2. Khâu bảo quản và chế biến nông sản
Đánh giá về công nghiệp chế biến nông,
lâm sản tại các tỉnh vùng Bắc Trung bộ giai
đoạn 2001-2006, nghiên cứu của Nguyễn
Hồng Lĩnh (2007) cho rằng, lĩnh vực này
còn gặp nhiều khó khăn. Đóng góp của
công nghiệp chế biến làm tăng giá trị gia
tăng của nông sản hàng hóa còn thấp, chất
lượng sản phẩm chưa cao, mặt hàng đơn
điệu. Số lượng doanh nghiệp chế biến vùng
Bắc Trung bộ tăng nhanh, chủ yếu mang
tính tự phát, đa số có quy mô vừa và nhỏ.
Tỷ lệ nông sản được chế biến xuất khẩu chỉ
đạt khoảng 35-40%.
Trong những năm gần đây, chế biến
nông sản của Việt Nam đã có những bước
tiến nhất định. Một số sản phẩm từ sữa,
cây dừa, tôm,... đã thu hút được các doanh
nghiệp tham gia chế biến sâu và đa dạng
hóa sản phẩm để tham gia vào thị trường
quốc tế. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những
điểm sáng nhỏ bởi các sản phẩm nông
nghiệp xuất khẩu (cà phê, cao su, chè,…)
của Việt Nam chủ yếu vẫn là xuất khẩu thô
(chỉ qua sơ chế) nên giá trị gia tăng thấp.
Trong khi đó, những sản phẩm tươi có giá
trị gia tăng cao như trái cây, rau củ, hoa,…
vẫn khó tham gia vào thị trường quốc tế.
Về vấn đề bảo quản nông sản, Nguyễn
Mạnh Dũng (2016) đã đánh giá tương đối
toàn diện việc ứng dụng công nghệ nhằm
giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch. Theo đó,
công nghệ sau thu hoạch tại Việt Nam kể từ
năm 2000 có những bước phát triển mạnh
mẽ. Tuy nhiên, việc áp dụng các công nghệ
mới đối với khâu này còn khá chậm so với
kỳ vọng của các cơ quan chính phủ, nguyên
nhân chủ yếu do: (i) nhận thức của các cơ
quan nhà nước về lĩnh vực công nghệ sau
thu hoạch chưa đúng, chưa đầy đủ; (ii) năng
lực của hệ thống quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch còn hạn
chế; (iii) hệ thống đào tạo về công nghệ và
quản lý sau thu hoạch ở bậc đại học và sau
đại học chưa được chú trọng; (iv) hệ thống
chính sách chưa đồng bộ; (v) cơ cấu vốn
đầu tư bất hợp lý; và (vi) sự phát triển thiếu
quy hoạch của lĩnh vực công nghệ sau thu
hoạch.
Nguyễn Trọng Xuân và Phùng Quang
Thái (2016) nhận định, hội nhập sẽ thúc
đẩy công nghiệp chế biến nông sản mạnh
mẽ do việc mở rộng thị trường nông sản
ra nước ngoài; các doanh nghiệp chế biến
nông sản có điều kiện tham gia cạnh tranh
bình đẳng hơn. Tuy nhiên, công nghiệp chế
biến của Việt Nam cũng phải đối mặt với
những thách thức lớn khi hầu hết các quốc
gia khác trong các hiệp định cam kết đều
có trình độ phát triển nông nghiệp và công
nghiệp chế biến hơn hẳn Việt Nam, giá
thành sản xuất cũng tương đối rẻ so với Việt
Nam. Sản phẩm đầu vào cho công nghiệp
chế biến của Việt Nam kém chất lượng,
công nghệ chế biến lạc hậu, chủ yếu là sơ
chế, chế biến thô, do đó các sản phẩm đầu
ra chưa có đủ năng lực cạnh tranh với các
quốc gia khác. Nghiên cứu trường hợp sản
phẩm cà phê, Bùi Quang Tuấn và Lê Văn
Hùng (2015) cho thấy, tỷ lệ cà phê chế biến
sau thu hoạch rất thấp (chỉ chiếm khoảng
5%), còn lại chủ yếu xuất khẩu thô. Các sản
phẩm cà phê chế biến xuất khẩu vào các thị
trường khu vực chiếm tỷ lệ khá nhỏ, chưa
thâm nhập được vào các thị trường các
nước phát triển.
Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2019
8
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |