Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2019
6
hướng chủ đạo, là chìa khóa thành công
của nhiều nước trên thế giới. Trong thời
kỳ hội nhập, Việt Nam cũng đã tiến hành
ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất,
tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều khó khăn như:
thiếu vốn đầu tư, chất lượng lao động thấp,
kết cấu hạ tầng vùng nông thôn còn nhiều
bất cập,… Trần Đăng Bộ và Hoàng Ngọc
Hưởng (2019) cho rằng, Việt Nam mới chỉ
có một số mô hình nông nghiệp thông minh
thông qua hợp tác quốc tế nhằm sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực trong sản xuất nông
nghiệp, ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc
đẩy quá trình sản xuất theo chuỗi giá trị,
thực chất chưa có mô hình hoàn chỉnh về
nông nghiệp 4.0. Các mô hình nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao hầu hết có sự tham
gia của doanh nghiệp nuôi trồng bò sữa,
tôm, hoa, rau quả,… Tuy nhiên, số lượng
và quy mô diện tích áp dụng công nghệ cao
trên cả nước vẫn còn nhỏ.
Vấn đề an toàn trong sản xuất nông
nghiệp
Để tham gia vào các thị trường quốc
tế, đặc biệt là thị trường các nước phát
triển, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều định
hướng và hỗ trợ sản xuất nông nghiệp theo
hướng xanh, sạch, sản phẩm hữu cơ và an
toàn. Tuy nhiên, do nhiều vấn đề khác nhau
như chi phí đầu tư sản xuất, năng lực của
người nông dân, giá bán và thị trường tiêu
thụ, hàng giả,…, những hộ sản xuất theo
chứng chỉ
Viet GAP, Global GAP không
thực sự tham gia hoặc có tham gia cũng
không hoàn toàn tuân thủ đúng quy trình
sản xuất. Theo FIBL & IFOAM, tính đến
năm 2015 Việt Nam mới có 0,7% diện tích
đất nông nghiệp hữu cơ (76.666 ha). Tính
đến đầu năm 2018, Việt Nam chỉ có 1.574
cơ sở có giấy chứng nhận VietGAP đang
còn hiệu lực (tương đương 21.096 ha) (Dẫn
theo: Đào Thị Hoàng Mai, 2019).
Theo Cục Thông tin Khoa học và
Công nghệ Quốc gia (2018), năm 2016,
thị trường nông sản hữu cơ ở Việt Nam có
sự phát triển ổn định, được hỗ trợ bởi tiêu
dùng gia tăng. Về xu hướng, diện tích sản
xuất nông nghiệp hữu cơ tăng nhanh. Tuy
nhiên, vẫn còn có sự không tin tưởng của
người tiêu dùng do nhiều vi phạm trong sản
xuất và chế biến thực phẩm. Về mặt chính
sách, Việt Nam chưa có những quy định
pháp luật và chính sách sản xuất và hỗ trợ
nông nghiệp hữu cơ một cách rõ ràng và
cụ thể.
Nghiên cứu của Nguyễn Song Tùng
và Trần Ngọc Ngoạn (2014), Lê Thị Hồng
Dương (2015) cho rằng, nông nghiệp xanh
chính là giải pháp cho sự phát triển bền
vững ngành nông nghiệp Việt Nam. Tuy
nhiên, theo Bùi Đức Hùng (2017), mức
độ tăng trưởng xanh trong nông nghiệp và
thủy sản còn mờ nhạt, phần lớn dừng lại ở
sự định hướng; quy mô sản xuất nhỏ lẻ và
phân tán, thiếu sự liên kết; người dân chưa
có ý thức về vấn đề bảo vệ môi trường;
lạm dụng các chất hóa học; công tác quản
lý của các cấp chính quyền về vệ sinh an
toàn thực phẩm hết sức lỏng lẻo; thị trường
đầu ra của các sản phẩm sản xuất theo mô
hình VietGap còn bấp bênh. Tập quán canh
tác của người nông dân Nam Trung bộ nói
riêng và nông dân cả nước nói chung chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm, nguồn vốn thấp,
ứng dụng khoa học công nghệ chưa mang
lại hiệu quả kinh tế thiết thực trong sản
xuất.
Về khía cạnh phát triển an toàn và bền
vững trong nông nghiệp, theo Huy Tuấn
(2014), sản xuất nông nghiệp hiện nay
chủ yếu tập trung vào yếu tố năng suất mà
chưa quan tâm nhiều tới những tác động
trong môi trường. Những phương pháp sản
xuất hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào việc