Di sản thời thuộc địa: Những cải cách giai đoạn I, 1975-1985
Sự kiện ngày 30/4/1975 kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài ba thập kỷ. Chính phủ tập
trung
vào hai nhiệm vụ: (1) xoá bỏ tàn dư của nền giáo dục cũ đồng thời xây dựng thống nhất hệ thống
giáo dục quốc gia và (2) xóa nạn mù chữ, đặc biệt với nhóm dân số trong độ tuổi 12-50 (Fredriksen
và Tan, 2008).
Trong giai đoạn sau 1975, tất cả các trường công lập và tư thục ở miền Nam đều được hợp nhất
để hình thành chương trình giáo dục phổ thông 12 năm. Hơn 1.000 trường tư thục hoặc trường
tôn giáo đã phải đóng cửa hoặc chuyển sang mô hình công lập. Để xây dựng một hệ thống giáo
dục hoàn chỉnh trong thời đại mới, Bộ GD&ĐT đã biên soạn và in 20 triệu bản sách giáo
khoa theo
chương trình mới để thay thế sách giáo khoa cũ ở miền Nam. Hàng ngàn cán bộ quản lý giáo dục
và giáo viên từ miền Bắc đã được cử vào hỗ trợ quá trình chuyển tiếp và nâng cao năng lực giảng
dạy của đội ngũ giáo viên miền Nam theo hệ thống giáo dục mới (Fredriksen và Tan 2008).
Sau cải cách hệ thống giáo dục quốc gia, ưu tiên thứ hai là xóa mù chữ cho thanh thiếu niên và
người trưởng thành thông qua hình thức bổ túc văn hóa. Hàng triệu người dân đã tham gia vào quá
trình dạy và học, coi đó là một biểu hiện của lòng yêu nước. Năm 1978, tức ba năm kể từ khi bắt
đầu thực hiện kế hoạch xóa nạn mù chữ, tất cả các tỉnh và thành phố miền Nam đã căn bản xoá
nạn mù chữ, trong đó 94,14% người được xác định là có thể đọc, viết tiếng Việt (Fredriksen và Tan
2008). Tuy nhiên, kết quả này không mang tính bền vững. Tỷ lệ người dân tái mù chữ rất lớn bởi
chương trình này được triển khai trên quy mô rộng trong khi người học chỉ tham gia các lớp học
ngắn hạn mà không có cơ hội thực hành thường xuyên sau khóa học để đạt trình độ thành thạo.
“Ngay cả khi tỷ lệ tham gia các lớp học xóa mù rất lớn, hầu hết người dân chỉ tham gia khóa học
trong một thời gian ngắn và không được đào tạo bài bản. Họ cũng không có cơ hội sử dụng các kỹ
năng ngôn ngữ sau khóa học. Ngoài ra, các tiêu chí đánh giá thoát nạn mù chữ cũng không rõ ràng.
Do đó, người dân không tích lũy đủ kiến thức để duy trì kỹ năng ngôn ngữ sau khi kết thúc khóa
học”, theo ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, Trưởng Ban nghiên cứu Giáo dục Thường xuyên,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (phỏng vấn qua điện thoại, ngày 11/11/2019).
Với định hướng cải cách hệ thống giáo dục phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW năm 1979, là tiền đề cho cuộc cải cách
giáo dục lần thứ ba năm 1981. Cải cách lần này thay đổi toàn diện cấu trúc ngành giáo dục, bao
gồm mục tiêu, nguyên lý và nội dung giáo dục. Mục tiêu hàng đầu của hệ thống giáo dục Việt Nam
tại thời điểm này tập trung phát triển con người toàn diện, thực hiện phổ cập giáo dục toàn dân; đào
tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn. Các nguyên lý cơ bản bao gồm nhà
trường gắn liền với xã hội, yêu cầu học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động. Nội dung
giáo dục tập trung tạo ra những lớp người lao động mới đủ sức gánh vác sự nghiệp “xây dựng chủ
nghĩa xã hội” (Fredriksen và Tan 2008).
Cấu trúc của hệ thống giáo dục cũng có những điều chỉnh lớn. Đến năm 1985, các trường ở miền
Bắc và miền Nam đều áp dụng thống nhất một hệ thống giáo dục phổ thông mới. Các trường tiểu
học và trung học cơ sở được sáp nhập thành trường phổ thông cơ sở 9 năm, đồng thời chuẩn bị
phân ban ở trung học phổ thông.
Vốn Nhân lực Việt Nam: Thành tựu Giáo dục và Thách thức trong Tương lai
21
Trong quá trình cải cách này, Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh chương trình giảng dạy và hoàn thành
thay sách giáo khoa ở các bậc học phổ thông vào năm 1996. Nhiều trường đại học chuyên ngành cũng
được thành lập trong giai đoạn 10 năm này, nhằm xây dựng lực lượng lao động có tay nghề cao cho các
lĩnh vực cụ thể (Fredriksen và Tan 2008).
Mặc dù đạt được một số thành công trước mắt trong thực hiện kế hoạch xóa nạn mù chữ và chương
trình giảng dạy thống nhất trên phạm vi cả nước, quá trình cải cách đã gặp phải một số khó khăn. Những
khó khăn này chủ yếu do Việt Nam đặt ra nhiều mục tiêu tham vọng, không mang tính thực tế cho quá
trình cải cách, bao gồm mở rộng hệ thống giáo dục dù còn nhiều hạn chế về tài chính, nhân lực
do kinh
tế suy thoái và hệ quả của chiến tranh Việt-Trung. Do đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý không đủ năng
lực cũng như cơ sở vật chất và trang thiết bị thiếu thốn, việc sáp nhập các trường tiểu học và trung học
cơ sở thành trường phổ thông cơ sở 9 năm cũng không được thực hiện thành công (Fredriksen và Tan
2008). Do đồng lương thấp, giáo viên và giảng viên phải dựa vào các nguồn sinh kế thay thế và không
thực sự tâm huyết với nghề (Cima 1989). Ngoài ra, chính phủ cũng lên kế hoạch trợ cấp học tập cho tất
cả học sinh, vốn là một mục tiêu không thực tế do ngân sách nhà nước cho ngành giáo dục còn hạn chế
(Fredriksen và Tan 2008).
Với giáo dục phổ thông và giáo dục đại học, quá trình cải cách ưu tiên đào tạo nghề và đào tạo chuyên
nghiệp để học sinh có những lựa chọn thay thế nếu không thể tiếp cận hệ thống giáo dục đại học. Năm
1980, 70% học sinh tiểu học và 85% học sinh trung học không học tiếp lên đại học vì không có nhiều kỳ
vọng rằng đầu tư bằng cấp sẽ có được việc làm, hoặc vì tỷ lệ trúng tuyển rất thấp vào các cơ sở giáo
dục đại học (chỉ tuyển 10% thí sinh). Tuy nhiên, việc thu hút học sinh đến các trường dạy nghề cũng gặp
nhiều khó khăn bởi xã hội vẫn cho rằng, chỉ có con đường giáo dục truyền thống mới mang lại cơ hội việc
làm chuyên môn và có “địa vị” (Cima 1989). Tất cả những yếu tố này khiến quy mô và chất lượng giáo
dục ở Việt Nam đều giảm trong khi tỷ lệ bỏ học không ngừng tăng lên (Phạm và Fry 2004). Rõ ràng, Việt
Nam cần thực hiện một cuộc cải cách trên quy mô lớn và toàn diện hơn để phát triển qua giai đoạn này.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: