Biến cố Phật giáo, 1963 Bách khoa toàn thư mở Wikipedia



tải về 228.7 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích228.7 Kb.
#13257
  1   2   3

Biến cố Phật giáo, 1963

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

http://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BA%BFn_c%E1%BB%91_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o,_1963

---------------------

Biến cố Phật giáo, 1963 là cuộc khủng hoảng liên quan đến Phật giáo tại miền Nam Việt Nam vào năm 1963. Biến cố này là khủng hoảng chính trị trầm trọng có nguyên nhân tôn giáo dẫn đến cuộc đảo chính lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Đây là một biến cố gây xúc động lớn tại Việt Nam và trên quốc tế và có ảnh hưởng to lớn trong cuộc Chiến tranh Việt Nam cũng như trong lịch sử tôn giáo và lịch sử chính trị Việt Nam.

Biến cố Phật giáo năm 1963 kéo dài nửa năm lan rộng khắp miền Nam Việt Nam. Cuộc khủng hoảng này đã làm chính phủ Ngô Đình Diệm mất hết uy tín trong và ngoài nước. Điểm qua các sự kiện, có thể thấy chính phủ Ngô Đình Diệm đã có những cố gắng xoa dịu sự bất mãn, giải quyết những nguyện vọng của Phật giáo nhưng vẫn không thể ổn định nổi tình hình trước quyết tâm đấu tranh cao độ của các lãnh đạo Phật giáo. Phật giáo không hề tin tưởng vào thiện chí của chính quyền. Mỗi hành động của chính quyền đều bị lãnh đạo Phật giáo xem là một âm mưu chống lại tôn giáo của họ. Chính vì thế hai bên không tìm được tiếng nói chung để giải quyết cuộc khủng hoảng.

Cuối cùng Chính phủ Ngô Đình Diệm đã chọn giải pháp vũ lực bằng cách đem binh sĩ tấn công phong toả các chùa chiền bắt các nhà sư và những người có liên quan đến phong trào đấu tranh của Phật giáo. Các hành động này không chấm dứt được khủng hoảng mà dẫn đến sự phân hóa trong bộ máy chính quyền và cuộc đấu tranh của học sinh - sinh viên phản đối chế độ. Chính quyền Ngô Đình Diệm không còn được chấp nhận trong con mắt của nhiều tầng lớp xã hội miền Nam Việt Nam, đánh mất sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Đứng trước tình hình đó một số tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, với sự ngầm đồng tình của chính phủ Hoa Kỳ, đã làm đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hoà ở miền Nam Việt Nam.

Mục lục

  • 1 Dụ số 10

  • 2 Sự kiện Phật Đản 1963

    • 2.1 Xung đột giữa chính quyền và Phật giáo từ Công điện số 5159

    • 2.2 Lễ Phật Đản ngày 8/5/1963

    • 2.3 Biến cố ở đài phát thanh Huế

    • 2.4 Phản ứng của dân chúng và Chính phủ với biến cố ở đài phát thanh

  • 3 Cuộc đấu tranh của Phật giáo sau Lễ Phật Đản

    • 3.1 Tuyên ngôn ngày 10/5/1963

    • 3.2 Lễ cầu siêu và rước linh vị các nạn nhân tại Huế

    • 3.3 Phụ đính của Tuyên ngôn ngày 10/5/1963

    • 3.4 Phật giáo thành lập Ủy ban Liên phái

    • 3.5 Phật giáo biểu tình và tuyệt thực

  • 4 Các biện pháp đối phó của chính quyền

    • 4.1 Đối phó Phật giáo biểu tình, tuyệt thực

    • 4.2 Thành lập Ủy ban Liên bộ

  • 5 Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu

  • 6 Thông cáo chung

  • 7 Những hành động của chính quyền

  • 8 Phật giáo đấu tranh đòi thực hiện Thông cáo chung

  • 9 Dư luận quốc tế

  • 10 Tổng thống Ngô Đình Diệm kêu gọi hòa giải

  • 11 Phật giáo không chấp nhận hòa giải

    • 11.1 Ủy ban Liên phái Phật giáo kêu gọi đẩy mạnh đấu tranh

    • 11.2 Tăng ni, Phật tử tự thiêu và tự chặt tay

  • 12 Quần chúng hưởng ứng cuộc đấu tranh của Phật giáo

  • 13 Chính quyền trấn áp Phật giáo

  • 14 Chính quyền bị phân hoá

  • 15 Sinh viên học sinh biểu tình, bãi khoá và Tăng ni tự thiêu

  • 16 Hậu quả

  • 17 Cuộc điều tra của Liên Hiệp Quốc

  • 18 Xét xử

  • 19 Xem thêm

  • 20 Chú thích

  • 21 Tham khảo

Dụ số 10

Trước khi xảy ra sự kiện Phật đản, tại Việt Nam đã có quan niệm cho rằng các chính quyền bảo hộ Pháp, Quốc gia Việt Nam có chính sách thiên vị tôn giáo sau này được Việt Nam Cộng hoà kế tục. Điều này góp phần đẩy mâu thuẫn tôn giáo vốn có lên cao. Sự kiện Phật Đản năm 1963 chỉ là sự bùng nổ của các mâu thuẫn vì lý do tôn giáo tích tụ trong lòng xã hội, và đặc biệt bị đẩy lên mức độ cực đoan trong thời kỳ của chính phủ Ngô Đình Diệm, từ 1954 đến 1963.

Năm 1950 Quốc trưởng Bảo Đại ban hành đạo dụ số 10 điều chỉnh các tổ chức hội đoàn. Điều 1 định nghĩa Hội: "Hội là Hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu.". Như vậy tôn giáo được xem là một loại hiệp hội. Đạo dụ này đặt ra những hạn chế đối với các hiệp hội như sau:


  • Tổng trưởng Bộ Nội vụ, nếu hội hoạt động trong toàn quốc hoặc ngoài địa hạt một phần Việt Nam; hay Thủ Hiến, nếu hội chỉ hoạt động trong địa hạt một phần Việt Nam, có quyền bác khước không cho phép lập hội mà không cần phải nói lý do. Phép cho rồi có thể bãi đi vì trái điều lệ hay vì lẽ trị an. (Điều 7)

  • Không hội nào có quyền nhận tiền trợ cấp của Chính phủ, của các quỹ địa phương, quỹ hàng tỉnh và quỹ hàng xã, trừ những hội khoa học, mỹ nghệ, tiêu khiển, từ thiện, thanh niên và thể thao (Điều 14)

  • Các hội chỉ có quyền chiếm hữu, tạo mãi, quản trị, đứng làm sở hữu chủ những bất động sản thật cần thiết để đạt mục đích của hội (Điều 14)

  • Những người có liên quan và Công Tố viên có quyền xin toàn án hủy bỏ những việc tạo mãi bất động sản trái với điều này. Bất động sản ấy sẽ đem bán đấu giá và được bao nhiêu tiền sẽ sung vào quỹ hội (Điều 14)

Đặc biệt trong đạo dụ này có điều khoản 44 có quy định "Chế độ đặc biệt dành cho các Hội Truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô, các Hoa Kiều Lý Sự Hội, sẽ được ấn định sau."[1], đặt các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô, các Hoa Kiều Lý Sự Hội ra ngoài sự điều chỉnh của đạo dụ này.

Điều 44 của Dụ số 10 được nhiều người hiểu là một chính sách thiên vị về tôn giáo của nhà cầm quyền Quốc gia Việt Nam. Nhưng theo điều trần của Thiếu tướng Trần Tử Oai với phái đoàn Liên Hiệp Quốc điều tra tình hình tôn giáo tại Việt Nam thì "Trong thực tế, từ khi ban hành Dụ số 10, chính phủ chỉ áp dụng những điều khoản trong văn kiện ấy đối với những hội tôn giáo mà những hội tôn giáo có một tánh cách xã hội, như những hoạt động của “Phật giáo xã hội” chẳng hạn. Chính phủ chưa bao giờ dùng Dụ ấy để nhằm mục đích kỳ thị tôn giáo nào hết" và "Trong Điều 44 của Dụ ấy có nói đến một chế độ đặc biệt sẽ được quy định sau cho những phái đoàn truyền giáo Công giáo và Tin Lành cũng như cho những Lý-sự-hội Trung Hoa (nghĩa là những hội có tính cách tôn giáo hay không của ngoại quốc hay quốc tế). Có quy chế riêng cho các Hội truyền giáo Thiên Chúa giáo và Hoa Kiều Lý sự hội không có nghĩa là họ được hưởng đặc quyền. Trái lại lại có mục đích giới hạn sự thủ đắc những bất động sản của ngoại kiều và bảo tồn độc lập cho xứ sở."[2] Ngô Đình Diệm sau khi trở thành Tổng thống vẫn giữ nguyên đạo dụ số 10. Điều này được nhiều người coi là duy trì tình trạng thiên vị về tôn giáo.



Sự kiện Phật Đản 1963

Xung đột giữa chính quyền và Phật giáo từ Công điện số 5159

Chính phủ Ngô Đình Diệm quy định cờ tôn giáo không được treo ngoài khuôn viên cơ sở tôn giáo (nhà thờ, chùa, thánh thất ...) nhưng tất cả các tôn giáo đều không tuân thủ nghiêm túc quy định này. Trước khi xảy ra sự kiện Phật đản, chính phủ cũng không hề lưu tâm tới vấn đề các tôn giáo vi phạm quy định treo cờ.[3]

Ngày 6/5/1963 (trước lễ Phật Đản 2 ngày), Phủ Tổng thống gởi Công điện số 5159 cho các tỉnh yêu cầu các địa phương bắt buộc các tôn giáo thực hiện nghiêm túc quy định của chính phủ về việc treo cờ tôn giáo. Vì đây là thời điểm trước Phật Đản nên Tỉnh trưởng Thừa Thiên không dám thực hiện Công điện của Phủ Tổng thống mà đến xin ý kiến Cố vấn Ngô Đình Cẩn. Ngô Đình Cẩn không kỳ thị Phật giáo, có mối quan hệ thân mật với Thượng toạ Thích Trí Quang nên vừa lệnh cho Tỉnh trưởng chuyển thông điệp đến Thích Trí Quang yêu cầu ban Tổ chức lễ Phật Đản chỉ cần thông báo cho toàn thể tín đồ Phật giáo đừng treo cờ Phật giáo trong ngày lễ, Phật tử nào đã treo cờ rồi thì cứ để cho treo hết lễ, đồng thời yêu cầu Tỉnh trưởng đánh điện về Phủ Tổng thống xin chỉ thị. Nhưng khi nhận tin báo từ Tỉnh trưởng, Thượng tọa Thích Trí Quang trả lời không tán thành lời yêu cầu đó[4]

Buổi tối, Thượng tọa Thích Trí Quang nhận được Công điện 5159 của Phủ Tổng thống về việc cấm treo cờ tôn giáo. Lãnh đạo Tổng hội Phật giáo Việt Nam ở Miền Trung họp khẩn tại chùa Từ Đàm từ 21 giờ ngày 6/5/1963 đến 02 giờ sáng ngày 7/5/1963. Sau đó, Thượng tọa Thích Trí Quang soạn ba văn bản phản đối Công điện 5159 của Phủ Tổng thống để gửi cho Hội Phật giáo Thế giới, Chính quyền Ngô Đình Diệm, và Tổng hội Phật giáo Việt Nam ở Sài Gòn. Ngay hôm sau, chính quyền Tỉnh yêu cầu Phật giáo ở Huế không gửi ba văn bản trên và mời Thích Trí Quang đến họp tại tư dinh Cố vấn Ngô Đình Cẩn. Trưa hôm đó (7/5), tại Huế, chính quyền cho cảnh sát đến từng nhà buộc dân chúng phải hạ cờ Phật giáo. Điều này gây bất bình cho các chức sắc và tín đồ Phật giáo.[4]

Lãnh đạo Phật giáo Miền Trung và tỉnh Thừa Thiên (Hòa thượng Tịnh Khiết, cùng các Thượng tọa Thích Trí Quang, Mật Nguyện, Thiện Minh, Thiện Siêu, Mật Hiển, Thanh Trí) cùng nhiều tăng ni và khoảng 500 Phật tử đến Tòa Hành chính Tỉnh để phản đối hành động của chính quyền. Tỉnh trưởng giải thích với phái đoàn là cảnh sát đã làm sai lệnh cấp trên và đồng ý cho Phật tử được treo cờ Phật giáo. rồi cho xe phóng thanh đi thông báo trong thành phố Huế chính quyền cho phép treo cờ Phật giáo trước 21 giờ theo đúng yêu cầu của Phật giáo.[4]

Lễ Phật Đản ngày 8/5/1963

Tuy nhiên, Lãnh đạo Tổng hội Phật giáo Miền Trung vẫn quyết định tiếp tục đấu tranh với chính quyền Ngô Đình Diệm vào ngày Phật Đản 8/5. Sách lược Đấu tranh với chính quyền bao gồm[4] :



  • Bất bạo động.

  • Phản đối chính sách bất công về tôn giáo.

  • Không chống chính phủ.

  • Không chống đạo Thiên Chúa.

  • Tự do tín ngưỡng Phật giáo.

  • Bình đẳng tôn giáo.

Sáng ngày 8/5/1963 (ngày Phật Đản), lúc 06 giờ 30, Phật giáo biểu tình và rước Phật từ chùa Diệu Đế đến chùa Từ Đàm một cách trật tự. Cảnh sát có mặt nhưng không ngăn cản hay đàn áp.[4] Lễ Phật Đản diễn ra tại chùa Từ Đàm căng thẳng với bài diễn văn gay gắt của Thượng tọa Thích Trí Quang, một trong các nhân vật có ảnh hưởng của Phật giáo miền Nam Việt Nam, người bị CIA mô tả là một kẻ mị dân, cực kì chống Công giáo, một người theo chủ nghĩa quốc gia cuồng tín, và một kẻ vĩ cuồng với mục tiêu tối hậu là thành lập ở Miền Nam một chế độ thần quyền Phật giáo[5]. Diễn văn của Thượng tọa Thích Trí Quang lên án chế độ phân biệt đối xử đối với tôn giáo, kỳ thị Phật giáo trong chín năm qua và đề cập chuyện cấm treo cờ Phật giáo trong khi chỉ hai ngày trước cho treo công khai cờ Vatican. Bài diễn văn đã khích động lòng bất mãn của Phật tử lên cao. Tiếp theo sau là phần nghi lễ diễn ra bình thường.

Biến cố ở đài phát thanh Huế

Buổi tối ngày 8/5/1963 đám đông Phật tử tụ tập trước đài phát thanh Huế chờ nghe bài diễn văn của Thượng tọa Thích Trí Quang đã được thu âm. Đài phát thanh từ chối phát bài diễn văn. Lúc 21 giờ số người tụ tập tại đài phát thanh Huế lên đến khoảng 6000 người[6]. Sau đó, Thượng tọa Trí Quang, Mật Nguyện, Mật Hiển và Đức Tâm đến đài phát thanh để hỏi lý do không phát thanh bài diễn văn. Tỉnh trưởng Thừa Thiên đến đài phát thanh để đối thoại với các chức sắc Phật giáo. Binh lính và xe bọc thép cũng được điều đến Đài phát thanh.

Trong khi lãnh đạo Phật giáo và tỉnh trưởng đang thảo luận, chính quyền dùng vòi rồng giải tán đám đông. Trong khuôn viên đài phát thanh xảy ra hai vụ nổ làm tình hình xấu đi bất ngờ. Các xe bọc thép và binh lính bắt đầu nổ súng.[6]

Trật tự vãn hồi lúc 24h. Có 8 người chết (trong đó có 7 trẻ vị thành niên từ 12 đến 17 tuổi)[cần dẫn nguồn] cùng nhiều người khác bị thương nằm ở ngoài phòng Chương trình và trong khuôn viên đài phát thanh. Xe cứu thương đến chở người chết và bị thương đi bệnh viện. Chính quyền đến trước đài phát thanh loan báo : "Chính quyền được tin đêm nay Việt Cộng sẽ xâm nhập phá hoại một vài cơ quan công quyền trong thành phố, chính quyền đã ban hành lệnh giới nghiêm, vậy yêu cầu đồng bào giải tán"[4].





Đài kỉ niệm thánh tử đạo, sự kiện ngày 8 tháng 5 năm 1963 tại Huế. Phía sau, trước đây, là Đài phát thanh Huế



Phản ứng của dân chúng và Chính phủ với biến cố ở đài phát thanh

Sau biến cố tại Đài phát thanh Huế, ngày 9/5/1963, Toà Hành chính Tỉnh Thừa Thiên ra Thông cáo "Trong lúc Đại diện Chính quyền và vị Thượng Tọa Hội trưởng Hội Phật Giáo Trung Phần đang thảo luận để tìm cách thỏa mãn lời yêu cầu của tín đồ Phật Giáo thì đối phương đã len lỏi trong đám đông xâm nhập Đài Phát Thanh, đập phá các cửa, ném đá và chất nổ vào Đài Phát thanh làm sập trần, vỡ nhiều cửa kính gây thiệt mạng cho 7 đồng bào và gây thương tích cho 1 đồng bào với 5 binh sĩ có nhiệm vụ giữ trật tự tại Đài Phát Thanh.".[7] Nhưng phía Phật giáo lại tin rằng chính quân đội chính phủ đã làm thiệt mạng 8 người có mặt tại đài phát thanh Huế đêm 8/5/1963.[8] Bác sĩ Erich Wulff chứng kiến sự việc tại đài phát thanh Huế và sau đó đến nhà xác quan sát các thi thể khẳng định có 5 trong 8 nạn nhân bị xe bọc thép bắn mất đầu.[4] Thủ phạm gây ra cái chết của 8 người vẫn chưa được làm rõ nhưng đã gây căm phẫn cực độ trong giới Phật tử và các tầng lớp xã hội khác.

Tại Sài Gòn, ngày 9/5/1963, Giám đốc Cảnh sát (Nguyễn Văn Thành) và Giám đốc Cảnh sát Đặc biệt (Dương Văn Hiếu) đến chùa Ấn Quang gặp lãnh đạo Phật giáo Nam Bộ nhờ trấn an dư luận.

Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và Bộ trưởng Công dân vụ Ngô Trọng Hiếu gặp Thượng tọa Thích Tâm Châu xin hoãn lễ Cầu siêu nạn nhân ở Đài Phát thanh Huế dự định tổ chức vào ngày 12/5/1963.[4]

Sáng ngày 9/5/1963, tín đồ Phật giáo ở Huế biểu tình tố cáo chính quyền tàn sát tín đồ. Thượng tọa Thích Trí Quang và Tỉnh trưởng Thừa Thiên dùng xe phóng thanh kêu gọi Phật tử giải tán.[4]

Cuộc đấu tranh của Phật giáo sau Lễ Phật Đản

Tuyên ngôn ngày 10/5/1963

Chiều ngày 9/5/1963, văn phòng Tổng Trị Sự Giáo Hội Tăng Già Việt Nam nhận được báo cáo về việc xảy ra tại đài phát thanh Huế đêm 8/5/1963, do Phật giáo Trung phần chuyển tới. Tổng trị sự giáo hội trung ương liền triệu tập cuộc họp khẩn vào lúc 19 giờ cùng ngày và ra quyết định gửi kháng thư cho tổng thống Ngô Đình Diệm phản đối việc cấm treo cờ Phật giáo và đàn áp Phật giáo đêm 8/5/1963; tổ chức lễ cầu siêu cho các nạn nhân tại đài phát thanh Huế rồi rước bài vị từ chùa Ấn Quang tới chùa Xá Lợi vào ngày 21/5/1963.[7]

Ngày 10/5/1963, các vị lãnh đạo Phật giáo họp tại chùa Từ Đàm, hoạch định đường lối và phương pháp tranh đấu bảo vệ Phật giáo và đòi hỏi công bằng xã hội. Một bản Tuyên Ngôn được soạn thảo, nêu ra năm nguyện vọng của Phật giáo. Bản Tuyên Ngôn này được gửi tới tổng thống Ngô Đình Diệm qua trung gian đại biểu chính phủ Trung Nguyên Trung Phần. Năm nguyện vọng bao gồm:[7][8]


  1. Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn công điện cấm treo cờ tôn giáo nơi công cộng.

  2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các hội truyền giáo Thiên Chúa Giáo đã được ghi trong Đạo dụ số 10.

  3. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ và khủng bố tín đồ Phật giáo.

  4. Yêu cầu cho tăng ni phật tử được tự do truyền đạo và hành đạo.

  5. Yêu cầu chính phủ bồi thường thích đáng cho những người chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải bị xét xử.

Bản Tuyên Ngôn có chữ ký của thiền sư Tịnh Khiết, hội chủ của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, thiền sư Mật Nguyện, đại diện Giáo Hội Tăng Già Trung Phần, thiền sư Trí Quang, đại diện hội Phật Giáo Thừa Thiên và thiền sư Thiện Siêu, đại diện Tỉnh Hội Phật Giáo Thừa Thiên.[7][8]

Cũng trong ngày 15/5/1963, phái đoàn Tổng Hội Phật giáo Việt Nam phối hợp với đại diện các tổ chức Phật giáo khác gặp tổng thống Ngô Đình Diệm để trao bản Tuyên Ngôn ngày 10/5/1963, đồng thời giải thích năm nguyện vọng của Phật giáo. Sau 3 giờ thảo luận Tổng thống chỉ hứa hẹn mơ hồ và quy trách nhiệm gây ra biến cố đài phát thanh Huế cho những người cộng sản.[4][8]

Ngày 16/5/1963, Phật giáo mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi, công bố bản Tuyên Ngôn 10/5/1963 đồng thời tố cáo trước dư luận những vụ đàn áp, giam cầm và giết chóc mà phật tử phải chịu đựng, vạch trần chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm trong giai đoạn 1954-1963.[4][8]

Lễ cầu siêu và rước linh vị các nạn nhân tại Huế

Ngày 17/5/1963, Phật giáo cho trưng bày hình ảnh biến cố đài phát thanh Huế trong đêm Phật Đản tại chùa Ấn Quang (Sài Gòn).[4]

Ngày 20/5/1963, Phật giáo gửi chính quyền một tài liệu 45 trang trong đó liệt kê những vụ đàn áp, bắt bớ và thủ tiêu.[4][8]

Ngày 21/5/1963, khắp nơi trên toàn quốc tổ chức cầu siêu cho các nạn nhân tại Huế. Tại Sài Gòn, khoảng 1000 tăng ni tập trung tại chùa Ấn Quang để hành lễ sau đó diễu hành rước linh vị các nạn nhân về chùa Xá Lợi. Cùng lúc đó, một đoàn gồm 350 tăng ni diễu hành từ chùa Xá Lợi về trụ sở Quốc Hội. Những cuộc diễu hành này diễn ra tốt đẹp.[4][8]



Phụ đính của Tuyên ngôn ngày 10/5/1963

Ngày 23/5/1963, tại chùa Từ Đàm, một Bản Phụ đính của Tuyên ngôn 10/5/1963 được công bố, giải thích rõ ràng năm nguyện vọng nói trên. Nội dung bản Phụ đính này gồm:[7][8]



  1. Phật Giáo Việt Nam không chủ trương lật đổ chính phủ để đưa người của mình lên thay thế mà chỉ nhằm đến sự thay đổi chính sách của chính phủ.

  2. Phật Giáo Việt Nam không có kẻ thù, không xem ai là kẻ thù. Đối tượng của cuộc tranh đấu tuyệt đối không phải là Thiên Chúa Giáo mà là chính sách bất công tôn giáo.

  3. Cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ cho bình đẳng tôn giáo được đặt trong khuôn khổ của lý tưởng công bằng xã hội.

  4. Cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ được thực hiện theo đường lối bất bạo động.

  5. Phật Giáo Việt Nam không chấp nhận sự lợi dụng của bất cứ ai vào cuộc tranh đấu cho bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội.

Bản Phụ đính cũng đề nghị chính quyền rút tất cả các tôn giáo ra khỏi phạm vi ràng buộc của Đạo dụ số 10, và ban hành một chế độ đặc biệt cho tất cả các tôn giáo, trong đó có Phật giáo và Gia Tô giáo.[7][8]

Ngày 25/5/1963, Phụ trương của Bản Phụ đính được công bố. Mục đích của văn kiện này là nhắc lại vai trò lập quốc và xây dựng nền văn hóa quốc gia trong quá trình lịch sử dân tộc của Phật giáo và nói rõ lập trường tranh đấu của Phật giáo cho công bằng xã hội.[4][8]



Phật giáo thành lập Ủy ban Liên phái

Ngày 25/5/1963, thiền sư Tịnh Khiết triệu tập một cuộc gặp mặt tại chùa Xá Lợi 10 giáo phái, hội đoàn thuộc Tổng Hội Phật giáo Việt Nam và đại diện các tổ chức và môn phái Phật giáo khác như Giáo Hội Nguyên Thủy, Thiền Tịnh, Đạo Tràng, Giáo Hội Theravada v.v… để thảo luận về kế hoạch tranh đấu. Một Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo được thành lập để chỉ đạo cho cuộc vận động Phật giáo do thiền sư Thích Tâm Châu làm Chủ tịch dưới quyền lãnh đạo tối cao của thiền sư Tịnh Khiết.[4][8]

Đại diện các giáo phái có mặt tại chùa Xá Lợi ngày 25/5/1963 công bố một bản Tuyên ngôn mang chữ ký của các thiền sư Thiện Hoa, trị sự trưởng Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, là thiền sư Thiện Hòa, trị sự trưởng Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam, thiền sư Bửu Chơn, tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam, thiền sư Lâm Em, tăng thống Giáo Hội Theravada, thiền sư Tâm Châu, phó hội chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, cư sĩ Nguyễn Văn Hiếu, hội trưởng hội Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam, cư sĩ Vũ Bảo Vinh, hội trưởng Hội Việt Nam Phật Giáo (Bắc Việt, tại miền Nam), cư sĩ Sơn Thái Nguyên, đại diện phật tử Théraveda (người Việt gốc Miên) và cư sĩ Mai Thọ Truyền, hội trưởng hội Phật Học Nam Việt. Tuyên ngôn "Ủng hộ toàn diện năm nguyện vọng tối thiểu và thiêng liêng nhất của Phật giáo Việt Nam" đã ghi trong bản Tuyên ngôn ngày 10/5/1963 và "Thệ nguyện đoàn kết đến cùng trong cuộc tranh thủ bất bạo động và hợp pháp để thực hiện những nguyện vọng ấy".[4][8]

Phật giáo biểu tình và tuyệt thực

Ngày 26/5/1963, một phái đoàn Phật giáo đến Phủ Tổng Thống trình bản Phụ đính của Tuyên ngôn 10/5/1963 và thông báo tăng ni toàn miền Nam sẽ tuyệt thực trong 48 giờ từ ngày 30/5/1963 theo chỉ thị của thiền sư Tịnh Khiết để đòi chính quyền đáp ứng 5 nguyện vọng trong bản Phụ đính.[8]

Sáng ngày 30/5/1963, 352 vị tăng ni đã tổ chức biểu tình, xuất phát từ chùa Ấn Quang, diễu hành tới trụ sở Quốc hội gặp các đại biểu Quốc hội và gửi tới chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ lá thư của thiền sư Tâm Châu, Chủ tịch Ủy Ban Liên Phái, yêu cầu Quốc hội xác định lập trường đối với những nguyện vọng của Phật giáo.[8]

Trước giờ tuyệt thực, Đoàn Sinh Viên Phật Tử Huế công bố một lá thư kêu gọi sinh viên học sinh toàn quốc ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo. Tại Sài Gòn, Đoàn Sinh Viên Phật Tử lập tức hưởng ứng lời kêu gọi.

Ngày 31/5/1963 sinh viên tất cả các phân khoa Viện Đại Học Huế họp hội nghị tại chùa Từ Đàm, kiến nghị Tổng thống và Chính phủ giải quyết năm nguyện vọng của Phật giáo, thực thi chính sách tự do, dân chủ và bình đẳng, chấm dứt dùng thủ đoạn với tín đồ Phật giáo. Cư sĩ Mai Thọ Truyền, hội trưởng hội Phật Học Nam Việt gửi văn thư cho toàn thể phật tử trong hội Phật Học Nam Việt kêu gọi mọi người tham gia đấu tranh. Các đơn vị tỉnh hội bắt đầu cộng tác với Giáo Hội Tăng Già Nam Việt địa phương để tổ chức cuộc đấu tranh tại các tỉnh miền Nam.[8]

Tại Huế, ngày 1/6/1963, một cuộc biểu tình và tuyệt thực lớn được tổ chức.[8]

Tại Sài Gòn và các tỉnh nhiều cuộc biểu tình và diễu hành được tổ chức, rất đông tăng ni và quần chúng tham gia tuyệt thực. Chùa Ấn Quang và chùa Xá Lợi là hai trung tâm tuyệt thực quan trọng nhất ở Sài Gòn với khoảng 800 người.[8]

Dư luận và báo chí quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo làm tăng tinh thần đấu tranh của tăng ni, Phật tử. Ủy Ban Liên Phái cho ấn hành những bản tin và bài báo các cơ quan truyền thông quốc tế như BBC, VOA, AFP ...[8]



Các biện pháp đối phó của chính quyền

Đối phó Phật giáo biểu tình, tuyệt thực

Tại Sài Gòn, ngày 30/5/1963 các lực lượng cảnh sát và mật vụ bao vây chùa Xá Lợi tại Sài Gòn và các chùa Từ Đàm, Báo Quốc và Linh Quang tại Huế.[8]

Ngày 01/6/1963, Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng và Phó Tỉnh trưởng Nội an Đặng Sĩ bị triệu hồi về Bộ Nội vụ ở Sài Gòn đợi lệnh.[4]

Tại Huế, ngày 3/6/1963, cảnh sát và quân đội có vũ trang chặn đường không cho đoàn biểu tình đến chùa. Quần chúng ngồi xuống đường, chắp tay hướng về chùa Từ Đàm cầu nguyện thì bị cảnh sát dùng lựu đạn cay, lựu đạn khói và chó nghiệp vụ giải tán. Thiền sư Trí Thủ tới can thiệp để giải tán đoàn biểu tình. Mọi người về tới Bến Ngự thì bị một lực lượng cảnh sát khác tấn công bằng lựu đạn cay và lựu đạn khói.[8]

Ngày 4/6/1963 cảnh sát phong toả các chùa Từ Đàm, Báo Quốc và Linh Quang. Quần chúng kéo lên chùa nhưng bị ngăn lại. Đám đông áp dụng chiến thuật ngồi xuống đường cầu nguyện. Lựu đạn cay, lựu đạn khói và chó nghiệp vụ được sử dụng để giải tán khiến 142 người bị thương, trong đó 49 người bị thương nặng.[8]

Căn cứ chính của cuộc đấu tranh như các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Giác Minh, Từ Quang, Báo Quốc, Từ Đàm và Linh Quang hoàn toàn bị cô lập và bị cắt điện nước. Tại các tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Ba Xuyên, những đoàn thể Phật giáo bị ép ký những kiến nghị ủng hộ chính quyền. Cảnh sát chặn bắt và đuổi về địa phương tất cả những tăng ni từ các tỉnh lên Sài Gòn và từ Sài Gòn về các tỉnh.[8]

Các lực lượng chính phủ canh gác, xét hỏi các tăng ni và những người qua đường đồng thời chặn bắt, lục soát và tịch thu tất cả tài liệu kêu gọi đấu tranh. Các quán ăn và các tiệm cà phê ở Sài Gòn đều có mật vụ. Những người bị tình nghi là lãnh đạo cuộc đấu tranh bị theo dõi. Chính quyền còn bỏ tài liệu Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào các chùa rồi lục soát để vu cáo các thiền sư và phật tử theo Cộng Sản. Quân đội và cảnh sát được lệnh cấm trại.[8]

Tại các tỉnh, các chùa trụ sở của giáo hội Phật Giáo Việt Nam và Giáo Hội Tăng Già đều bị phong tỏa.[8]

Theo Đỗ Mậu (Giám đốc Nha an ninh quân đội), chính quyền đã có những hành động khiêu khích đánh vào lòng tự trọng của Phật giáo: cho lính cảnh sát, mật vụ cạo trọc đầu giả làm nhà sư đi ra đường trêu ghẹo phụ nữ, ăn uống tục tĩu, quỵt tiền và làm các việc bất minh để lấy cớ để phát động tuyên truyền bôi nhọ Phật giáo.[3]


Каталог: botatquangduc

tải về 228.7 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương