1 Lê Văn Hùng


Khâu sản xuất nông nghiệp



tải về 225.59 Kb.
Chế độ xem pdf
trang4/8
Chuyển đổi dữ liệu20.03.2023
Kích225.59 Kb.
#54406
1   2   3   4   5   6   7   8
52431-Article Text-156464-1-10-20201121

1. Khâu sản xuất nông nghiệp
Ở Việt Nam, phần lớn các hộ gia đình 
vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp, do đó 
diện tích bình quân mỗi hộ đối với từng 
loại hàng hóa, sản phẩm cụ thể có quy mô 
khá nhỏ và bị phân tán thành nhiều mảnh. 
Trong khi đó, việc hợp tác, liên kết trong 
sản xuất nông nghiệp giữa các hộ vẫn còn 
yếu. Chính vì vậy, việc sản xuất khó đạt 
được lợi thế theo quy mô và khó khăn trong 
ứng dụng khoa học kỹ thuật, đặc biệt là 
thực hiện nông nghiệp công nghệ cao hay 
sản xuất theo hướng nông nghiệp hữu cơ, 
nông nghiệp an toàn.
Quy mô sản xuất nhỏ lẻ
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu khác 
nhau về các hình thức tổ chức sản xuất tại 
một số địa phương, điển hình như nghiên 
cứu của Nguyễn Thế Trường (2008); Phạm 
Văn Quang (2013). Theo các nghiên cứu, 
nhìn chung, sản xuất nông nghiệp tại Việt 
Nam còn lạc hậu; kinh tế hộ, kinh tế trang 
trại, các doanh nghiệp nông nghiệp hay các 
hợp tác xã đều có quy mô nhỏ, thiếu sự liên 
kết, thiếu phương án hoạt động kinh doanh 
có hiệu quả và năng lực tài chính yếu kém. 
Nghiên cứu của Bùi Thị Vân Anh 
(2018) chỉ ra rằng, tích tụ ruộng đất bình 
quân ở Việt Nam hiện nay chỉ có 0,6 ha/hộ, 
thấp nhất thế giới. Để giảm thiểu tâm lý sản 
xuất manh mún của người dân, hướng tới 
sản xuất quy mô lớn theo hướng hiện đại 
cần làm tốt công tác dồn điền, đổi thửa và 
tăng cường tính chủ động của người nông 
dân trong “liên kết 4 nhà” (nhà nông, nhà 
nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp) 
và giảm thiểu tính ỷ lại của người dân trong 
quá trình chuyển đổi sang phương thức sản 
xuất mới. 
Liên kết sản xuất yếu
Quy mô diện tích sản xuất nông nghiệp 
ở Việt Nam khá nhỏ lẻ, liên kết sản xuất 
giữa các hộ nông dân với nhau hay giữa 
nông dân với doanh nghiệp vẫn còn yếu. 
Do đó, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật và 
phương thức tổ chức sản xuất chủ yếu vẫn 
theo kiểu nông hộ lạc hậu, sản xuất dựa vào 
kinh nghiệm. Hậu quả là, chất lượng của 
nhiều sản phẩm nông nghiệp khó tiếp cận 
với các thị trường cao cấp. 
Khi phân tích về tính liên kết giữa 
nông dân và doanh nghiệp trong sản xuất, 
Hoàng Thị Chỉnh (2014), Lê Phương 
(2018), Trần Trọng Hiếu (2018) đều cho 
thấy sự kết hợp giữa hai bên chưa chặt 
chẽ, tự do phá vỡ hợp đồng, trình độ nông 
dân còn hạn chế, tính rủi ro cao. Kết quả 
khảo sát tại 14 huyện, thành thị tại tỉnh 
Nghệ An của Nguyễn Thị Minh Tú (2019) 
đã chỉ ra việc liên kết giữa doanh nghiệp 
và nông dân chủ yếu đang dừng lại ở việc 
doanh nghiệp thu mua sản phẩm của nông 
dân, hoặc thuê khoán nông dân thực hiện 
một khâu sản xuất cụ thể, quy chuẩn chất 
lượng không đòi hỏi chặt chẽ. Trong số 
47 doanh nghiệp được khảo sát, chỉ có 21 
doanh nghiệp (chiếm 44,7%) có ký hợp 
đồng với nông dân. Dạng hợp đồng chủ 
yếu là cung ứng đầu vào và tiêu thụ nông 
sản (chiếm 81%), còn lại chỉ là hợp đồng 
tiêu thụ nông sản (19%), không có sự đầu 
tư của doanh nghiệp trong sản xuất.
Công nghệ sản xuất còn lạc hậu
Theo Trần Thị Thu Hằng (2017), phát 
triển nông nghiệp công nghệ cao là xu 


Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2019
6
hướng chủ đạo, là chìa khóa thành công 
của nhiều nước trên thế giới. Trong thời 
kỳ hội nhập, Việt Nam cũng đã tiến hành 
ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, 
tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều khó khăn như: 
thiếu vốn đầu tư, chất lượng lao động thấp, 
kết cấu hạ tầng vùng nông thôn còn nhiều 
bất cập,… Trần Đăng Bộ và Hoàng Ngọc 
Hưởng (2019) cho rằng, Việt Nam mới chỉ 
có một số mô hình nông nghiệp thông minh 
thông qua hợp tác quốc tế nhằm sử dụng có 
hiệu quả các nguồn lực trong sản xuất nông 
nghiệp, ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc 
đẩy quá trình sản xuất theo chuỗi giá trị, 
thực chất chưa có mô hình hoàn chỉnh về 
nông nghiệp 4.0. Các mô hình nông nghiệp 
ứng dụng công nghệ cao hầu hết có sự tham 
gia của doanh nghiệp nuôi trồng bò sữa, 
tôm, hoa, rau quả,… Tuy nhiên, số lượng 
và quy mô diện tích áp dụng công nghệ cao 
trên cả nước vẫn còn nhỏ.
Vấn đề an toàn trong sản xuất nông 
nghiệp
Để tham gia vào các thị trường quốc 
tế, đặc biệt là thị trường các nước phát 
triển, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều định 
hướng và hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo 
hướng xanh, sạch, sản phẩm hữu cơ và an 
toàn. Tuy nhiên, do nhiều vấn đề khác nhau 
như chi phí đầu tư sản xuất, năng lực của 
người nông dân, giá bán và thị trường tiêu 
thụ, hàng giả,…, những hộ sản xuất theo 
chứng chỉ Viet GAP, Global GAP không 
thực sự tham gia hoặc có tham gia cũng 
không hoàn toàn tuân thủ đúng quy trình 
sản xuất. Theo FIBL & IFOAM, tính đến 
năm 2015 Việt Nam mới có 0,7% diện tích 
đất nông nghiệp hữu cơ (76.666 ha). Tính 
đến đầu năm 2018, Việt Nam chỉ có 1.574 
cơ sở có giấy chứng nhận VietGAP đang 
còn hiệu lực (tương đương 21.096 ha) (Dẫn 
theo: Đào Thị Hoàng Mai, 2019). 
Theo Cục Thông tin Khoa học và 
Công nghệ Quốc gia (2018), năm 2016, 
thị trường nông sản hữu cơ ở Việt Nam có 
sự phát triển ổn định, được hỗ trợ bởi tiêu 
dùng gia tăng. Về xu hướng, diện tích sản 
xuất nông nghiệp hữu cơ tăng nhanh. Tuy 
nhiên, vẫn còn có sự không tin tưởng của 
người tiêu dùng do nhiều vi phạm trong sản 
xuất và chế biến thực phẩm. Về mặt chính 
sách, Việt Nam chưa có những quy định 
pháp luật và chính sách sản xuất và hỗ trợ 
nông nghiệp hữu cơ một cách rõ ràng và 
cụ thể. 
Nghiên cứu của Nguyễn Song Tùng 
và Trần Ngọc Ngoạn (2014), Lê Thị Hồng 
Dương (2015) cho rằng, nông nghiệp xanh 
chính là giải pháp cho sự phát triển bền 
vững ngành nông nghiệp Việt Nam. Tuy 
nhiên, theo Bùi Đức Hùng (2017), mức 
độ tăng trưởng xanh trong nông nghiệp và 
thủy sản còn mờ nhạt, phần lớn dừng lại ở 
sự định hướng; quy mô sản xuất nhỏ lẻ và 
phân tán, thiếu sự liên kết; người dân chưa 
có ý thức về vấn đề bảo vệ môi trường; 
lạm dụng các chất hóa học; công tác quản 
lý của các cấp chính quyền về vệ sinh an 
toàn thực phẩm hết sức lỏng lẻo; thị trường 
đầu ra của các sản phẩm sản xuất theo mô 
hình VietGap còn bấp bênh. Tập quán canh 
tác của người nông dân Nam Trung bộ nói 
riêng và nông dân cả nước nói chung chủ 
yếu dựa vào kinh nghiệm, nguồn vốn thấp, 
ứng dụng khoa học công nghệ chưa mang 
lại hiệu quả kinh tế thiết thực trong sản 
xuất.
Về khía cạnh phát triển an toàn và bền 
vững trong nông nghiệp, theo Huy Tuấn 
(2014), sản xuất nông nghiệp hiện nay 
chủ yếu tập trung vào yếu tố năng suất mà 
chưa quan tâm nhiều tới những tác động 
trong môi trường. Những phương pháp sản 
xuất hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào việc 


Một số hạn chế cơ bản…
7
sử dụng phân bón vô cơ, thuốc trừ sâu, 
thuốc tăng trưởng, làm cạn kiệt nguồn tài 
nguyên không tái tạo, đầu độc môi trường 
đất, nước và không khí. Thực tế, nông dân 
không hào hứng với việc chuyển sang nền 
nông nghiệp “sạch” do chi phí sản xuất 
cao nhưng thu nhập thấp, thị trường tiêu 
thụ hạn hẹp. 

tải về 225.59 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương