Võ Nguyên Giáp Điện Biên Phủ Điểm hẹn lịch sử Chương 1



tải về 1.39 Mb.
trang5/15
Chuyển đổi dữ liệu22.04.2018
Kích1.39 Mb.
#37008
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15

Võ Nguyên Giáp

Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử



Chương 5

MƯỜNG PHĂNG


Ngày 31 tháng 1 năm 1954, sở chỉ huy chiến dịch chuyển từ Nà Tấu vào Mường Phăng, rặng núi cao nằm ở phía đông cánh đồng Mường Thanh. Sở chỉ huy đóng tại Mường Phăng cho tới kết thúc chiến dịch. Những cuộc họp có tính quyết định trong quá trình tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đều diễn ra ở đây. Mặc dù mọi người còn những băn khoăn, suy nghĩ khác nhau, nhưng mệnh lệnh lui quân đã được triệt để chấp hành, biểu thị một niềm tin, một tinh thần kỷ luật tuyệt vời. Công việc kéo pháo vào đã vất vả, nhưng đưa pháo ra còn gian nan hơn.


Cuộc tiến công chiều ngày 25 tháng 1 năm 1954 không diễn ra khiến địch chăm chú theo dõi và có lẽ đã phát hiện ta đang chuyển pháo khỏi trận địa. Chúng không bỏ lỡ thời cơ loại trừ một hiểm họa luôn luôn ám ảnh từ khi chấp nhận trận đánh ở Điện Biên Phủ. Máy bay trinh sát săm soi tìm mục tiêu cho những chiếc khu trục lao xuống trút bom phá, bom napan. Đại bác địch bắn phá ngày đêm những nơi chúng nghi ngờ. Những đỉnh đèo, khu rừng nham nhở hố bom, hố đại bác, cây cối đổ gãy, xơ xác như vừa trải qua một cơn lốc xoáy.
Các chiến sĩ xông vào giữa đám cháy chiến đấu với lửa không để lan tới nơi đặt pháo. Ở những đoạn đường trống, việc chuyển pháo phải tiến hành ban đêm. Bất thần xuất hiện những ánh chớp giật, tiếp theo là tiếng nổ ầm ầm, mảnh đạn cháy bỏng chém gãy những cành cây cắm vào vách núi. Chính trị viên hô to: "Các đồng chí! Quyết không rời pháo !" Các chiến sĩ gan dạ bám chặt dây kéo, chân như đóng xuống đất, nghiến răng ghìm pháo. Bài "Quốc tế ca" trầm hùng vang lên như tiếp thêm một sức mạnh nhiệm máu giúp họ vượt qua giờ phút hiểm nghèo.
Lại thêm một lần dây kéo pháo đứt, một khẩu pháo cao xạ có nguy cơ lo xuống vực sâu. Khẩu đội trưởng TÔ Vĩnh Diện không ngần ngại, ôm chèn lao vào bánh xe mong chặn khẩu pháo cao xạ nặng hai tấn rưỡi lại. Đây không phải lần đầu có người làm việc này. Chiến sĩ pháo thủ Nguyễn Văn Chức ở lựu pháo đã từng làm như vậy khi kéo pháo vào. Các anh cùng đồng đội cứu được khẩu pháo khỏi lao xuống vực, nhưng đã trở thành liệt sĩ.
Đại đoàn 312, trung đoàn 57 cùng với các chiến sĩ pháo binh được lệnh cố gắng bằng mọi giá đưa pháo trở về vị trí xuất phát an toàn. Chúng ta sẽ không quên bài "Hò kéo pháo" củá Hoàng Vân ở 312 ra đời trong dịp này: .
Hò dô ta. . . nà̀o !
Kéo pháo ta vượt qua đèo
Hò dô ta. . . nào !
Kéo pháo ta vượt qua núi
Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi
Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù...
Đúng lúc bộ đội ở Điện Biên Phủ bật đầu kéo pháo ra, tiếng súng chiến dịch bật đầu nổ ở Bậc Tây Nguyên.
Tây Nguyên nằm ở Nam Trung Bộ nối liền hai miền đất nước, tiếp giáp với Hạ Lào và Bắc Campuchia, có vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất trên chiến trường Đông Dương. Nếu còn tham vọng chiếm Đông Dương, địch không thể để mất địa bàn chiến lược cực kỳ lợi hại này. Từ lâu, Tây Nguyên vẫn được quân Pháp coi là một hậu phương an toàn.
Chúng ta đã nhận định chừng nào Tây Nguyên còn bị địch khống chế thì cục diện chiến đấu ở Nam Đông Dương còn khó được cải thiện. Và nếu Liên khu 5 không mở rộng vùng tự do về phía tây thì cũng khó giữ vững được các tỉnh ở đồng bằng hiện nay. Đảng ta đã trao nhiệm vụ quân sự cho Liên khu 5 trong Đông Xuân này là "tranh thủ thời gian, tích cực tăng cường lực lượng võ trang của liên khu về số lượng và chất lượng, phát triển mạnh về hướng Tây Nguyên và Hạ Lào, chủ yếu hiện nay là hướng Bắc Tây Nguyên để tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa (kể cả vùng tự do hiện nay) về phía táy, củng cố vùng hành lang Bắc Tây Nguyên nối Liên khu 5 và Hạ Lào và phát triển rộng ra, phá âm mưu của địch củng cố Tây Nguyên và chiếm rộng ra vùng ven biển".
Nghiêm chỉnh chấp hành kế hoạch Đông Xuân, Liên khu ủy 5 đã quyết định trao nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do cho lực lượng địa phương, tập trung bộ đội chủ lực tiến công lên Tây Nguyên. Nhiệm vụ của vùng tự do liên khu được quy định: địch đánh đến địa phương nào thì nơi đó tự tìm mọi cách đối phó, tiêu hao, tiêu diệt địch, kìm chân không cho chúng nhanh chóng mở rộng phạm vi kiểm soát, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do địch gây ra. Địa phương nào địch chưa đánh tới, phải tích cực động viên, tổ chức nhân dân phục vụ tiền tuyến. Nhiệm vụ của bộ đội chủ lực liên khu gồm hai trung đoàn 108, 803 và hai tiểu đoàn chủ lực độc lập là phối hợp với các lực lượng địa phương mở chiến dịch bắc Công Tum. Cuộc tiến công địch ở Tây Nguyên dự kiến sẽ tiến hành theo hai bước. Bước một, trên hướng chủ yếu, sử dụng trung đoàn 108 và liên đội đặc công diệt hai cứ điểm Măng Đen, Măng Bút, kéo quân tiếp viện của địch từ Công Tum ra cho trung đoàn 803 đánh viện trên đường Công Trây - Măng Đen; tiếp đó tiêu diệt Công Trây, uy hiếp thị xã Công Tum, đánh quân cứu viện trên đường Công Tum - Công Trây. Bước hai, tiến công tiêu diệt hoàn toàn hệ thống cứ điểm của định từ Đắc TÔ đến Đắc Lây, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Bậc Công Tum. Trên hướng thứ yếu của chiến dịch, đường 19 - An Khê, trung đoàn địa phương 120 cùng một tiểu đoàn chủ lực tiêu diệt các cự điểm KÀ Tưng, Ba Bả - KÀ Tu cắt đường giao thông, tiêu diệt sinh lực địch, thu hút giam chân một bộ phận lực lượng của chúng.
Bộ chỉ huy chiến dịch được thành lập do đồng chí Nguyễn Chánh, bí thư liên khu ủy trực tiếp làm bí thư đảng ủy, tư lệnh kiêm chính ủy chiến dịch. Trước đó, bộ đội Liên khu 5 đã được tăng cường vũ khí, đặc biệt là SKZ (súng không giật) để làm nhiệm vụ công đồn. Những con đường 19, 21, 7, 11 tử đồng bằng Liên khu 5 lên Tây Nguyên đều bị địch kiểm soát chặt chẽ.
Bộ tư lệnh Liên khu quyết định tổ chức một tuyến đường hành lang bí mật từ đồng bằng lên Tây Nguyên để bảo đảm tình huống bất ngơ. Các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đều lập kho dự trữ gạo, muối cho chiến dịch. Riêng trong đợt l, liên khu đã huy động 100.000 dân công làm công tác hậu cần.
Đêm ngày 26 háng 1 năm 1954, trên hướng thứ yếu của chiến dịch, bộ đội ta tiêu diệt các vị trí KÀ Tung, Ba Bả - Ka TÚ, Búp Bê. Đêm hôm sau, 27 tháng 1, trên hướng chủ yếu của chiến dịch, trung đoàn 108 và tiểu đoàn đặc công tiến công ba vị trí: Măng Đen, Măng Bút, Công Trây trong hệ thống phòng ngự Bâc Tây Nguyên. Cứ điểm Măng Bút bị diệt gọn trong vòng 30 phút. Tại Công Trây, tiểu đoàn 59 hành quân theo đường vòng tới chậm khi ở những nơi khác đã nổ súng, bị mất thế bất ngờ. Quân địch kéo ra ngoài đồn bố trí phụt kính bộ đội tới tiến công. Tiểu đoàn 59 kiên nhẫn chờ tới khi quân địch kéo về đồn, bất ngờ nổ súng tiêu diệt, kết thúc trận đánh lúc 6 giờ 35 phút ngày 28. Riêng trận Măng Đen diễn ra rất quyết liệt. Măng Đen là cứ điểm then chốt trong hệ thống phòng thủ Bắc Tây Nguyên, nằm trên một quả đồi hình yên ngựa, được bố trí thành hai khu A và B, ở giữa có một sân bay nhỏ. Mỗi khu có những lô cốt bê tông nối liền với nhau bằng một hệ thống giao thông hào ngầm, xung quanh co hàng rào dây thép gai rộng từ 30 đến 90 mét. 23 giờ 30 phút, bộ đội ta nổ súng. Tiểu đoàn 19 đánh khu A, bị quân địch dựa vào hầm ngầm đối phó. Cuộc chiến đấu diễn ra giằng co suốt đêm. Ở khu B, sau sáu giờ chiến đấu, tiểu đoàn 79 hoàn toàn làm chủ trận địa. Tiểu đoàn trưởng 79 đề nghị trung đoàn cho đơn vị bí mật vượt qua sân bay đánh vào phía sau lưng địch. Bị kẹp giữa gọng kìm tiến công của tiểu đoàn 19 va 79, các ổ đề kháng của địch ở khu A lan lượt bị tiêu diệt. 7 giờ ngày 28 tháng 1, trận đánh kết thúc.
Chỉ sau một đêm những cứ điểm mạnh nhất trong hệ thống phòng ngự Bắc Tây Nguyên của địch bị san phẳng. Bộ đội Liên khu 5 đã trưởng thành vượt bậc tương tác chiến công kiên. .
Đường vào Công Tum để ngỏ. Bắc Tây Nguyên đứng trước nguy cơ tan vỡ. Quân địch ở miền Trung rung động. Chiến dịch Tây Nguyên đã nổ ra cực kỳ đúng lúc.
Rạng sáng ngày 30 tháng 1, tiếng súng phối hợp trên chiến trường Hạ Lào xa xôi cũng bắt đầu. Trong kế hoạch Đông Xuân 1958-1954, ta chủ trương đưa một trung đoàn của đại đoàn 325 thọc sâu xuống Hạ Lào, tạo thêm cho địch một bất ngờ nữa về chiến dịch, đồng thời mở ra một địa bàn cho chủ lực phát triển xuống phía nam. Một khó khăn rất lớn ở hướng này là đường tiếp tế quá xa và hầu như không có dân. Từ vùng tự do Thanh Hóa, Nghệ An đến Hạ Lào, bộ đội phải vượt 1.200 kilômét đường rừng hiểm trở dọc Trường Sơn, cuộc hành quân phải kéo dài khoảng hai tháng. Trong chiến dịch nếu tiêu thụ hết số đạn mang theo, chỉ còn cách duy nhất là ướp súng đạn của địch để tiếp tục chiến đấu Sau khi bàn bạc với bạn Lào và đại đoàn, Bộ Tổng tư lệnh quyết định chỉ đưa tiểu đoàn 436 thuộc trung đoàn 101 của 325, do trung đoàn phó Lê Kích chỉ huy; xuống Hạ Lào cùng phối hợp với 1 đại đội quân tình nguyện Liên khu 5 và bộ đội, du kích Pa thét Lào tiêu diệt quân địch. Đơn vị được Bộ tăng cường quân số, hỏa lực, biên chế lên tới 760 người, gồm 5 đại đội bộ binh, 2 đại đội hỏa lực. Các tỉnh Nghệ An, Hà Ĩ nh, Quảng Trị, Thừa Thiên và Liên khu 5 sẽ lo việc tiếp tế, huy động dân công chuyển đạn, gạo tới khu vực tập kết, là một căn cử du kích của bạn ở tỉnh Atôpơ. Chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm vận động chiến đấu với đơn vị tiểu đoàn và hiểu rõ ràng những hoàn cảnh cụ thể, mũi thọc sâu của một tiểu đoàn tăng cường vào một hướng hiểm yếu của địch co sức mạnh không kém một cánh quân.
Cuối tháng Mười một, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên được cử làm đặc phái viên của Bộ Tổng tư lệnh vào Liên khu 4 trao nhiệm vụ cho đơn vì, mang theo ba lá thư của tôi gửi đảng ủy tiểu đoàn, gửi toàn bộ cán bộ và chiến sĩ, gửi Ban cán sự Đảng ở Hạ Lào. Phương châm hoạt động của đơn vị được xác định là:
- "Quân sự và chính trị song song, Tác chiến và dân vận song song, Phát triển và củng cố song song, - Chiến trường không hạn định, : - Thời gian không hạn chế, Tự lực, tụ cường, tụ túc, Chịu đựng gian khổ, .
Khác phục khó khăn, Nêu cao tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế dể hoàn thành nhiệm vụ.
Tiểu đoàn 486 bát đầu rời Nam Đàn, Nghệ An. Sau gần hai tháng hành quân dọc Trường Sơn, 436 có mặt tại căn cứ của bạn ở tỉnh Atôpơ, cực nam Lào.
Lực lượng quân địch ở đây có một tiểu đoàn tăng cường, gồm một ngàn tên. Chúng bố trí thành hai cụm phòng ngự. Cụm thứ nhất là khu vực thị xã Atôpơ và sân bay, có bốn đại đội. Cụm thứ hai là cứ điểm Pui, phía tây - nam thị xã Atôpơ 19 kilômét, có một đại đội xung kích và một trung đội pháo. Đại đội xung kích này là đơn vị thiện chiến nhất trong khu vực, được đặt ở Pui nhằm án ngữ cửa ngõ khu du kích của bạn.
Kế hoạch của ta và bạn gồm hai bước. Bước một, tập trưng toàn tiểu đoàn 436 đánh cứ điểm Pui, đại đội quân tình nguyện Liên khu 5 và bộ đội, du kích Lào bao vây khu vực thị xã. Bước hai, tiểu đoàn 436 cùng các đơn vị bạn tiến công giải phóng toàn vùng Atôpơ.
Đêm ngày 29 tháng 1 năm 1953, tiểu đoàn 436 tiến công vị trí Pui. Chỉ sau 30 phút chiến đấu, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn vị trí. Quân địch ở thị xã Atôpơ hoảng hốt, tưởng có một cánh quân lớn của ta đang tràn xuống Hạ Lào, vội vã tháo chạy vế Pac Xế. Tình hình Pằc Xế cũng trở nên hoảng loạn. Quân địch đốt cháy kho tàng, phá huy vũ khí nặng chuẩn bị rút lui. Khi tiểu đoàn 436 vận động tới Pắc Xế, thấy trong thị xã có nhiều đám cháy, lập tức cùng bộ đội bạn tiến công thẳng vào thị xã. Quân địch không dám chống cự, bỏ Pắc Xế, chạy về Xaravan .
Cuộc tiến công của ta ở Trung Lào đã khiến báo chí ở Pa ri la ó: "Đông Dương đã bị cắt làm đôi ?" . Đòn bồi tiếp chắc chắn sẽ làm cho Nava thêm đau đầu. Không loại trừ khả năng Nava sẽ đưa một lực lượng cơ động về hướng này.
Tại Thượng Lào, sau khi ném quân xuống thung lũng Mường Thanh, Nava đã lệnh cho Crevơcơ, tư lệnh lực lượng ở Lào, huy động một binh đoàn, gồm sáu tiểu đoàn bộ binh do Vôđrây (Vaudrey) chỉ huy, càn quét lưu vực sông Nậm Hu, mở một đường hành lang nối Luông Phabăng với Điện Biên Phủ. Bị một số đơn vị của trung đoàn độc lập 148 chặn đánh, địch mới tới Mường Khoa.
Việc điều một đơn vị lớn nằm trong đội hình chiến dịch sang Lào lúc này có những điều phải cân nhắc. Địa hình chiến trường chưa được chuẩn bị. Đại đoàn 308 chỉ có trung bình mỗi người hai ngày gạo dự trữ! Mặt khác, muốn đưa pháo ra nhanh chóng, an toàn, cần phải tập trung lực lượng. Nếu địch phát hiện ta ngừng tiến công rút ra khỏi trận địa, huy động tất cả quân cơ động cùng với pháo binh và không quân đánh vào đường kéo pháo trong khi 308 không có mặt, ta sẽ gặp khó khăn.
Đảng ủy chiến dịch quyết định đưa 308 sang Lào vì thấy đây là cách ứng phó tốt nhất trước hiện tình. Sự xuất hiện của "sư đoàn thép" ở Thượng Lào sẽ thu hút không quân và lực lượng cơ động địch, tạo điều kiện cho ta đưa pháo ra an toàn. Để chuyển sang "đánh chác tiến chắn", cần có một thời gian dài chuẩn bị. Đòn tiến công kịp thời nhắm vào một hướng xung yếu của địch, buộc Nava phải đối phó. 308 sẽ vừa thực hiện nhiệm vụ nghi binh chiến dịch làm sai lạc sự phán đoán của địch, vừa tiêu diệt một bộ phận sinh lực, đập tan con đường hành lang nối liền Luông Phabăng với Điện Biên Phủ, thiết thực chuẩn bị cho trận đánh sắp tới. Nếu Nava tưởng là ta đã bỏ ý định tiến công Điện Biên Phủ thì y càng mắc thêm sai lầm. Ta sẽ có kế hoạch đề phòng địch đánh ra.
Và cơ quan chỉ huy chiến dịch cũng sẽ tìm cách tạo điều kiện cho đơn vị làm nhiệm vụ. Đây là một quyết định quả cảm.
Đồng thời với việc đưa 308 sang Thượng Lào, Bộ chỉ huy chiến dịch cũng ra lệnh cho trưng đoàn 148 nhanh chóng tiến về Phông Xa Lỳ, một tỉnh ở cực bắc Lào tiếp giáp với biên giới Trung Hoa, cùng với lực lượng vũ trang Pa thét Lào tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai. Chủ trương sử dụng trưng đoàn 148 giải phóng Phông Xa Lỳ đã được đề ra từ đầu trong kế hoạch đánh địch ở Tây Bắc.
Tuy nhiên, biết khó khăn của 308 nên khi trao nhiệm vụ, tôi nói "có thể sử dụng lực lượng từ một tiểu đoàn đến cả đại đoàn". Anh Vương Thừa Vũ họp đảng ủy quyết định cho cả đại đoàn lên đường. Cán bộ và chiến sĩ 308 đã nhiều lần nghe đại đoàn trưởng nói:
"Quân lệnh như sơn". Đúng lúc đơn vị xuất phát, pháo địch cấp tập vào khc Hồng Lếch, nơi đóng sở chỉ huy đại đoàn. Ta biết vị trí đóng quân của 308 đã phần nào bị lộ.
Ngay chiều ngày 26, tôi gọi điện cho anh Nguyễn Thanh Bình tới gặp. Anh Bình là Phó chủ nhiệm Cung cấp chiến dịch, đặc trách công tác hậu cần hỏa tuyến.
Tôi phổ biến vắn tất chủ trương thay đổi cách đánh và việc đưa 308 sang Lào, hỏi tình hình tổ chức kho tàng của ta ở phía tây và phía nam, rồi nói:
- Bộ chỉ huy chiến dịch đã nói với 308 tự túc về hậu cần, nhưng ta phải tìm mọi cách để giúp đỡ đơn vị.
Đồng chí tổ chức một bộ phận đuổi theo, liên lạc với bạn và bộ đội tình nguyện vận động nhân dân, huy động lương thực tại chỗ, tận dụng những kinh nghiệm trong chiến dịch Sầm Nưa. Quyết không để cho bộ đội thiếu ăn như ở Khâu Vác. Bộ đội đã đi một ngày đường, theo kịp cũng vất vả đấy. Chúng tôi cùng ăn một bữa cơm trước khi chia tay.
Ngay buổi tối, anh Bình và mười cán bộ hậu cần lên đường; cùng đi có cả một đội dân công gánh gạo đuổi theo đơn vị. Trước đó, cơ quan tham mưu chiến dịch cũng kịp thời đưa một đại đội trinh sát của Bộ đi nắm tình hình địch ở Mương Khoa, hỗ trợ cho đại đoàn.
Chiều ngày 26 tháng 1 năm. 1954, đại đoàn 308 rời trận địa với mỗi người một túi gạo rang trên vai, đi về hướng tây nam Điện Biên Phủ, nhắm vào phòng tuyến sông Nậm Hu. Tham mưa phó đại đoàn Mai Hữu Thao được cử đi trước cùng với một phán đội quân báo và một số cán bộ hậu cần, vừa dò đường vừa chuẩn bị lương thực.
Ngày 29 tháng 1, đại đoàn a08 hành quân tới Sốp Nạo. Tại đây, đại đoàn được Bộ chỉ huy chiến dịch thông báo, theo tin kỹ thuật, địch đã phát hiện 308 tiến về hướng này, số quân đóng ở Mường Khoa và vùng lân cận bắt đầu rút chạy về hướng Mường Sài, Luông Phabăng. Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho đại đoàn lập tức truy kích.
308 quyết định chia làm hai cánh đuổi theo quân địch. Đại đoản trưởng Vương Thừa Vũ và anh Lê Quang Đạo (được Bộ chỉ huy chiến dịch cử xuống thay anh Song Hào bị mệt không đi chiến dịch) cùng các trưng đoàn 36, 88 đi theo hướng Luông Phabăng. Đại đoàn phó Cao Văn Khánh, và một sở chỉ huy nhẹ của đại đoàn, đi với trung đoàn 102 về hướng Mường Sài. Cán bộ, chiến sĩ 308 đã có kinh nghiệm ở Thượng Lào mùa xuân năm trước, biến truy kích địch đường dài thành một cuộc chạy đua nước rút, bất kể đơn vị nào, người nào có sức khỏc là vượt lên trước, thấy địch là đánh, gặp đơn vị bạn là chủ động phối hợp. Họ quyết không bỏ lỡ cơ hội.
Lúc này ta chưa biết Vôđrây đã quyết định rút thật nhanh toàn bộ binh đoàn đóng dọc phòng tuyến sông Nậm Hu về Mường Sài. Ngày 30 tháng 1, trung đoàn 102 truy kích địch ở hướng này, tới sông Nậm Hu.
Thuyền, mảng huy động được ít, chỉ đủ để chở vũ khí trợ chiến. Bộ đội chặt bươllg, dùng vải nhân gói ba lô làm phao, dìu nhau bơi qua sông theo đội hình từng tổ chiến đấu. Nửa đêm, mọi người vừa ngồi nghỉ trên dọc đường nhai mấy nhúm gạo rang lót dạ thì quân báo tử phía trước quay lại cho biết chỉ còn cách địch 10 kilômét. Tất cả đều bật dậy. Trung đoàn trưởng Hùng Sinh dẫn đầu trung đoàn đuổi theo. Rạng sáng ngày 31, bật kịp địch. Phân đội quân báo do tham mưu phó đại đoàn Mai Hữu Thao chỉ huy, nhanh chóng tìm đường vượt lên phía trước làm một "cái nút" kiên quyết nổ súng chặn địch lại. Một đại đội Pa thét Lào đang trên đường hành quân, nghe tiếng súng nổ cũng tới phối hợp.
Binh đoàn Vôđrây bị chia cắt làm đôi. Vôđrây nắm cụm quân thứ nhất gồm tiểu đoàn Tabo số 5 và ba đại đội ngụy. Thiếu tá Cabari (Cabari) và đại úy Lăm đe (Ln.mbert) nắm cụm quân thứ hai với ba đại đội thuộc tiểu đoàn lê dương số 2 và một đại đội ngụy. Chúng chiếm giữ một số điểm cao tổ chức chống cự, hy vọng sẽ có máy bay tới yểm hộ.
Tiểu đoàn 18 đi đầu trung đoàn nghe tiếng súng nổ phía trước, biết quân địch đã bị chặn lại, lập tức lao lên như một cơn lốc. Trung đoàn trưởng Hùng Sinh chia tiểu đoàn thành hai cánh đi theo hai con đường mòn cùng tiến công quân địch. Đại đội 261 phát hiện tiểu đoàn Tabo đang cụm lại trên mấy quả đồi. Biết tinh thần bạc nhược của những tên lính rút chạy, không đợi tiểu đoàn tới đủ, đại đội chia làm hai mũi dùng tiểu liên, lựu đạn và lưỡi lê nhất tề xung phong. Binh lính Tabo bỏ những công sự đang đào dở chạy vào rừng.
Cùng lúc, đại đội 259 nghe tiếng súng cũng lập tức tiến đánh tiểu đoàn lê dương số 2. Binh lính lê dương thấy lực lượng ta không đông, ra sức chống cự. Trận đảnh kéo dài. Đại bộ phận trung đoàn 102 đã tới khu vực tác chiến. Trung đoàn trưởng Hùng Sinh quyết định đưa tiểu đoàn 79, tiểu đoàn 54 phối hợp cùng tiểu đoàn 18 tiến công quân địch. Lợi dụng trời tối, bốn đại đội do Cabari và Lăm đe chỉ huy luồn qua một khc núi rậm tẩu thoát.
Những đơn vị của ta và địch đan vào nhau trên đường truy kích.
Tiểu đoàn 18 vượt lên bám riết toán quân của Vôđrây đã tẩu thoát từ trước. Chiếu ngày 31, tiểu đoàn 18 đuổi kịp toán quân của Vôđrây. Chờ lúc quân địch xuống núi, tiểu đoàn lợi dụng thế cao vừa tiêu diệt địch bằng hỏa lực vừa nhanh chóng xung phong diệt hàng trăm tên, bắt sống 54 tên. Phía sau tiểu đoàn 18, toán quân của Cabari và Lăm đe cũng đang bị hai tiểu đoàn 79, 54 đuổi gấp Quân địch thấy phía trước có tiếng súng nổ vội tạt vào rừng. Các đơn vị 79, 54 lội suối, luồn khc truy tìm quân địch suốt đêm. Mờ sáng ngày 1 tháng 2, tiểu đoàn 79 phát hiện binh lính lê dương đang tụ tập trong một khu rừng. Tiểu đoàn lập tức chia làm hai cánh, một cánh chốt chặn ở ngã ba suối chặn đường rút lui, một cánh đánh thẳng vào quân địch. Những tên lính lê dương sau một đêm mò mẫm trong rừng vừa mệt vừa đói không còn nghĩ đến chuyện chống cự, hoặc vứt súng đầu hàng, hoặc mạnh ai nấy chạy.
Trung đoàn 102 nhanh chóng tổ chức vây quét những binh lính địch tản mác trong rừng. Sau một ngày chiến đấu tiểu đoàn 2 trưng đoàn lê dương số 4 (214 REI) bị xóa sổ, tiểu đoàn Tabo bị thiệt hại nặng. Trong số tù binh ta và bạn bắt được có viên thiếu tá Cnhari và viên đại úy Lăm be. Trung đoàn 102 tiếp tục truy kích địch về tới Mường Sài. Tại đây địch đã nhanh chóng lập nên một con nhím với năm tiểu đoàn. Trên hướng Nậm Bạc, Luông Phabăng, trung đoàn 36 dẫn đầu mũi tiến quân. Trung đoàn 88 đang làm nhiệm vụ kéo pháo xuất phát chậm, phải đuổi theo. Bộ đội hành quân hết lên đèo lại xuống dốc không gặp một quãng bằng. Những rừng tre, vầu khô xác tiếp nối những rừng đại ngàn.
Trưa ngày 29 tháng 1 năm 1954, tiểu đoàn 89 đi đầu, vừa dừng chân bên một nương thuốc phiện nở đầy những bông hoa trắng, hoa tím chợt nghe tiếng súng. Đại đội đi phía sau dẫn lên hai tên phỉ. Chúng khai thuộc toán biệt kích được quân Pháp trao nhiệm vụ quấy rối bộ đội trên đường tiến quân. Chúng bị bắt khi đang nổ sửng nhắm vào những người cưỡi ngựa. Đó chính là trung đoàn phó Ngọc Dương và phó chính ủy Hồng Cư được phán công đi với tiểu đoàn. Ta biết quân địch đã phát hiện cuộc tiến quân, chúng sẽ tăng cường phòng ngự hoặc rút chạy khỏi Mường Ngòi, cần phải tăng thêm tốc độ hành quân.
Chiều ngày 30, tiểu đoàn 89 tới bản Buổi Sen, cách đôn Mường Ngòi 5 kilômét. Trời sắp tối, bộ đội dừng lại chuẩn bị chiến đấu. Bất thần một toán lính mặc áo vàng khá đông lao vào giữa đội hình. Ta tiêu diệt một số tên chống cự và bắt sống hai chục tên. Bọn địch khai chúng từ phía Mường Khoa bị đuổi đánh rút chạy về đây. Các đồng chí chỉ huy trung đoàn phán đoán địch ở Mường Ngòi có thể rút chạy. Trung đoàn phó Ngọc Dương, người đã chỉ huy tiểu đoàn 79 trong trận truy kích Sầm Nưa, lập tức ra lệnh cho bộ đội tiến quân thật nhanh mặc dù anh em chưa kịp ăn cơm. Nhưng khi họ tới Mường Ngòi thì đồn đã bị địch đốt cháy rụi, chỉ còn leo lét ánh lửa. Sáng ngày 31, tiểu đoàn tới bờ sông Nậm Hu vắng lặng. Quân địch sau khi qua sông đã hủy hết thuyền bè. Sông không rộng, nhưng sâu. Chung quanh toàn núi đồi hoang. Tổ quân báo đi tìm được mấy người dân. Biết bộ đội Việt Nam đuổi đánh "xấc tây" (giặc Pháp), một cụ già và mấy người trai trẻ mang tới bốn chiến thuyền độc mộc. VŨ khí nặng, các chiến sĩ quân báo, một số cần đi trước được ưu tiên qua sông bằng thuyền. Những người khác dùng nilông, ống bương bơi qua sông nước giá buốt.
Ngày 1 tháng 2, đại đội 395 đi đầu tiểu đoàn phát hiện khá đông quân địch đóng trên hai quả đồi trước mặt. Đại đội 395 lập tức nổ súng. Súng cối 60 ly và súng máy của ta bắn mạnh vào giữa đội hình quân địch.
Chúng bỏ lại trên trận địa sáu chục tên chết và bị thương, tháo_ chạy vào rừng. Tá biết đây là một tiểu đoàn ngụy lên đón bọn ở Mường Ngòi rút về. 395 tiếp tục truy kích. Dọc đường, đại đội đánh liên tiếp mười trận lớn nhỏ tiêu diệt và bắt sống thêm khoảng trên một trăm quân địch.
Chiều hôm sau, ngày 2 tháng 2, phía trước tiểu đoàn hiện ra một thung lũng phì nhiêu, Những thửa ruộng bậc thang. Một con sông nhỏ uốn lượn trên cánh đồng trải dài, lúa đã gặt. Những ngôi nhà sàn san sát co hàng dừa xanh mướt bao quanh. Nổi lên giữa thung lũng là một khu đồn lớn và sân bay. Họ đã tới Nậm Bạc.
Bộ đ(i ta đã truy kích địch liên tục sáu ngày đêm.
Dọc đường hầu như chỉ ăn toàn gạo rang. Và hôm đó đúng vào 29 Tết Giáp Ngọ. Thấy binh linh trong đồn chạy đi chạy lại nhốn nháo, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Liệu phán đoán địch chuẩn bị rút, quyết định tiến công luôn. Hàng chục khẩu trung liên của ta nã vào đồn. Quân địch hoảng hốt tháo chạy. Bộ đội ta tiến vào đồn, thấy cả kho vũ khí, quân trang, lương thực còn nguyên vẹn, và một bữa cơm vừa mới dọn chưa kịp ăn.
Nhiều làng bản trên dọn đường và những kho gạo chuẩn bị cho trận đánh Phông Xa Lỳ đã bị địch đốt phá. Các đồng chí lãnh đạo địa phương của bạn gặp bộ phận anh Nguyễn Thanh Bình đều sốt sắng hứa sẽ có lương thực cho bộ đội, và chia nhau đi các nơi huy động gạo.
Phần lớn dân chúng đã mang theo thóc gạo, lợn gà lánh vào rừng sâu. khi nghe có bộ đội Việt Nam tới đánh Pháp, nhiều người mang lương thực quay trở về. Anh Bình đuổi kịp anh Vũ ở Nậm Bạc thông báo tình hình.
Anh Vũ đề nghị nói với nhân dân mang gạo ra dọc đường, gặp đơn vị đang truy kích là trao, cán bộ để lại giấy biên nhận, rồi bộ đội sẽ thanh toán sau. Có người mang cả lợn từ rừng sâu ra. Nhiều gia đình chỉ có thóc. Dân công ta đã cùng nhân dân Lào xay giã gạo. Lương thực huy động được không thiếu nhưng do bộ đội vận động không ngừng, nên nhiều bữa chỉ ăn gạo rang thay cơm.
Tối ngày 29 Tết, trung đoàn 86 tiếp tục truy kích. Nửa đêm, trên đường đi Nậm Ngà, gặp một con suối, Ngọc Dương và Hồng Cư quyết định cho tiểu đoàn nghỉ lại đón giao thừa. Không ai biết chính ở nơi đây sẽ diễn ra trận đánh lớn nhất trên đường truy kích.
Sáng hôm sau, ngày 3 tháng 2, các chiến sĩ đại đội 395 vừa thức giấc thì một toán rất đông quân địch xộc vào nơi trú quân. Mọi người vội xốc ba lô, cầm súng chiến đấu. Một trận tao ngộ chiến. Tiếng súng nổ khắp nơi. Đại đội xông lên một quả đồi chiếm địa thế cao đánh địch. Nhưng càng tiến lên càng thấy đông quân địch. Sau giây phút bàng hoàng, địch dùng đại liên và ĐKZ chống cự. Lực lượng ta rất mỏng. Trung đoàn phó Ngọc Dương trực tiếp chỉ huy súng cố l yểm hộ cho bộ đội Giữa lúc đó, tiếng súng cối 82, rồi tiếng súng máy của ta nổ ran. Những đại đội đi sau, nghe tiếng súng đã kịp thời chạy lên tiếp viện đánh bọc sườn quân địch.
Địch bị thương, chết và ra hàng mỗi lúc một đông Lá cờ rách nát rơi trên trận địa có dòng chữ "1er BAT” - tiểu đoàn ngụy Thái số 1. Tiểu đoàn này từ phía Mường Sài kéo về Nậm Ngà đến đây thì chạm phải quân ta và bị tiêu diệt Cùng lúc các tiểu đoàn 80 và 84 cũng tới nơi. Qua tám ngày truy kích, thực sự chỉ có một tiểu đoàn gặp quân địch, và chiến đấu nhiều nhất là đại đội đi đầu.
Những cuộc đọ súng đều diễn ra quá nhanh nên đại bộ phận đi sau không kịp tham dự. Trung đoàn trưởng Hồng Sơn quyết định cho tiểu đoàn 89 lui về phía sau, đưa các tiểu đoàn 80, 84 còn đầy sinh lực tiến lên trước.
Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ đến giữa lúc bộ đội thu dọn chiến trường. Trung đoàn 88 đã kịp có mặt trong đội hình. Đại đoàn trưởng ra lệnh cho hai trung đoàn tiếp tục tiến về phía Luông Phabăng.
Đường từ Nậm Ngà vào Luông Phabăng rất nhiều mìn. Một số cán bộ, chiến sĩ hy sinh hoặc bị thương.
Để tránh thương vong và bảo đảm tốc độ hành quân, trung đoàn 36 tìm một con đường khác đi men theo sông Nậm U. Chiều ngày 7 tháng 2, tiểu đoàn 80 của 36 tới Pắc Sướng, bắt được liên lạc với tiểu đoàn quân tình nguyện 970 và bộ đội Pa thét Lào. Ở Pắc Sương địch có năm đại đội, nhưng đánh hơi thấy quân ta, chúng đã bỏ đồn tháo chạy.
36 đi tiếp tới mốt nga ba sông. Đây là nơi sông Nậm U gặp sông Mê Công. Mặt sông mênh mang không một bóng thuyền bè. Bên kia sông có thể có địch. Cần một bộ phận sang trước để lập một đầu cầu. Cả đội quân báo đều xung phong. Chiếc bè chuối vượt sông ban đêm. Lát sau, bên kia sông xuất hiện một đám lửa. Dấu hiệu đầu cầu đã được thiết lập. Ngày 11 tháng 2, toàn bộ trung đoàn vượt sông Mê Công với một số thuyền lớn của nhân dân Lào và những bè do đơn vị tự làm.
Chiều ngày 12, họ gặp một đồn tiền tiêu của Luông Phabăng ở phía bậc. Đây là đồn Nậm Na nằm giáp biên giới Thái Lan. Vùng này ở sâu trong hậu phương địch, nên công sự phòng thủ sơ sài. Tiểu đoàn 80 được lệnh công kích. Cuộn chiến đấu diễn ra rất nhanh. Chỉ với súng cối 60 ly và hỏa lực đại liên chi viện, tiểu đoàn 80 đã tiêu diệt gọn một trung đội lê dương và một trung đội ngụy Lào. Tàn quân địch tháo chạy về Luông Phabăng. Bộ đội ta truy kích bất thêm một chục lính âu Phi, trong đó co một viên quan hai, và sáu lính ngụy. 36 chỉ còn ở cách kinh đô nhà vua Lào không đầy hai mươi kilômét.
Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho 308 dừng lại. Trước đòn tiến công bất ngờ của ta, đặc biệt là Luông Phabăng bị uy hiếp, Na va phải lập một cầu hàng không tăng viện cho Thượng Lào. ông ta đã vét từ đồng bằng Bắc Bộ binh đoàn cơ động số 7, tiểu đoàn khinh quân ngụy số 301, từ Xiêng Khoảng tiểu đoàn 4 trung đoàn bộ binh thuộc địa số 4, cùng với trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11, tiểu đoàn Thái số 10, tiểu đoàn dù thuộc địa số 1, lập thêm hai tập đoàn cứ điểm mới ở Luông Phabăng và Mường Sài.
Qua hơn mười ngày truy kích địch trên chặng đường dài 200 kilômét, bộ đội đánh nhiễu trận, tiêu diệt và làm tan rã 17 đại đội địch, trong đó có 1 tiểu đoàn lính lê dương bị tiêu diệt gọn, thu hàng phục tấn vũ khí, đạn dược. Ta giải phóng toàn bộ lưu vực sông Nậm Hu, ước tính 10.000 kilômét vuông, cô lập hoàn toàn Điện Biên Phủ. Mặc dù hoàn toàn không được chuẩn bị về tham mưa cũng như hậu cần, nhưng 308 đã dồn mọi nỗ lực biến cuộc hành quân thành một đòn tiến công thực sự, có quy mô như một chiến dịch, và đạt được những hiệu suất chiến đấu rất cao, vượt xa yêu cầu đề ra cho đại đoàn lúc đầu. Nhân lúc địch hoang mang, trung đoàn 148 đã cùng bộ đội Pa thét Lào nhanh chóng giải phóng Bun Tầy, Bun Nửa trực tiếp đe dọa tỉnh ly Phông Xa Lỳ.
Nhà ký giả Pháp Rô be Ghilanh (Robert Guillain) trong tập "Kết thúc những ảo tưởng" đã nhận xét đó là: "một cuộn chạy việt dã quái đản, xuyên qua rừng rậm, vượt trên sức bất cứ một đội quân nào", "Mặt trận Lào quả là một cái bơm, bơm cạn hết nguồn sinh lực của các mặt trận khác: đồng bằng, átlăng và cả Trung Lào cũng đều phải rút bớt quân để ném cho cái "chiến trường bị đe dọa là Mường Sài và Luông Phabăng”.
Hoa ban bắt đầu nở trắng các sườn núi: Những chiếc xe vận tải, xe thồ chất nặng bánh dày, chè lam, kẹo, mứt... và rất nhiều những lá thư từ hậu phương, từ những phương trời xa: Bằc Kinh, Bình Nhưỡng, Mạc Tư Khua. . . nhấc nhở chúng tôi Xuân Giáp Ngọ đang tới gần. Thơ chúc tết của Bác đã gửi tới mặt trận.
" Quân và dân ta nhất trí kết đoàn,
Kháng chiến kiến quốc nhất đinh hoàn toàn thành công
Hòa bình dần chủ thế giới kháp Nam, Bắc, Tây, Đông,
mới, thảng lợi càng mới, thành công càng nhiều”.
Suốt đêm 29 Tết, tôi vẫn tiếp tục theo dõi việc kéo pháo ra. Các đơn vị kéo pháo phải báo cáo lên từng giờ. Công tác kéo pháo được coi như nhiệm vụ chiến đấu. Tôi đã thuộc những tên: dốc Bẩy tời, vực sâu Vườn chuối, Suối Ngựa, dốc Cây cụt, cửa rừng Bản Tố, cửa rừng Nà Nham. . . Vượt an toàn qua mỗi địa danh này coi như lập được một chiến công. Gần sáng, các đơn vị kéo pháo báo cáo hoàn thành nhiệm vụ. Thực ra, các khẩu pháo mới được đưa ra cửa rừng, cây số 62 trên đường 41, phải tới mồng 3 Tết mới về tới vị trí trú quân. Nhưng đây đã là nơi an toàn. Bộ đội ta đã làm nên một kỳ công.
Những ngày này, cả dân tộc đang thực hiện một cái Tết Quang Trung của thời đại mới. Không chỉ có một đoàn quân rong ruổi từ Thuận Hóa ra Thăng Long Tết Kỷ Dậu năm 1789, mà trên rất nhiều nẻo đường khắp bán đảo Đông Dương, từ nam lên bắc, từ bắc vào nam, từ đông sang tây, những đoàn quân của cả nước đang mải miết ra đi quyết đem về một mùa xuân mới cho dân tộc. Tôi nghĩ tới hàng chục vạn đồng bào đang sát cánh cùng bộ đội ở các mặt trận Tây Bắc, Thượng Lào, Trung lào, Hạ Lào, Liên khu 5, Tây Nguyên... không được cùng những người thân ngồi bên nồi bánh chưng đón giao thừa tại quê hương. Đợt dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ đã kéo dài hơn ba tháng, nhưng khi Tết đến các đoàn dân công đều tình nguyện ở lại chiến trường.
Khu rừng sáng dần. Ngày đầu Xuân Giáp Ngọ đã tới. Sương lạnh vẫn bao phủ khắp núi rừng. Tôi đi sang cơ quan tác chiến. Anh em đang chuẩn bị tới chúc tết Bộ chỉ huy chiến dịch. Tôi nói:
- Chúc các đồng chí năm mới mạnh khoẻ, giành nhiều thắng lợi.
Bị bất ngờ, mọi người hơi lúng túng. Một đồng chí noi:
- Chúng tôi bị động rồi !
Cuộc chúc tết đầu năm thêm vui. Đồng chí Trần Văn Quang, cục trưởng Tác chiến báo cáo ở Tây Nguyên, bộ đội Liên khu 5 đang tiến về thị xã Công Tum, ở Thượng Lào, 808 đang tiến về Luông Phabăng, ở Hạ Lào, 436 và bạn đã giải phóng Pảc Xế đang tiến về Xaravan. Đây thật sự là những tin vui đầu Xuân.
Tôi gọi dây nói chúc tết các đơn vị. Văn phòng đưa tới những bức điện từ hậu phương, từ đồng bằng Bắc Bộ, từ Bình - Trị - Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ. Bức điện nào cũng mang những lời thắm thiết chúc mừng năm mới giành được thắng lợi to lớn.
Tôi sang lán đồng chí Vi Quc Thanh chúc tết Đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc vì sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam phải tiếp tục ăn một cái tết ở ngay mặt trận, xa Tổ quốc, xa gia đình, và báo tin thắng lợi trên các chiến trường. Đồng chí Vi vui vẻ chúc mừng năm mới cùng những thắng lợi mới của quân và dân ta.
Đồng chí cho biết: sau khi được phân tích rõ về chỗ mạnh chỗ yếu của địch và ta, các cố vấn đều nhất trí với chủ trương thay đổi phương châm chiến dịch. Mọi người đều biểu thị quyết tâm đồng cam cộng khổ, đem hết trí tuệ và năng lực giúp bộ đội Việt Nam giành toàn thắng. Đồng chí đã đề nghị Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng nhân đần Trung Quốc gửi sang gấp những tài liệu tổng kết kinh nghiệm chiến đấu mới nhất ở Triều Tiên, nhất là kinh nghiệm xây dưng trận địa và chiến đấu đường hầm, kể cả cuốn sách Thượng Cam Lĩnh, để bộ đội Việt Nam tham khảo.
Đoàn đại biểu đồng bào người Thái, người Mông, người Dao... do đồng chí Lò Văn Hạc dẫn đầu, tới chúc tết Bộ chỉ huy Mặt trận và bộ đội, nói với chúng tôi quyết tâm của nhân dân các dân tộc Tây Bắc sẽ đứng lên sát cánh cùng bộ đội tiêu diệt giặc.
Trên các chiến trường, bộ đội ta đang ở thế thắng như chẻ tre. Trận đánh quyết định còn chưa diễn ra, nhưng tôi cảm thấy trong mấy ngày qua, những diễn biến đang nhanh chóng đi vào quỹ đạo. Ngay sau khi địch vừa nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, một tờ báo Thụy Điển, tờ Expressen, phỏng vấn Báo về tình hình chiến tranh Đông Dương. Bác trả lời:
"Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí chiến đấu 7, 8 năm nay chống kẻ xâm lược... Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa san sàng tiếp nhận ý kiến đó". Đây không chỉ là lời đáp chính trị hay ngoại giao. Bác lúc nào cũng mong muốn hòa bình. Người không bỏ lỡ một cơ hội nào có thể đem lại hòa bình. HỒ Chí Minh là một nhà thương lượng có nguyên tấc, và biết điều. Người không bao giờ đòi hỏi ở đối phương cái mà dân tộc mình chưa thể có ngay. Người chấp nhận sự chờ đợi. Nhưng kẻ địch chưa hề đáp lại. Cả lần này cũng vậy.
Chỉ còn nửa tháng nữa, ngoại trưởng bốn nước Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp sẽ gặp nhau ở Bức Lanh để ra thông báo cuộc họp bàn về vấn đề "lập lại hoà bình ở Đông Dương" tại Giơnevơ vào tháng Tư tới. Có thể người Pháp đặt kỳ vọng vào kế hoạch Nava. Họ muốn ngồi vào bàn thương lượng trên thế mạnh. (Sau này, chúng ta mới biết chính Nava đã yêu cầu Chính phủ Pháp chỉ đặt vấn đề thương lượng khi đã giành được một thắng lợi quyết định trong chiến tranh Đông Dương). Mới ngày hôm trước, đại tướng Mỹ Ô đanien (O Daniel),I người co trách nhiệm đôn đốc giám sát viện thực hiện kế hoạch Nava, trực tiếp lên Điện Biên Phủ kiểm tra, đã ngỏ ý hài lòng về tổ chức phòng ngự ở đây. Mỹ đã trở thành trở ngại lớn nhất cho cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất của ta... Tôi bỗng thấy cần có ngay một cái gì đó ở Điện Biên Phủ...
Tôi gọi dây nói cho Bộ tư lệnh Pháo binh. Sau khi chúc tết đơn vị, tôi hỏi về tình hình sơn pháo. Đồng chí Đào Văn Trường, quyền tư lệnh trưởng, báo cáo khác với lựa pháo quá nặng nề, các khẩu đội sơn pháo đều đã vào vị trí, và bố trí xong những trận địa giả để đánh lạc hướng quân địch khi phát hỏa. Tôi hỏi tiếp:
- Có định làm gì để chào mừng năm mới không ?
- Báo cáo: Anh em sẵn sàng.
- Được Cho bắn vào sân bay.
- Rõ. Nhưng xin chờ tới lúc trời tan sương.
- Đồng ý. Nhắc anh em chuẩn bị đầy đủ. Ngắm thật chính xác mới bắn. Đã bắn là trúng!
* 10 giờ, biển sương trên cánh đồng Mường Thanh mới tan Sân bay hiện ra lỗ lộ với tám chiếc khu trục Hen cát, hai máy bay thám thính Moran, và hai máy bay vận tải đakôta. Trong phút chốc, 10 trái đại bác 75 ly giội trúng sân bay. Một chiếc Moran bốc cháy, một số chiếc khác trúng đạn. Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định tặng thưởng cho đại đội pháo binh vừa lập công tấm huân chương đầu tiên của chiến dịch.
Những phát pháo nã vào sân bay đã làm quân địch điên cuồng. Chúng chưa tìm ra cách nào để loại trừ hiểm họa đã thực sự xuất hiện, từ nay thường xuyên lơ lửng trên đầu. Mồng 2 Tết, Đờ Cát dùng máy bay rải truyền đơn thách thức ta tiến công vào Điện Biên Phủ.
Phải chăng đây là một cách giải quyết của địch? địch mong ta sớm lao vào cái bẫy đã được chuẩn bị kỹ ! Sự im lặng lúc này là cách trả lời tốt nhất của chúng ta. Trong những ngày đầu Xuân, tôi nhận được điện rồi thư trả lời của Bác và Trung ương, nhất trí cho rằng "quyết định thay đổi cách đánh như vậy là hoàn toàn đúng". Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ động viên toàn dân dốc sức chi viện cho Điện Biên Phủ tới khi giành toàn thang. Hội đồng Cung cấp Trung ương đã được thành lập, do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng trực tiếp làm chủ tịch, sẽ chỉ đạo các địa phương huy động nhân vật lực phục vụ tiền tuyến.
Mồng 3, mồng 4 Tết, tin chiến thắng của bộ đội ta và bộ đội bạn tại lưu vực sông Nậm Hu dồn dập bay về.
Nửa đêm về sáng ngày mống 5 Tết, tôi từ sở chỉ huy đi thăm pháo binh. Đây là cuộc xuất hành đầu năm của tôi.
Trời tối đen. Sương giá phủ khớp rừng núi. Cán bộ của đại đoàn 351 tập hợp ven một quả đồi, hình như đã chờ đợi từ lâu. Mọi người vỗ tay hoan hô quên cả giữ bí mật. Tôi nhìn anh em ngồi trong bóng đêm, rồi nói :
- Trong khi các đồng chí chuyển pháo ra thì đơn vị bạn đã tiến đến gần sông Mê Công, đánh tan 17 đại đội địch. Bây giờ các đồng chí còn thắc mắc không?
Mọi người vui vẻ cười ồ. Tôi chúc mừng năm mới, rồi nói chuyện với anh em tới khi trời sáng. Hai cán bộ lựu pháo và cao pháo đứng lên hứa hẹn sẽ làm công sự thật vững chắc, và quyết tâm giành thắng lợi ngay trong trận đánh đầu tiên. Cũng ngày mồng 5 Tết, Bộ chỉ huy chiến dịch triệu tập hội nghị cán bộ ở Mường Phăng quán triệt phương châm tác chiến mới và tiến hành công tác chuẩn bị chiến đấu. Vùng trời Điện Biên Phủ vắng hẳn tiếng máy bay.
Hầu hết lực lượng không quân vận tải và một phần không quân chiến đấu đã bị hút sang Thượng Lào.
Cuộc họp đầu Xuân thiếu mặt đại đoàn 308 đang trên đường truy kích địch. Tôi thay mặt Tổng quân ủy chúc Tết toàn quân:
- “Sang năm mới thu nhiều thắng lợi mới", và biểu dương những đơn vị đã kéo pháo ra an toàn. Tôi thông báo với hội nghị, Trung ương và Bác đã phê chuẩn chủ trương tác chiến mới của Đảng ủy chiến dịch, hậu phương sẽ dốc sức chi viện cho tiền tuyến tới khi giành toàn thắng.
Tin chiến thắng trên các chiến trường Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, Tây Nguyên, trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ đã mang lại sự phấn khởi cho hội nghị. Trong hai tháng qua, chúng ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 20.000 quân địch, giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn có ý nghĩa chiến lược, buộc địch phải đối phó khắp nơi. Các chiến trường hậu địch trên cả nước đều đẩy mạnh chiến tranh du kích làm cho địch không đủ lực lượng để tiến hành bình định. Địch cũng không còn khả năng mở một cuộc tiến công lớn ra vùng tự do...
Câu hỏi lớn đặt ra là ta sẽ làm gì để giành thắng lợi trên mặt trận chính Điện Biên Phủ?
Quân địch ở Điện Biên Phủ hiện có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, gồm phần lớn là quân tinh nhuệ bậc nhất của đạo quân viễn chinh, 2 tiểu đoàn pháo 105 ly (24 khẩu), 2 tiểu đoàn súng cối 120 ly (20 khẩu), 1 đại đội pháo 155 ly (4 khẩu), 1 .đại đội xe tăng 18 tấn (lo chiếc). Lực lượng không quân thường trực tại sân bay Mường Thanh có: 7 khu trục, 5 trinh sát, 4 máy bay vận tải và 1 trực thăng. Ngoài ra, địch sẽ dành 2/3 lực lượng máy bay ném bom, máy bay tiêm kích toàn Đông Dương, và 100% máy bay vận tải để yểm trợ trực tiếp cho Điện Biên Phủ trong trường hợp bị tiến công. Tổng số quân địch tại Điện Biên Phủ khoảng 12.000 người.
Lực lượng ta có 9 trung đoàn bộ binh, gồm 27 tiểu đoàn, 1 trung đoàn sơn pháo 75 ly (24 khẩu), 2 tiểu đoàn lựu pháo 105 ly (24 khẩu), 4 đại đội súng cối 120 ly (16 khẩu), 1 trung đoàn cao xạ pháo 37 ly (24 khẩu), và 2 tiểu đoàn công binh. So sánh lực lượng bộ binh, ta hơn địch về số tiểu đoàn (27/12), nhưng quân số mỗi tiểu đoàn của ta chỉ bằng 2/3 quân số tiểu đoàn địch, và trang bị yếu hơn nhiều. Về lực lượng pháo yểm hộ trực tiếp cho bộ binh, ta hơn địch về số lượng (64/48 khẩu), nhưng lực lượng đạn pháo dự trữ của ta rất hạn chế. Ta hoàn toàn không có xe tăng, và chỉ có 1 trung đoàn cao xạ 37 ly để đối phó với toàn bộ không quân địch.
Bài toán cũ về so sánh lực lượng lại xuất hiện: một lần nữa, ta không có ưu thế binh lực trước kẻ địch.
Ngay về số lượng bộ binh đơn thuần, ta cũng không hơn địch bao nhiêu, thông thường, phía tiến công phải có lực lượng từ 5 lần trở lên đông hơn phía phòng ngự. Hầu hết các đơn vị chủ lực của ta đã được tung ra chiến trường. Lúc này, ta chỉ còn để lại 1 trung đoàn của 304 để bảo vệ hậu phương chiến dịch và khu căn cứ. Chúng ta vẫn ở vào thế yếu đánh mạnh.
Tuy nhiên, lợi thế của ta ở Điện Biên Phủ khá rõ: Ta chủ động tiến công, địch bị động phòng ngự; ta là lực lượng bao vây, địch là lực lượng bị bao vây. Lợi thế này cho phép ta tự quyết định: đánh hoặc không đánh, lựa chọn địa điểm, thời gian mở cuộc tiến công. Đánh hay không đánh, đều có lợi cho ta. Nếu kìm giữ những lực lượng cơ động chủ yếu của địch một thời gian dài ở Điện Biên Phủ cho các chiến trường tiêu diệt địch, thì ta đã giành được một thắng lợi lớn trong Đông Xuân này.
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ gồm ba phân khu yểm hộ lẫn nhau. Mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự độc lập. Nhiều cứ điểm được tổ chức lại thành cụm cứ điểm, gọi là "trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp", có lực lượng cơ động, hỏa lực của mình, hệ thống công sự vững chắc, chung quanh là hào giao thông và hàng rào dây thép gai, khả năng phòng ngự khá mạnh. Mỗi một phân khu gồm nhiều trung tâm đề kháng kiên cố như vậy. Mỗi trung tâm đề kháng, cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm, đều có hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, hệ thống công sự phụ (hàng rào, bãi dây thép gai, bãi mìn), hệ thống hỏa lực rất mạnh.
Phân khu trung tâm là bộ phận quan trọng nhất, tập trung hai phần ba lực lượng của địch (8 tiểu đoàn, gồm 5 tiểu đoàn chiếm đóng và 3 tiểu đoàn cơ động), có nhiều trung tâm đề kháng yểm trợ lần cho nhau, bao bọc lấy cờ quan chỉ huy, các căn cứ hỏa lực và căn cứ hậu cần, đồng thời bảo vệ sân bay. Phía đông phân khu có cả một hệ thống cao điểm rất lợi hại, đặc biệt là những ngọn đồi A1, C1, D1 E1. Những cao điểm này giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ phân khu.
Ở phía bắc, có phân khu bắc, gồm các trung tâm đề kháng: Đồi Độc lập, Bản Kéo. Đồi Độc lập có nhiệm vụ án ngữ phía bắc, ngăn chặn con đường từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Trung tâm đề kháng Him Lam, tuy thuộc khu trung tâm, nhưng cung với các vị trí Đồi Độc lập, Bản Kéo là những vị trí ngoại vi đột xuất nhất của địch, án ngữ phía đông bắc, ngăn chặn cuộc tiến công của quân ta từ hướng Tuần Giáo vào. Ở phía nam, là phân khu nam, còn gọi là phân khu Hồng Cúm, có nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tiến công từ phía nam lên, đồng thời giữ đường liên lạc với Thượng Lào.
Hỏa lực pháo binh được bố trí thành hai căn cứ: một ở Mường Thanh, một ở Hồng Cúm, có thể yểm trợ lẫn cho nhau, và cho tất cả các cứ điểm khác mới khi bị tiến công. Ngoài hỏa lực chung của tập đoàn cứ điểm, mỗi trưng tâm đề kháng còn có hỏa lực riêng, bao gom nhiều súng cối các cỡ, súng phun lửa, và các loại súng bắn thẳng bố trí thành hệ thống vừa tự bảo vệ, vừa yểm hộ cho những cứ điểm chung quanh.
Điện Biên Phủ có hai sân bay. Sân bay chinh ở Mường Thanh, và sân bay- dự bị ở Hồng Cúm, nối liền với Hà Nội, Hải Phòng bằng một cầu hàng không, trung bình mỗi ngày có gần 100 lần chiến máy bay vận tải tiếp tế khoảng 200 - 300 tấn hàng, và thả dù khoảng 100 - 150 tấn.
Cuộc chiến đấu ở Điện Biên Phủ sẽ điện ra trên cả địa hình đồi núi và đồng bằng. Những cứ điểm nằm trên dãy đồi phía đông, tạo thành bức bình phong chc chở vững chắc cho khu trung tâm.
Từ lâu, người ta đã nói tới vai trò của một đồn nhỏ bé đặt ở một vị trí hiểm trở, cũng như nhiều đồn như vậy được nối liền với nhau ở vùng rừng núi trong chiến tranh. Claudơvít, nhà lý luận quân sự kinh điển, mặc dù đã nhấn mạnh vào những nhược điểm cơ bản của một cuộc chiến tranh phòng ngự tuyệt đối, ở vùng rừng núi, cũng đã viết: "Đương nhiên, phải thấy là một số lớn những đồn như vậy được xây dựng sát bên nhau, tạo thành một mặt trận co sức mạnh to lớn, hầu như không thể công phá được" Mọi cuộc tiến công của bộ đội ta trên cánh đồng đều phải vượt qua hỏa lực máy bay, đại bác, xe tăng, và sự phản kích của quân cơ động, kể cả quân dù, trước khi đối đầu với hởa lực bần thẳng, hàng rào dây thép gai và bãi mìn của bản thân cứ điểm.
Nhiều nhân vật cao cấp của cả Pháp và Mỹ tới thăm Điện Biên Phủ, đều đánh giá đây là một “pháo đài không thể công phá".
Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh, trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương. Ta cần tính đến trường hợp trận đánh kéo dài tới mùa mưa, hậu cần sẽ giải quyết thế nào? Nhưng trước mắt, vấn đề quyết định lả phải tìm ra cách đánh thích hợp với trình độ của bộ đội, khoét sâu vào những nhược điểm cơ bản của địch, hạn chế tới mức thấp nhất sức mạnh phi pháo, và phát huy tới mức cao nhất khả năng tác chiến của bộ đội và tính năng các loại vũ khí của ta. Chúng ta đã nhìn thấy hai nhược điểm lớn của "con nhím Điện Biên phủ.
Trước hết là tính cứng nhấc và thụ động của hệ thống phòng ngự bằng tập đoàn cứ điểm mà quân địch đã lựa chọn. Tập đoàn cứ điểm là một kết cấu chặt chẽ của nhiều cứ điểm, nhưng trong thực tế, vẫn là những cứ điểm tách rời. Quân địch ở đó tuy đông, nhưng khi một cứ điểm bị tiến công thì lực lượng đối phó chủ yếu vẫn là lực lượng của bản thân cử điểm, cộng thêm với sự yểm trợ hỏa lực từ xa, và sự can thiệp của một lực lượng quân ứng chiến không đông mà ta co điều kiện để hạn chế. Nhược điểm này cho phép ta tập trung sức mạnh tiêu diệt từng cứ điểm do ta lựa chọn, vào thời gian thích hợp.
Thứ hai là tính cô lập của bản thân "con nhím Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ nằm chơ vơ giữa vùng rừng núi mênh mông đã hoàn toàn giải phóng, rất xa những căn cứ hậu phương, nhất là những căn cứ không quân lớn của địch, mọi việc tăng viện và tiếp tế đều phải dựa vào đường không. Nếu đường không bị hạn chế hay cắt đứt nó sẽ nhanh chóng mất sức chiến đấu. Khống chế sân bay, hoặc cắt đứt sân bay Mường Thanh không còn là điều khó khăn với bộ đội ta hiện nay.
Do đó, ta đã nhọn cách "đánh chắc tiến chắc". Thay vì một cuộc tiến công vào toàn bộ tập đoàn cứ điểm, ta sẽ xây dựng trận địa bao vây, chia cắt quân địch, đưa pháo vào những vị trí an toàn, đặt các cứ điểm trong tầm bân, khống chế sân bay, tiếp đến sẽ tiến hành một loạt trận công kiên, tiêu diệt từng trung tâm đề kháng, bắt đầu từ tiêu diệt phân khu bắc, mở đường đưa bộ đội vào cánh đồng Mường Thanh, cắt đứt sân bay, tiến tới bóp nghẹt con nhím Điện Biên Phủ. Cách đánh này phù hợp với trình độ bộ đội ta, cho phép ta khoét sâu những nhược điểm của địch, biến ưu thế về binh khí kỹ thuật của địch trên chiến trường thành ưu thế áp đảo của ta trong từng trận đánh quyết giành thắng lợi.
Tôi trình bày bản báo cáo "Tích cực hoàn thành công tác chuẩn bị tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Đảng ủy dự kiến chiến dịch sẽ phát triển qua ba bước. Bước 1, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, gồm làm đường đưa pháo vào trận địa vững chắc, xây dựng trận địa bao vây và tiến công, chuẩn bị hậu cần chiến dịch. Lấy viện xây dựng trận địa pháo làm chuẩn về thời gian khi nào pháo đả chiếm lĩnh các trận địa bân, coi như công tác chuẩn bị cơ bản hoàn thành. Bước 2, tiêu diệt các trung tâm đề kháng ở ngoại vi, thắt chặt trận địa tiến công và bao vây, thu hẹp phạm vi chiếm đóng, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, khống chế sân bay, hạn chế đi tới triệt hẳn nguồn tiếp tế và tiếp viện của tập đoàn cứ điểm. Bước 3, khi điều kiện đã chín muồi, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Để tiến hành công tác chuẩn bị, Đảng ủy đề ra một số công việc phải thực hiện ngay:
- Tổ chức đường cơ động cho lựu pháo.
- Tổ chức trận địa lựu pháo thật kiên cố.
- Xây dựng trận địa tiến công và bao vây.
- Chuẩn bị sức khỏc cho bộ đội, quân số chiến đấu, chiến thuật, k thuật (nhất là xây dựng trận địa và hiệp đồng bộ pháo).
- Chuẩn bị công tác cung cấp.
Mọi công tác chuẩn bị cần hết sức giữ bí mật, tránh địch gây cản trở, và tạo thế bất ngờ khi chiến dịch mở màn. Trước mắt, phải tổ chức các chốt bảo vệ khu vực trú quân thật vững chắc, đề phòng địch đánh ra. Qua cuộc họp, tôi mới biết không phải mọi người đều thắc mâc khi được lệnh kéo pháo ra. Có những người thở phào nhẹ nhõm như cất được gánh nặng, vì đã nhận thấy những khó khăn mà mình chưa biết giải quyết ra sao.
Mọi người đều thực sự phấn khởi sau khi nghe phổ biến phương án tác chiến mới. Chúng tôi cùng nhau liên hoan chào mừng Xuân mới. Đoàn văn công Tổng cục Chinh trị và đoàn văn công vừa đi dự đại hội Liên hoan Thanh niên và Sinh viên thế giới ở Bucarét, từ đầu chiến dịch đã đi sát các đơn vị tại hỏa tuyến phục vụ liên miên, tối nay lại trở về Mặt trận bộ cùng vui Tết với hội nghị. Lần đầu, giữa núi rừng và ngay tại mặt trận, chúng tôi được xem những điệu múa lượn, múa quạt, múa sạp đầy màu sâe, duyên dáng, đậm đà hương vị quê hương.
Mỗi lần đi chiến dịch, tôi lại trở về "ngôi nhà" quen thuộc. Nó cũng giống như phần lớn những ngôi nhà của các cơ quan ở Việt Bắc trong kháng chiến, chỉ khác là ở mặt trận nó được thu nhỏ tới mức tối thiểu, đung hơn là một cái lán. Vật liệu gồm cây, tre, luồng, lá móc, lá gồi kiếm được tại chỗ. Giữa nhà co một chiếc bàn, mặt bàn đủ rộng để trải bản đồ. Hai bên, là hai ghế dài, mặt ghế thường ghép bằng những cây vầu bổ đôi. Hai đầu nhà có hai chiếc giường giát nứa, một của tôi, một của đồng chí vệ sĩ. Không biết ai là người đầu tiên nghĩ ra kiểu nhà này. Nó đã ổn định tới mức không cần có sự cải tiến nào.
Ngôi nhà lần này nằm bên sườn núi Mường Phăng, có những cây dẻ cao vút. Mường Phăng, tiếng Thái có nghĩa là "bản lạnh". Khí hậu nơi núi cao quanh năm có sương, mây, mát mẻ, trong lành. Những cây lan rừng nở hoa không rực rỡ nhưng có một mùi hương đặc biệt, khi thì thoang thoảng đến bất chợt, chú ý tìm không thấy, khi thì nồng nàn. Chiến dịch nào cá đồng chí đi trước chọn địa điểm sở chỉ huy cũng cố gắng tìm nơi có cảnh đẹp Nhưng ở đây, ngoài cảnh đẹp, chỉ cần trèo lên đỉnh núi phía sau, là nhìn thấy cánh đông Mường Thanh và tập đoàn cứ điểm của địch. Hạnh phúc lớn nhất đối với người cầm quân là được ở bên bộ đội ngay tại mặt trận.
Một nhà lý luận kinh điển về quân sự đã nói: một mệnh lệnh của người chỉ huy nếu phải qua nhiều nấc thang mới tới được người lính, thì hiệu lực chỉ huy cũng giảm theo với những nấc thang đó. Ớ sát bộ đội tất nhiên là cần thiết, nhưng được nhìn tận mắt chiến trường, điều đó theo tôi cũng rất có ý nghĩa, vì nó gợi cho mình nhiễu suy nghĩ. Hễ có thời gian, tôi lại lên đỉnh núi, dùng ống nhòm quan sát trận địa, cảm thấy nhứ mình đang được ở chiến hào, bên cán bộ và chiến sĩ.
Cơ quan tham mưu, chính trị cũng tụ tập quanh đây.
Những dãy lán, mái lợp cỏ tranh, nằm rải dọc theo con suối. Bảo vệ cho sở chỉ huy vẫn chỉ có một lực lượng cảnh vệ nhỏ. Anh em trèo lên những cây cao quan sát từ xa người ra vào. Các chuyên gia bạn lần đầu sang ta đều nhận xét là ở Việt Nam kẻ định có những phương tiện và vũ khí hiện đại, nhưng công tác bảo vệ những cơ quan đầu não của ta quá sơ sài. Để bảo đảm an toàn ở hậu phương cũng như mặt trận chủ yếu vẫn là náu kín dưới tán cây rừng, và dựa vào dân. Đảng ủy Mặt trận cùng các cán bộ lãnh đạo chia nhau đi các nơi xúc tiến công tác chuẩn bị.
Từ trước Tết, anh Lê Quang Đạo, cục trưởng Cục Tuyên huấn, đã xuống 308, anh Nguyễn Thanh Bình, phó chủ nhiệm cung cấp tiền phương, đã sang chiến trường Thượng Lào. Anh Lê Liêm xuống các đơn vị theo dõi việc phổ biến chủ trương "đánh chắc tiến chắc". Anh Hoàng Văn Thái cùng một số cán bộ tham mưu, pháo binh, công binh đi dọc các dãy núi Pú Hồng Mèo, Pú Tà Cọ tìm đường cơ động pháo và trận địa pháo.
Chúng ta đã nhận thấy không thể tiếp tục kéo những khẩu pháo nặng hai tấn lên núi bằng tay, và bố trí trận địa pháo trên những địa hình trống trải trong một trận đánh dài ngày. Cần phải có đường cho xe kéo pháo vào trận địa; trận địa pháo phải được cấu trúc vững chắc, đủ sức chịu đựng những trận oanh kích của máy bay và pháo binh nếu chẳng may bị lộ. Làm được điều này không dễ dàng. Tập đoàn cứ điểm nam trong một lòng chảo, chung quanh là núi cao trên dưới 1.000 mét. Những ngọn núi lớn khống chế được sân bay Mường Thanh đều ở cách xa từ 10 đến 12 kilômét. Nếu đặt pháo ở sườn núi bên ngoài lông chảo thì mục tiêu cũng ở ngoài tầm bân. Chúng ta buộc phải bố trí pháo ở sườn núi bên trong lòng chảo. Đây lại chính là điều nằm trong sự tính toán từ trước của địch. Viên chỉ huy pháo binh ở Mường Thanh đã cam kết với Na va chỉ cần sau ba phát pháo của Việt Minh, hỏa điểm sẽ lập tức bị dập tắt Ta đã biết khả năng của quân Pháp trong những cuộc phản pháo.
Lúc này chúng ta rất cần một tấm bản đồ chính xác về Điện Biên Phủ. Từ đầu chiến dịch, các đun vị quân báo, trinh sát ở mặt trận đã nhận lệnh phải tìm mọi cách đoạt bản đồ của địch. Sau này mới biết không riêng ta mà cả bộ tham mưu pháp cũng rất lo lắng vì những tấm bản đồ cũ có nhiễu sai sót sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng hỏa lực không quân, đặc biệt là pháo binh. Người Pháp đã phải dùng máy bay để chụp bản đồ Điện Biên Phủ.
Ngày 28 tháng 12 năm 1953, một số chiến sĩ quân báo của 308 do đại đội trưởng Kim Giao chỉ huy, gan dạ phục kích tại một bản gần đồi Độc Lập, nơi quân địch thường tới tuần tiễu và nghiên cứu chuẩn bị lập một trung tâm đễ kháng mới. Họ đã nằm tại đây từ nửa đêm. Trời sáng một lúc, nghe có tiếng ôtô. Và sau đó quân Pháp xuất hiện. Một toán địch đi tới gần trận địa.
Chiến sĩ trinh sát Trần Mạnh Phấn phát hiện một sĩ quan to béo đeo lon trung tá, cầm trong tay chiến cặp đựng tài liệu Phấn nhả một băng tiểu liên hạ gục viên sĩ quan, xông tới giành lấy chiếc cặp, rồi cả toán rút lui.
Họ đã gặp may. Đó chính là trung tá Guýt (Guyth), tham mưu trưởng của Đờ Cát. Trong cặp có nhiễu tài liệu quan trọng và một bản đồ về cấu trúc của tập đoàn cứ điểm. Nhưng đây chỉ là một sơ đồ, chưa phải tấm bản đồ chính xác mà pháo binh đang cần.
Đầu tháng 2 năm 1954, tôi nhận được báo cáo, đại đội 42 thuộc tiểu đoàn 426 của Bộ đã lấy được một tấm bản đồ của địch chụp bằng máy bay. Sự kiện này đã được Béena Phấn ghi lại: "Ngày 1 tháng 2 năm 1954, hồi 15 giờ 30, tiểu đoàn Thái số 2 đang tiến về cao điểm 628 nhằm mục đích phát hiện trận địa pháo của địch thì bị một loạt đạn dữ dội quét vào cuối đội hình. Trung úy Negơrơ (Nègre) cùng với 16 binh lính gục ngã ngay tại trận địa. Sau đó một trận đánh giáp lá cà diễn ra. Nhờ sự can thiệp nhanh của một đơn vị dù, mà tiểu đoàn này tránh khỏi bị tiêu diệt. Những thiệt hại về sinh mạng đã là một đòn nặng, nhưng cộng vào đó còn một đòn khác mang điềm dữ hơn nhiều. Trong người trung úy Negơrơ, có một tấm bản đồ 1/25.000 mới in về thung lũng Điện Biển Phủ mà quân đội vừa kịp dựng lại từ những bức ảnh do máy bay chụp được. Có tấm bản đồ này, Việt Minh sẽ co điều kiện hiệu chỉnh đường bắn pháo binh của họ với độ chính xác cao nhất".
Đồng chí Phần, trinh sát viên lập công, được tặng thưởng ngay huân chương chiến công hạng ba.
Tấm bản đồ lập tức được gửi về hậu phương nhân bản để kịp thời phục vụ chiến dịch.
Nhưng lúc này, đoàn cán bộ điều tra vị trí đặt trận địa pháo và vạch những tuyến đường cho xe kéo pháo, mới chỉ có trong tay tấm bản đồ 1/100.000 thiếu rất nhiễu chi tiết, và mấy chiến ống nhòm, la bàn. Họ vừa đi vừa mở đường, quan sát địa hình, ước tính đố dốc, bổ sung những ngọn núi, con suối không có trên bản đồ. 6 trục đường được vạch ra qua nhiều vùng đồi núi cao nối liền từ phía động sang phía bắc Mường Thanh. Những khẩu pháo đặt ở đây có thể bắn tới mục tiêu xa nhất là Hồng Cúm.
Ngoài trung đoàn công binh 151 làm nòng cốt, phần lớn các đại đoàn 812, 316 và trung đoàn 675 được huy động vào nhiệm vụ làm đường cơ động pháo. Đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng Tấn dẫn đầu đơn vị mở lối tiến vào rừng sâu nhận cọc dấu, và bổ những nhát cuốn đầu tiên. Công binh phải làm những cây cầu vượt suối có sức chịu đựng 10 tấn, bảo đảm cho xe qua lại trong mùa mưa lũ. Nhiều vấn đề nảy sinh. Có những chỗ ngoặt theo yêu cầu của pháo binh phải mở rộng 12 mét, nhưng mới tính mở rộng 6 mét thì thành vại đã cao tới 20 mét! Một lần, tôi được báo cáo: một tuyến đường sắp hoàn thành thì gặp dãy núi đá nằm chắn ngang! Anh Hoàng Văn Thái phải tới tận nơi trực tiếp giải quyết những vấn đề này.
Việt tìm trận địa cho pháo cao xạ cũng gặp khó khăn. Chỉ huy trung đoàn cao xạ báo cáo: trên những địa hình hiện tại, nếu căn cứ vào bài học ở nhà trường, thì chỉ đạt được một trong tám điều kiện phải có để thiết lập một trận địa pháo cao xạ, là: "không gần đường dây cao thế quốc gia". Tôi đã nói: "Đúng là các đồng chí có khó khăn, nhưng cũng đừng lệ thuộc hoàn toàn vào những quy tắc đã học ở nhà trường. Phải cố gắng phát huy tinh thần sáng tạo của quân đội nhân dân, của pháo binh cách mạng Việt Nam".
Chỉ sau hơn hai chục ngày lao động khẩn trương, cả sáu tuyến đường cơ động pháo, dài 70 kilômét, đã hoàn thành. Khi trận Điện Biên Phủ kết thúc, đoàn tù binh đi qua những con đường này về trại tập trung, đã nhận xét: "Riêng với việc làm được những trục đường này, các ông cũng đủ thắng chúng tôi rồi !".
Việc xây dựng các hầm pháo tốn khá nhiễu công sức. Hầm pháo nằm sâu trong lòng núi, có công sự bân, công sự ẩn nấp riêng, đủ rộng để pháo thủ thao tác dễ dàng khi chiến đấu. Nấp hầm dày trên 3 mét, gồm nhiều lớp gỗ, đất, xen với những lớp bó trút, đủ sức chịu đựng pháo 105 ly. Cạnh hầm pháo, là hầm chỉ huy và hầm chứa đạn. Cứ bốn khẩu đội, lại có chung một hầm làm nơi hội họp hoặc vui chơi. Nối liền các hầm pháo là hào giao thông khá rộng và sâu, có rãnh thoát nước và hố tránh bom napan. Lại có đường hào nối từ trận địa pháo về tuyến cung cấp, nơi có đủ hầm ăn, hầm ở, hầm thương binh, hầm nấu ăn, hầm giấu xe... Bên mỗi trận địa thật đều có một trận địa giả để thu hút bom đạn địch. Đào một hầm pháo trung bình phải moi từ lòng núi khoảng 200 tới 300 khối đất đá, rồi đổ toàn bộ lên nấp hầm. Gỗ lát nóc hầm có đường kính từ 30 phân. trở lên. Toàn bộ số gỗ này phải lấy từ xa, khoảng 9 - 10 kilômét, đưa về để không làm lộ trận địa. Một khối lượng công trình khổng lồ ! Có những chiến sĩ một ngày phải bổ tới hai, ba ngàn nhát cuốc. Tất cả những lưỡi xẻng, lưỡi cuốc đem ra dùng đều mòn vẹt. Các trận địa lựu pháo được bố trí cách khu trung tâm Mường Thanh khoảng 7 kilômét, và cách các vị trì ngoại vi 4 - 5 kilômét. Do đó, không những cần phải ngụy trang toàn bộ công trình trước con mắt xoi mói của máy bay trinh sát mà còn phải không để cho quân địch ở các vị trí ngoại vi nghe được tiếng nổ mìn phá đá, chặt cây, đào đất.
Công trình chuẩn bị trận địa pháo chu đáo đã làm viên chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ hoàn toàn thất vọng ngay sau khi trận đánh bắt đầu Y đã tự kết liễu đời mình bằng một trái lựu đạn. Trong thời gian pháo thủ đánh vật với hầm hào, các chiến sĩ quan trắc, thông tin cũng lăn lộn với đèo dốc, sương mù, đêm tối và bom đạn để hoàn thành việc đo đạc, lập tọa độ các mục tiêu, và nối mạng dây thông tin dài hơn 60 kilômét của riêng trung đoàn lựu pháo. Có những đồng chí đã hy sinh trong thời gian chuẩn bị.
Để bảo đảm thực hiện phương châm "đánh chắc tiến chức" thành công, việc xây dựng trận địa bao vây và tiến công có tính quyết định. Công việc này rất mới mẻ. Trận địa chiến hào của ta không có vật chướng ngại bảo vệ, như dây thép gai, bãi mìn, nhưng nó phải bảo đảm điều kiện cho các hoạt động chiến đấu, cũng như mọi sinh hoạt bình thường và lâu dài của bộ đội. Nó không chỉ giúp cho bộ đội tiếp cận các vị trí địch dưới bom đạn, cả ban đêm và ban ngày, mà còn là nơi cơ động pháo, vận chuyển thương binh. Nó là cả một hệ thống hầm, hào lớn, nhỏ phức tạp vừa mang tính tiến công, vừa mang tính phòng ngự, đặc biệt là có chiều dài cả trăm kilômét. Trong đợt đầu, chúng ta xây dựng một đường hào trục chung quanh cánh đồng Mường Thanh) và đường hào tiếp cận những trung tâm đề kháng bảo vệ tập đoàn cứ điểm ở phía bắc.
Các cố vấn Trung Quốc giới thiệu với chúng ta kinh nghiệm của bạn trong chiến dịch Hoài Hải. Tại đây, giải phóng quân đã đào những đường hào cho pháo và Ô tô vận động dưới những trận oanh kích của địch. Các đồng chí cũng nhác đến kinh nghiệm chiến đấu đường hầm ở Triều Tiên. Quân chí nguyện Trưng Quốc và quân đội Triều Tiên đã kiến thiết những đường hầm trong lòng núi tuyệt đối an toàn trong những trận đấu pháo với địch.
Anh Thái tổ chức cho một đơn vị công binh đào thực nghiệm trên cánh đồng gần sở chỉ huy Mường Phăng để rút kinh nghiệm. Tôi cùng đồng chí Cố vấn Mai Gia Sinh trực tiếp theo dõi việc đào trận địa chiến hào của một tiểu đội theo những yêu cau Bộ chỉ huy Mặt tràn đã đề ra. Sau đó, Ban tham mưu Mặt trận ra chỉ thị hướng dẫn cho các đơn vị kích thước tiêu chuẩn cán loại hầm, hào và năng suất khối lượng đất đào trong một ngày.
Cơ quan tham mưu mặt trận cử cán bộ xuống các đại đoàn để chỉ đạo xây dựng trận địa.
Chung quanh Điện Biên Phủ bắt đầu xuất hiện một công trường khổng lồ. Những con đường cơ động pháo nhanh chóng hiện ra dưới rừng cây, hoặc dưới dàn ngụy trang không đổi màu. Rất nhiều chiến hào từ núi cao đổ xuống cánh đồng, không ngừng mọc thêm những nhánh mới, không ngừng lan rộng.
Từ đầu chiến dịch, công tác chính trị đã được tiến hành rất tốt. Dọc đường hành quân, chúng ta đã giải quyết cho bộ đội tư tưởng muốn về đánh đồng bằng, bằng cáeh giáo dục phương châm "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt của Trung ương. Những lúc bộ đội tưởng vc xuôi lại hóa lên ngược, đang đi được lệnh dừng, đang dừng được lệnh đi nhanh, anh em không thắc mắc nhiều. Cuối cùng, mọi người đều xác định: "Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi"I. Trên con đường dài tới mặt trận, mặc dù luôn luôn bị máy bay địch cản trở, tinh thần bộ đội không hề xao xuyến, rất ít người rơi rớt dọc đường. Đây là một cuộc hành quân chiến dịch tốt nhất từ xưa tới nay.
Công tác chính trị lúc này triển khai một cánh sâu rộng. Trước tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có, chúng ta đã xây dựng cho bộ đội một quyết tâm chiến đấu rất cao. Cán bộ, chiến sĩ đã thấy được chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, những điều kiện tất thắng của ta. Ý nghĩa to lớn của chiến dịch thấm tới từng người: "Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch, đập tan kế hoạch Na va, đánh bại âm mưu kéo dài chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp - Mỹ, mở ra một cục diện mới cho kháng chiến". Những khẩu hiệu của chiến dịch đã trở thành niềm quyết tâm của mọi người :
- Tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ!
Địch cố thủ, kiên quyết đánh!
Địch bỏ chạy, kiên quyết truy!
Địch tăng cường, kiên quyết diệt!...
Đợt học tập mới đã giúp mọi người nhận thấy sự chính xác của phương châm tác chiến "đánh chắc tiến châm" trên cơ sở so sánh mọi khó khăn, thuận lợi của ta và địch.
Tổng quân ủy gửi thư hiệu triệu toàn thể cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ Trung ương Đảng đã trao.
Nhân ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân 22 tháng 12 năm 1953, Bác đã trao cho mỗi đại đoàn, mỗi quân khu một lá cờ "Quyết chiến Quyết thắng" làm giải thưởng luân lưu. Các chi bộ đều mở hội nghị xác định thái độ đảng viên, kêu gọi đảng viên dẫn đầu trong chiến đấu, cắm bằng được lá cờ của Bác trên nóc sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm. Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng trong chiến dịch, ngọn đuốc dẫn đường đi tới chiến thắng trong mỗi trận đánh.



tải về 1.39 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương