và nhà địa lí. Trong 48 cuốn sách được biết của Lê Quý Đôn, có nhiều sách bàn về địa lí như ”Vân đài loại ngữ”, ”Kiến văn tiểu lục”, “Phủ biên tạp lục”...Không giống như người đương thời, Lê Quý Đôn trong khi thừa hành nhiệm vụ đã đi nhiều (lên Tây bắc, vào các xứ đường trong và đi đến đâu ghi chép thành sách đến đấy. Sách của ông có thể chia làm hai phần: phần địa lí đại cương và phần khu vực. Trong phần địa lí đại cương, Lê Quý Đôn có nhiều quan điểm tiến bộ: ông cho thế giới này là được cấu tạo từ vật chất, các tinh tú cũng vậy, tuy quan điểm này còn là chủ nghĩa duy vật chất phác (vũ trụ luận). Trong chương “Hình tượng”, Lê Quý Đôn bàn về vũ trụ học, công nhận hệ thống Nhật tâm và cho rằng mọi vật đều nằm trong trạng thái động. Chương “Khu vực” bàn về địa lí – chủ yếu là địa lí nước ta. Chương “Phẩm vật ngữ” bàn về các tài nguyên tự nhiên và cách sử dụng chúng. Trong “Kiến văn tiểu lục”, người ta có thể tìm hiểu cả ba tỉnh tây Sơn, Hưng Hoá, Tuyên Quang. Sách “Phủ biên tạp lục” nói về hai tỉnh Thuận Hoá và Quảng Nam. Các sách của Lê Quý Đôn có nhiều giá trị về mặt địa lí: xét về cấu trúc và cách viết, các sách của ông không khác biệt gì nhiều với các sách địa lí được xuất bản vào thời kì bấy giờ ở phương Tây.
Phan Huy Chú là tác giả của “Lịch triều hiến chương loại chí”. Sách gồm 49 quyển, chia ra 10 loại chí (tức là 10 bộ môn nghiên cứu) trong đó cuốn thứ nhất là ”Dư địa chí”. Khác với “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn, sách của Phan Huy Chú tiến bộ hơn về mặt phân loại khoa học (dễ hiểu vì Phan Huy Chú đã ở đầu thế kỉ thứ XIX, các tư liệu chính xác hơn. Dư địa chí gồm có 5 quyển. Quyển 1 nói về “sự khác nhau phong thổ của các đạo”, đi từ các đạo Cao Bằng, Lạng Sơn ở phía Bắc đến các đạo Gia Định, Định Viễn và Hà Tiên ở phía Nam. Trong mỗi đạo có phân biệt ra các phủ,huyện và mô tả vị trí, địa hình, sản vật, phong tục tập quán, lịch sử khai phá, sự biến đổi cương giới...Đối với người nghiên cứu địa lí, các loại chí khác như quan chức, khoa mục chí, quôc dụng chí, bang giao chí...của lịch triều hiến chương loại chí rất nên được tham khảo.
Ở nước Nga không kể M.V Lômônôxốp mà chúng ta đã nêu ở trên đáng chú ý có hai trường phái:
Trường phái Matxcơva của D.N Anusin. Luận điểm cơ bản của trường phái này là: Địa lí học phải nghiên cứu tự nhiên bề mặt đất. Bản thân Địa lí học chia làm hai ngành: địa lí đại cương và địa lí khu vực. Trong đó địa lý đại cương nghiên cứu tổng hợp các thành phần địa lí tự nhiên của toàn bộ là mặt đất, còn địa lí khu vực nghiên cứu những thể tổng hợp hẹp hơn trong phạm vi của những vùng nhất định (các nước ) bao gồm cả con người. Phuơng pháp lịch sử rất cần thiết đối với việc nghiên cứu địa lí về mặt khoa học cần liên hệ nó với những vấn đề thực tiễn. Những quan điểm này có ảnh hưởng lớn đến địa lí hiện đại.
Trường phái Đôcusaep ở Pêtécbua. Quan điểm của Đôcusaep và trưòng phái của ông là nếu nghiên cứu riêng từng thành phần của tự nhiên thì khó lòng mà hiểu được bản chất của tự nhiên. Theo ông chính là việc nghiên cứu các mối quan hệ (giữa các thành phần đó), các mối tác động qua lại có quy luật mới thực hiện được việc nhận thức của tự nhiên. Từ ý kiến này bắt đầu phổ biến quan niệm cho rằng địa lí học là khoa học của các mối quan hệ. Thành công cao nhất của tư tưởng Đôcusaep là học thuyết về các đới tự nhiên. Học thuyết mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong những chương cuối của giáo trình này-giúp cho địa lí học tìm được con đường thoát khỏi cơn khủng hoảng đối tượng và phương pháp sau quá trình phân dị đã chia địa lí học ra làm nhiều địa lí bộ phận.

V-ĐỊA LÍ HỌC CỦA THỜI KÌ HIỆN ĐẠI.



Từ những năm 30 của thế kỷ XX, địa lí học bắt đầu đã có những bước tiến mới, rõ rệt nhất là ở Liên Xô.
Ở đất nước Xô Viết, Cách mạng tháng 10 đã đem lại những thay đổi cơ bản trong xã hội, đồng thời cũng mang lại cho địa lí học (cũng như các khoa học khác) những tư tưởng mới làm đảo lộn các quan niệm có sẵn. Được trang bị bằng tư tưởng cách mạng là chủ nghĩa Mac –Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), các nhà địa lí xô Viết đã có nhiều khả năng để đi sâu và bản chất của các hiện tượng, phân tích các mối quan hệ tồn tại giữa các thành phần của tự nhiên giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tự nhiên và xã hội và sử dụng các kết qủa nghiên cứu vào mục đích nâng cao hiệu quả của việc sử dụng, bảo vệ và cải tạo tự nhiên.
Những đặc điểm chính của địa lí học Xô Viết trong thời đại nay là:

  • Nền kinh tế Xô viết là nền kinh tế kế hoạch hoá, sử dụng tổng hợp các sức sản xuất nhằm nâng cao năng xuất lao động của xã hội, đảm bảo thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Tính tổng hợp là bản chất của khoa học địa lí cho nên Địa lí có rất nhiều khả năng để phục vụ cho yêu cầu đó của xã hội. Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà thời kỳ Xô viết, địa lí học có điều kiện để phát triển một cách mạnh mẽ.




  • Địa lí học trở thành một hệ thống các khoa học nghiên cứu các thể tổng hợp. Địa lí kinh tế cũng như địa lí tự nhiên đều phải phát triển theo hai hướng: hướng nghiên cứu từng thành phần và hướng nghiên cứu theo vùng.




  • Trong địa lí tự nhiên, đáng chú ý là sự nhích gần của các khoa học này đến khoa học chính xác như vật lý, hóa học, toán học, thiên văn. Học thuyết của Đôcusaep được L.S Berg phát triển trong việc nghiên cứu các đới tự nhiên: Grigoriep và Buđưcô lưu ý đến vai trò của tương quan nhiệt ẩm trong các hiện tượng địa đới và nêu ra quan niệm về lớp vỏ địa lí V.I.Vecnatxki và Polulop sáng tạo ra hướng địa hóa cảnh quan.




  • Địa lí lý thuyết được chú ý một cách đặc biệt, còn địa lí ứng dụng là một phần không thể tách rời được với các khoa học bộ phận cũng như với các ngành địa lí tổng hợp. Hướng cổ địa lí giúp cho việc nghiên cứu tự nhiên hiện đại trong quá trình phát triển lịch sử của nó, không những để cắt nghĩa mà còn để điều khiển tiến trình của các hiện tượng tự nhiên, kể cả các địa tổng thể. Hướng địa lí sinh vật nghiên cứu các quan hệ giữa các quần lạc sinh vật với môi trường trong mối quan hệ thống nhất. Địa mạo biển, địa lí hải dương bắt đầu hướng địa lí học vào việc nghiên cứu phần môi trường rộng lớn mà con người từ trước đến nay chưa biết rõ nhất là phần thềm lục địa và đáy biển. Có thể dự đoán rằng ngành địa lí vũ trụ sẽ phát triển cùng với các công cuộc khảo sát vũ trụ đang được tiến hành ngày càng trên quy mô lớn ở Liên xô.




  • Như vậy địa lí học nguyên là một khoa học tĩnh, mô tả và cắt nghĩa các hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội đã trở thành một khoa học động, một khoa học dự báo, thực nghiệm và cải tạo. VI Ghenaximop muốn gọi địa lí hiện nay là địa lí kiến thiết có nhiệm vụ quy hoạch lại môi trường sống của con người cho phù hợp yêu cầu mới, những sự biến đổi to lớn của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai.

Ở phương Tây (Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những nước chịu ảnh hưởng ). Địa lí học đã trải qua một thời kì khủng trầm trọng vào đầu thế kỷ, do không xác định được rõ ràng đối tượng nghiên cứu của Địa lí học sau sự phân dị ra các khoa học bộ phận, người ta bắt buộc phải dùng lối thoát bằng cách hướng khoa học này vào các mục đích quân sự (xây dựng bản đồ, xuất bản các sách hướng dẫn địa lí của những nước cần chinh phục...) hoặc giải trí (địa lí du lịch). Vẫn tồn tại sự nhầm lẫn giữa các quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế, những học thuyết phản động về phân biệt chủng tộc, về địa lí chính trị về chủ nghĩa Matuyt mới.


Vào những năm 70 cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, địa lí học phương Tây chịu ảnh hưởng nặng nề của địa lí học nhân văn của Ratzen như đã nói ở trên và của Helne (1859-1911). Như chúng ta đã thấy, quan niệm thực sự không có gì mới nhưng ảnh hưởng của Ratzen và Helne lan ra rất rộng ngay cả hai nước Mỹ và Nga thời kì đó.
Cũng vào thời gian nói trên, ở Pháp xuất hiện trường phái địa lí nhân văn của PonVidal de la Blache (1845-1918). Lập luận của trường phái này là giữa con người và tự nhiên có một sự thống nhất hài hòa, địa lí học phải chú trọng đến con người và vì con người. Ưu điểm lớn của trường phái địa lí nhân văn là ở điểm vừa mới nói nhưng do không phân biệt các quy luật tự nhiên và quy luật xã hội, nhiều sách vở của trường phái này lẫn lộn các quy luật đó, dùng các quy luật của tự nhiên để cắt nghĩa xã hội và ngược lại. Địa lí học ở Pháp được xếp vào hệ thống các khoa học xã hội, và theo truyền thống, gắn bó chặt chẽ với sử học. Các đại diện của trường phái nhân văn (như Ghooge, Biro, Đomanggio...) đều cho rằng địa lí học là khoa học nhân văn, nghiên cứu không gian quả đất như là môi trường sống của con người, và chỉ có giá trị thực tiễn khi nó hướng về con người (hướng nhân –anthropocentrisme).

Cần phải nói rằng nước ta vào thời kì thuộc Pháp và cho đến năm 1960 các nhà địa lí chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của trường phái này (ở miền nam cho đến năm 1975). Có nhiều điều tôt trong địa lí nhân văn nhưng cũng phải đề phòng những quan điểm quen thuộc của địa lí phương Tây đáng phê phán như quan điểm duy vật địa lí, sự lẫn lộn các quy luật.


Địa lí học ở Mỹ, Anh và một số nước phương Tây khác đều thống nhất với nhau ở một số quan điểm chủ yếu: địa lí học là khoa học về không gian (tuy khác với các nhà địa lí Đức, đã chú trọng một phần đến khía cạnh thời gian như R.Hacthacno ), địa lí học là thống nhất và hướng nhân (G.Trevactha, V.Bungo, V Flinxo và các tác giả khác ). Điều đáng chú ý là địa lí chính trị có đất tốt để phát triển ở Mỹ và Anh: giảng viên địa lí người Anh Mackinder (1904) nêu ra học thuyết về khu vực “ then chốt” của lịch sử, S Vankenbuo (1939) áp dụng các giai đoạn phát triển địa hình (lý thuyết chu kỳ địa lí) của W.M Davis vào một quốc gia, phân biệt ra các giai đoạn trẻ, thành niên, lớn tuổi (giai đoạn đứng tuổi của một quốc gia là giai đoạn đi xâm chiếm thuộc địa ) và giai đoạn già (khi mất thuôc địa)...
Các nhà địa lí Mỹ phủ nhận lý thuyết về phân vùng địa lí. Trong cuốn “Địa lí học Mỹ hiện trạng và triển vọng” (1954) xuất bản ở Hoa Kỳ Uytlixay bác bỏ phân vùng địa lí, coi đây là một quá trình chủ quan, nhưng họ lại nói đến “những vùng hoàn chỉnh” gồm có các yếu tố của môi trường tự nhiên, sinh vật và xã hội, có quan hệ về mặt chức năng với hoạt động của con người. Như chúng ta thấy, trong các sách vở địa lí Mỹ, Anh.... các vùng được phân biệt theo chủ quan của từng tác giả và thông thường dựa trên các chỉ tiêu thứ yếu.
Một trong những loại sách địa lí được phổ biến rộng rãi là các chuyên khảo hay địa phương chí, trong đó dân cư và kinh tế được trình bày kĩ lưỡng, còn các điều kiện tự nhiên thì được mô tả theo từng yếu tổ một cách hình thức, không có liên hệ với nhau.
Dù thế nào thì trường phái địa lí Mỹ cũng cho chúng ta một ví dụ điển hình về sự thiếu phương pháp luận chung và cách quan niệm về đối tượng, nhiệm vụ của địa lí học là tùy từng người. Trong trường hợp đó thì các cơ quan chuyên nghiên cứu những vấn đề thực tiễn có khi lại làm công việc của nhà địa lí. Thí dụ về sự đo đạc và quản lý đất ở Mỹ hơn 60 năm nay đã để tâm nghiên cứu các khu vực đất đai, thực tế theo hướng cảnh quan, tất nhiên với những hạn chế nhất định. Điều đó cũng thấy ở Pháp, Newzeland và Auxtralia.
Tuy nhiên từ những năn 60 trở đi, khoa học địa lí ở Tây Âu đã đi vào một số hướng tích cực:

1- nghiên cứu những vùng mà đặc điểm tự nhiên và các quá trình xảy ra ở đó chưa được biết rõ, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới;

2- đi sâu hơn về phương diện định lượng trong các phòng thí nghiệm hay ngoài trời, sử dụng các phương tiện tối tân để tìm hiểu bản chất và cơ thức của các quá trình địa lí tự nhiên;

3- quy hoạch lãnh thổ theo hướng tìm phương án tốt nhất cho các hoạt động kinh tế.


Địa lí lý thuyết lẫn địa lí ứng dụng được đề cao. Một số nhà bác học nổi lên như những đại diện hàng đầu của thế giới về một số lĩnh vực nhất định. Tuy nhiên nếu như trên từng lĩnh vực địa lí bộ phận, địa lí học ở phương Tây đạt được một số thành tựu cụ thể thì phương hướng tổng hợp ở đây chưa được quan niệm đúng mức làm bước tiến của địa lí học chưa đồng đều và toàn diện.
Từ những năm 70 trở đi, địa lí học trên toàn thế giới được trao nhiệm vụ giải quyết một số vấn đề lớn nhất của thời đại là vấn đề quan hệ giữa con người và môi trường sống. Người ta đặc biệt chú trọng đến các vấn đề sau đây:

  • Các hệ thống sinh thái trên lục địa và sự kiểm soát các hệ thống này.

  • Các chu kì sinh địa hóa trong môi trường sống chung trên toàn thế giới.

  • Vấn đề các tài nguyên và sử dụng các tài nguyên.

  • Xây dựng những mô hình tối ưu cho sự phát triển kinh tế chung (mô hình các hệ thống tự nhiên- kỹ thuật, các thể tổng hợp lãnh thổ sản xuất...)

  • Vấn đề địa lí lý thuyểt và các phương pháp khảo sát địa lí.


Chương III: TRÁI ĐẤT.

I. TRÁI ĐẤT TRONG HỆ MẶT TRỜI VÀ HỆ NGÂN HÀ.


Trong vũ trụ, Trái Đất là một thiên thể, một hệ vật chất như hàng tỉ hệ khác rất phổ biến trong khoảng không gian rộng lớn.
Trái Đất là một hành tinh trong Hệ Mặt Trời còn hệ Mặt Trời lại là một bộ phận của một hệ lớn hơn là hệ Ngân Hà. Trong hệ Ngân Hà có vô vàn các thiên thể các loại chuyển động trong không gian theo chiều "thuận thiên văn", tức chiều ngược kim đồng hồ, dưới tác động của sức hút xung quanh một "nhân trung tâm" trong thời gian 180 triệu năm.

Hệ Ngân hà và vị trí của mặt trời trong đó.
Theo ý kiến của các nhà thiên văn học thì "nhân trung tâm" đó là một đám sao dày có khoảng cách giữa chúng nhỏ hơn so với khoảng cách của những ngôi sao khác ở phía ngoài.

Hình. Hệ Mặt Trời nhìn nghiêng.
Tuy nhiên, trong vũ trụ, hệ Ngân Hà của chúng ta không phải là duy nhất. Nhờ có các kính thiên văn cực mạnh, ngày nay người ta đã quan sát được hàng chục triệu Hệ Ngân Hà tương tự. Tất cả được coi là những thành phần của một hệ lớn hơn trong vũ trụ: Hệ Siêu Ngân Hà.

II. HỆ MẶT TRỜI.


Hệ Mặt Trời gồm có một thiên thể lớn ở trung tâm. Đó là Mặt Trời. Xung quanh có các thiên thể nhỏ hơn: các hành tinh, các vệ tinh, các tiểu hành tinh, các sao chổi thiên thạch và khí giữa các hành tinh.
Каталог: wp-content -> uploads -> sites -> 499
sites -> LỊch công tác tuầN 05-tháng 9 (Từ ngày 28/9 đến ngày 2/10/2015)
sites -> KẾt quả nghiên cứu tính chất cơ, VẬt lý VÀ giải phẫu của một số loài gỗ thông dụng ở việt nam làm cơ SỞ cho chế biếN, BẢo quản và SỬ DỤNG
sites -> Dear Parents
sites -> “Thực hiện Hiến pháp và pháp luật góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”
sites -> Ngày 16 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 73/2010/QĐ-ttg ban hành Quy chế đầu tư xây dựng công trình lâm sinh
sites -> Bài Trò chơi cùng nhau qua cầu
sites -> TS. Hoàng Sỹ Kim Ban biên tập ts. Nguyễn Ngọc Hiếu ts. Nguyễn Việt Hùng Ths. Nguyễn Thúy Anh Ths. Trần Thị Thoa
sites -> BỘ TÀi chính số: 54/2014/tt-btc cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc

tải về 9.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương