7.4.2.5. Nhu cầu nguyên liệu, năng lượng cho phát triển ngành
Nhu cầu quặng sắt, than năng lượng, than cốc, điện năng được tính trên cơ sở các định mức tiêu hao trung bình tiên tiến của thế giới, có tính đến đặc thù của Việt Nam. Trên cơ sở mục tiêu sản xuất các sản phẩm chủ yếu như gang và sắt xốp, phôi thép, nhu cầu nguyên liệu, năng lượng theo từng thời điểm được thể hiện trong bảng 7.10.
Bảng 7.10. Nhu cầu nguyên liệu, năng lượng cho phát triển ngành thép đến năm 2035
Hạng mục
|
Nguồn
|
2020
|
2025
|
2035
|
Quặng sắt 60%Fe
(Triệu tấn)
|
Tổng
|
13,6
|
25,5
|
51,0
|
Nội địa
|
4,5
|
6,0
|
10,0
|
Nhập khẩu
|
9,0
|
19,5
|
41,0
|
Thép phế
(Triệu tấn)
|
Tổng
|
12,0
|
15,0
|
28,0
|
Nội địa
|
4,3
|
5,4
|
10,0
|
Nhập khẩu
|
7,7
|
9,6
|
18,0
|
Than cốc (Triệu tấn)
|
Tổng
|
4,0
|
7,5
|
15,0
|
Than bột/cám (Triệu tấn)
|
Nội địa
|
0,8
|
1,5
|
3,0
|
Điện năng (Tỷ kWh)
|
Nội địa
|
16,0
|
23,7
|
38,0
|
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu
Theo số liệu tính toán ở trên, nhu cầu quặng sắt tăng nhanh, đến năm 2020 cần 13,6 triệu tấn; năm 2025 cần khoảng 25,5 triệu tấn và năm 2035 cần khoảng 51 triệu tấn quặng tinh sắt. Theo Quy hoạch thăm dò, khai thác chế biến và sử dụng quặng sắt đến năm 2020 có xét đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2185/QĐ-TTg ngày 5 tháng 12 năm 2014 thì đến năm 2020 sẽ khai thác thêm hoặc nâng công suất của 7 mỏ thuộc địa bàn 4 tỉnh để đáp ứng đủ nhu cầu về quặng sắt cho các hộ tiêu thụ, trong đó: Hà Giang 1 mỏ, Hà Tĩnh 1 mỏ, Lào Cai 1 mỏ và Yên Bái 4 mỏ. Công suất khai thác năm 2020 là 15÷16 triệu tấn/năm. Như vậy, công suất khai thác quặng sắt trong nước đến năm 2020 đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Tuy nhiên, do đặc thù vị trí địa lý nên phần lớn quặng cấp cho các liên hợp sản xuất thép lớn ở vùng ven biển phải nhập khẩu. Do đó, những vùng có nguồn nguyên liệu quặng sắt dồi dào vẫn đang được thu hút đầu tư dự án sản xuất thép đi từ quặng sắt.
Để đáp ứng nhu cầu về than cốc cho luyện gang thì phải nhập khẩu gần như 100% vì nguồn than mỡ cho luyện cốc trong nước có trữ lượng không đáng kể.
Nhu cầu nhập khẩu thép phế cũng rất lớn từ 2÷3,5 triệu tấn/năm tuỳ giai đoạn phát triển ngành (như đã đề cập trong kịch bản phát triển).
Nhu cầu điện cho ngành thép khá lớn và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu tiêu thụ điện của cả nước. Nếu như năm 2015, ngành thép tiêu thụ 5,26% tổng lượng điện cả nước (số liệu của TCTK) thì giai đoạn từ năm 2020÷2035 tăng lên 6,3÷6,5% tổng lượng điện cả nước. Nếu kế hoạch phát triển nguồn điện đạt được như tổng sơ đồ 7 thì nguồn điện cấp cho ngành thép sẽ được bảo đảm.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |