3. Xây dựng thương hiệu và tiêu thụ
nông sản
Trong những năm gần đây, mặc dù xuất
khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt
Nam đạt khoảng 30,6 tỷ USD năm 2018
(Tổng cục Thống kê, 2019) và thị trường
xuất khẩu khá đa dạng nhưng hầu hết các
sản phẩm được xuất khẩu dưới dạng thô và
chưa xây dựng được các thương hiệu Việt
tầm cỡ trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu
về vấn đề này, Phạm Thành Công (2013),
Đinh Thị Kim Thoa (2014), Nguyễn Thị
Như Tâm (2015), Trần Thị Thu Huyền
(2016), Nguyễn Thế Trung (2017), Đào
Đức Huấn (2018), Hoàng Đình Vinh (2018)
và Phạm Quốc Quyết (2019) cho thấy, Việt
Nam xuất khẩu được nhiều mặt hàng nông
sản thế mạnh, tuy nhiên đa số các mặt hàng
chưa xây dựng được các thương hiệu có uy
tín nên sức cạnh tranh của sản phẩm chưa
cao, giá bán thấp; nhiều mặt hàng phải
xuất khẩu qua trung gian và mang nhãn
mác của quốc gia khác; số lượng mặt hàng
nông sản được chỉ dẫn địa lý và được bảo
hộ còn khiêm tốn. Đào Đức Huấn (2017)
đã chứng minh hoạt động quản lý chỉ dẫn
địa lý ít được triển khai trên thực tế; vai trò
của các tổ chức tập thể vẫn mờ nhạt. Vì vậy,
cần chuyển chỉ dẫn địa lý thuộc sở hữu nhà
nước sang sở hữu chung của cộng đồng, xây
dựng chính sách theo hướng quản lý tài sản
cộng đồng, có sự điều tiết của Nhà nước.
Ngô Thị Mỹ và Trần Nhuận Kiên
(2016), Phạm Minh Thụy (2019) phân tích
thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam
giai đoạn 1997-2013 và giai đoạn 2010-
2018 cho thấy, tổng giá trị xuất khẩu có tốc
độ tăng trưởng cao, cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu được chuyển đổi hiệu quả. Tuy nhiên,
xu hướng đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
còn chậm và tiềm ẩn rủi ro cao về rào cản
thương mại, nông sản chủ yếu là gia công
và bán cho các tập đoàn nước ngoài. Nghiên
cứu của Nguyễn Quốc Trí (2013) cũng cho
thấy, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nông sản
(như chè, cà phê, gạo, cao su) dưới dạng
thô nên giá trị xuất khẩu còn hạn chế.
4. Kết luận
Trong giai đoạn vừa qua, nông nghiệp
Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng
khi thâm nhập được hầu hết thị trường các
khu vực trên thế giới với giá trị xuất khẩu
ngày càng tăng. Tuy nhiên, các sản phẩm
nông nghiệp của Việt Nam hầu hết mới
chỉ dừng lại ở xuất khẩu thô nên giá trị gia
tăng thấp. Có nhiều nguyên nhân hạn chế
sự tham gia của các sản phẩm nông nghiệp
Việt Nam vào thị trường quốc tế. Tổng quan
nghiên cứu từ khâu sản xuất tới tiêu thụ cho
thấy, nông nghiệp Việt Nam vẫn còn khá
nhiều hạn chế, yếu kém cần cải thiện.
Những điểm hạn chế chính của sản xuất
nông nghiệp Việt Nam không chỉ do người
nông dân, doanh nghiệp hay nhà nước mà
nó có tính ràng buộc hệ thống. Để khắc phục
điều này cần có sự liên kết, phối hợp và sự
tham gia của các bên liên quan (nhà nước,
nông dân và doanh nghiệp) nhằm hướng
tới sản xuất hàng hóa theo quy chuẩn/tiêu
chuẩn đáp ứng các yêu cầu của thị trường
các nước phát triển; sử dụng công nghệ chế
biến và bảo quản sau thu hoạch nhằm tạo ra
những sản phẩm thương hiệu Việt trên thị
trường quốc tế với giá trị gia tăng cao thay
vì xuất khẩu thô như hiện nay
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |