Ubnd tỉnh đỒng nai ban dân tộc cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam



tải về 204.31 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích204.31 Kb.
#633
  1   2   3

UBND TỈNH ĐỒNG NAI

BAN DÂN TỘC




CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc




Đồng Nai, ngày tháng năm 2016

ĐỀ CƯƠNG

Tuyên truyền kỷ niệm 70 năm ngày thành lập cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc (03/5/1946-03/5/2016)

(Kèm theo văn bản số 72/BDT-TTr&ĐB ngày 29/3/2016 của Ban Dân tộc)

*&*


Từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn thực hiện nhất quán quan điểm Đại đoàn kết dân tộc và khẳng định“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong thư gửi Đại hội các DTTS Miền Nam tại Pleiku từ ngày 19/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:“Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các DTTS khác, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”. Và tại Điều 5 – Hiến pháp sửa đổi được Quốc Hội thông qua ngày 28/11/2013 có ghi “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”.

Ngày 14/10/2008, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 1491/QĐ-TTg ngày 3 tháng 5 hàng năm là ngày truyền thống cơ quan quản lý Nhà nước về công tác dân tộc.

Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày thành lập cơ quan làm công tác dân tộc (03/5/1946-03/5/2016) là ngày truyền thống của ngành Dân tộc; Ban Dân tộc tỉnh Đồng Nai tóm tắt quá trình hình thành và kết quả hoạt động của cơ quan làm công tác dân tộc Trung ương và tỉnh Đồng Nai như sau:

A. SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CƠ QUAN CÔNG TÁC DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG QUA CÁC THỜI KỲ:

I. Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan công tác dân tộc qua các thời kỳ:

1. Nha Dân tộc thiểu số (1946-1947) 

Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, công tác dân tộc càng được Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đặc biệt quan tâm. Ngày 03/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 58/SL thành lập Bộ Nội vụ, trong đó có Nha Dân tộc thiếu số với nhiệm vụ “xem xét các vấn đề chính trị và hành chính thuộc về các dân tộc thiểu số trong nước và thắt chặt tình thân thiện giữa các dân tộc thiểu số sống trên đất Việt Nam”. Nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Nha Dân tộc thiểu số đã được quy định cụ thể trong Nghị định số 359 ngày 9/9/1946 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ đó là: “Nghiên cứu và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến các dân tộc thiểu số trong toàn cõi Việt Nam, để củng cố, trên nguyên tắc bình đẳng sự đoàn kết và tương trợ giữa các dân tộc sống trên đất Việt Nam”. Đây là cơ quan đầu tiên của Chính phủ làm công tác dân tộc - tiền thân của Uỷ ban Dân tộc hiện nay với tổ chức bộ máy và nhiệm vụ được quy định như sau:

- Về Tổ chức bộ máy

Nha Dân tộc thiểu số đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Nha Dân tộc thiểu số có Giám đốc, Phó Giám đốc, một Bí thư trưởng, hai cố vấn và 06 phòng, ban trực thuộc (Văn phòng, Ban Nghiên cứu, Ban Tuyên truyền, Ban Thanh tra, Ban Kinh tế và Ban Tiếp đãi). Giám đốc do một Sắc lệnh bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Phó Giám đốc, Bí thư trưởng và hai cố vấn đều do Nghị định của Bộ trưởng Bộ Nội vụ bổ nhiệm. Ngoài hai cố vấn ra, Giám đốc, Phó Giám đốc và Bí thư trưởng đều phải chọn trong đồng bào dân tộc thiểu số. Mỗi phòng, ban trong Nha Dân tộc thiểu số có một chủ sự điều khiển do Bộ trưởng Bộ Nội vụ bổ nhiệm. Giám đốc Nha Dân tộc thiểu số thời kỳ này (1946-1947) là đồng chí Hoàng Văn Phùng (sinh năm 1909, dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn). Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của Nha Dân tộc thiểu số là mở Trường đào tạo cán bộ dân tộc mang tên Nùng Chí Cao, lớp cán bộ dân tộc do trường đào tạo sau đó tỏa đi khắp cả nước tham gia các lĩnh vực, phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.

- Về nhiệm vụ 

Nha Dân tộc thiểu số có nhiệm vụ: Sưu tầm tài liệu và nghiên cứu mọi vấn đề chính trị, hành chính, văn hóa, xã hội, kinh tế và tài chính có quan hệ mật thiết đến dân tộc thiểu số; củng cố tinh thần đoàn kết và tình thân ái giữa các dân tộc và chống mọi âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Ban Tuyên truyền sẽ liên lạc với Nha Thông tin tuyên truyền toàn quốc để thực hiện chương trình tuyên truyền chung trong phạm vi dân tộc thiểu số; giám sát các công việc hành chính và chính trị ở các miền dân tộc thiểu số. Thảo luận với các cơ quan hành chính ở các miền để củng cố giải quyết những vấn đề khó khăn theo chính sách của Chính phủ; thảo luận với ban nghiên cứu và đề nghị lên Chính phủ những sự cải cách thích hợp về hành chính và chính trị; giải quyết vấn đề tiếp tế cho các miền dân tộc thiểu số và giúp đỡ một cách thiết thực các dân tộc thiểu số trong công cuộc kiến thiết; phụ trách đón tiếp các đồng bào thiểu số.

Nha Dân tộc thiểu số mới thành lập chưa được bao lâu thì thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vùng dân tộc và miền núi trở thành căn cứ địa vững chắc cho cuộc kháng chiến trường kỳ.

2. Tổ nghiên cứu Dân tộc (1947-1954)

Năm 1947, thành lập Tổ Nghiên cứu dân tộc thuộc Ban Mặt trận – Dân vận Trung ương, tiếp tục nhiệm vụ của Nha Dân tộc thiểu số với phương hướng hoạt động công tác dân tộc phù hợp với tình hình mới do đồng chí Hoàng Quốc Việt phụ trách và chỉ đạo. Giai đoạn này, cơ quan công tác dân tộc trở thành một bộ phận quan trọng của Mặt trận Dân tộc thống nhất, vừa là tổ chức tham mưu về dân tộc của Chính phủ kháng chiến; một mặt vận động đồng bào các dân tộc huy động sức người, sức của ủng hộ kháng chiến, mặt khác vận động các tộc trưởng, tù trưởng, phìa tạo... đi theo kháng chiến, đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất. Bộ phận nghiên cứu chính sách dân tộc đã bước đầu có những tổng kết hoạt động thực tiễn, giúp Trung ương có những điều chỉnh nội dung, phương pháp công tác dân tộc, đặc biệt là chuẩn bị cho việc xác định đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc tại Đại hội II (tháng 2-1951), Nghị quyết của Bộ Chính trị về “Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng ta hiện nay” (tháng 8-1952). Đây là những văn kiện đề cập đến công tác dân tộc được thực thi trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự nhằm phục vụ cao nhất cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp... Trải qua 9 năm kháng chiến, công tác dân tộc đã góp phần to lớn vào sự nghiệp chung do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, cùng với nhân dân cả nước tiến hành kháng chiến thắng lợi, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954).

Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, từ sau năm 1954 công tác dân tộc được tổ chức thực hiện với những nội dung và hình thức hoạt động mới phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Ở miền Nam, cơ quan công tác dân tộc được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục. Các tỉnh Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ vận động nhân dân các dân tộc đoàn kết chống lại âm mưu chia rẽ với chính sách “chia để trị” của địch; chống lại cái gọi là Mặt trận Fulrô đòi tự trị giả hiệu; chống lại việc dồn dân lập “ấp chiến lược”... Các tỉnh miền Tây Nam Bộ, thành lập các Ban Khmer vận của tỉnh và một số huyện, đã tuyên truyền vận động bà con dấy lên phong trào chống Mỹ – Ngụy rộng khắp đã tạo nên phong trào cách mạng trong đồng bào Khmer Nam Bộ, góp phần đáng kể vào phong trào cách mạng ở miền Nam. Các tỉnh duyên hải Trung Bộ đã vận động các dân tộc thiểu số xây dựng các căn cứ địa vững chắc, tổ chức đồng bào trực tiếp chiến đấu đánh địch như ở Bác ái, Phước Chiến... hình thành các buôn làng kiên cường, lập nhiều chiến công to lớn, nhiều thắng lợi vẻ vang, đoàn kết các dân tộc được tăng cường gắn bó trong đấu tranh chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước.

3. Tiểu ban Dân tộc (1955-1959)

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng xác định, về chính sách “đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để đấu tranh giành độc lập tự do và hạnh phúc chung”. Ngày 29/01/1955, đồng chí Lê Văn Lương- Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) ký Nghị quyết số 03/NQNS/TW về việc "Thành lập Tiểu Ban Dân tộc ở Trung ương dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương do đồng chí Bùi San làm Trưởng Tiểu Ban. Về mặt chính quyền, bộ máy dân tộc thiểu số trực thuộc với Thủ tướng Phủ và tạm thời đặt ở Ban Nội chính”. Từ đây cơ quan dân tộc có hai chức năng: Tham mưu cho Trung ương Đảng về vấn đề dân tộc và giúp Chính phủ phụ trách một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Tiểu Ban Dân tộc Trung ương có các nhiệm vụ: “Nghiên cứu tình hình dân tộc và kiểm tra đôn đốc việc thực hành chính sách dân tộc ở các vùng dân tộc thiểu số, kể cả ở khu vực tự trị. Nghiên cứu giúp Trung ương đề ra chủ trương thực hiện chính sách dân tộc và phối hợp với các Bộ, các cơ quan ở cấp trung ương trong việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ ở các vùng dân tộc thiểu số. Trực tiếp phụ trách thực hiện một số công tác như đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các dân tộc...". Ngày 1-12-1955, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 447/TTg, quy định cụ thể nhiệm vụ của Tiểu Ban Dân tộc, ngoài những nhiệm vụ nói trên, bổ sung thêm việc soạn và xuất bản tài liệu giới thiệu về các dân tộc.

4. Ủy ban Dân tộc Chính phủ (1959-1986)

Căn cứ nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I họp thứ 8, năm 1959, thành lập Ủy ban Dân tộc thuộc Hội đồng Chính phủ và có quyền hạn trách nhiệm ngang Bộ “Ủy ban Dân tộc có nhiệm vụ giúp Chính phủ nghiên cứu và thực hiện chính sách dân tộc nhằm tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng tương trợ và tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số tiến bộ mau chóng về mọi mặt theo chủ nghĩa xã hội".

Ngày 6-3-1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 102/TTg, quy định nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc Chính phủ. Nghiên cứu tình hình, đặc điểm các dân tộc thiểu số, giúp Chính phủ vạch ra các chính sách dân tộc. Nghiên cứu giúp Chính phủ vạch kế hoạch xây dựng các khu vực tự trị dân tộc và thực hiện kế hoạch đó. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách dân tộc và giúp các Bộ trong việc nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện chính sách cụ thể phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố vùng dân tộc thiểu số về mọi mặt. Chỉ đạo các Ban Dân tộc địa phương về mặt nghiệp vụ. Trực tiếp quản lý Trường Cán bộ dân tộc, tổ chức những đoàn đại biểu dân tộc đi tham quan, tiến hành những công tác khác có liên quan đến chính sách dân tộc do Chính phủ giao. Nghị định 102/TTg còn quy định: “Ủy ban Dân tộc có thể ra Thông tư giải thích đường lối, chính sách và chủ trương của Chính phủ đối với vùng dân tộc thiểu số và hướng dẫn các cấp hành chính thi hành đường lối, chính sách và các chủ trương đó. Các Ủy ban hành chính, các khu tự trị, các tỉnh miền núi và vùng có dân tộc thiểu số xen kẽ, có nhiệm vụ báo cáo về tình hình công tác thực hiện chính sách dân tộc cho Ủy ban Dân tộc. Ủy ban Dân tộc phối hợp và góp ý kiến với các Bộ trong việc nghiên cứu và thực hiện mọi chính sách với các vùng dân tộc thiểu số. Các Bộ có nhiệm vụ thông báo cho Ủy ban Dân tộc các chính sách, chủ trương cụ thể và tình hình công tác của ngành mình ở các vùng dân tộc thiểu số, gửi bản sao các chỉ thị, thông tư và báo cáo về vấn đề đó cho Ủy ban Dân tộc”. Về bộ máy tổ chức ủy ban Dân tộc có: Văn phòng, Vụ Nội chính, Vụ Nghiên cứu, Vụ Tuyên giáo, Trường Cán bộ dân tộc và một số đơn vị sự nghiệp do ủy ban Dân tộc thành lập sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

Ngày 3-4-1959, Chính phủ ra Nghị định số 349/CP thành lập “Khu đào tạo cán bộ dân tộc miền Nam” trực thuộc Ủy ban Dân tộc, có nhiệm vụ: “Bồi dưỡng văn hoá, chính trị cho cán bộ dân tộc miền Nam. Tổ chức cơ sở sản xuất tập thể về nông nghiệp, thủ công nghiệp để học tập, tạo điều kiện tự túc một phần đồ dùng, thực phẩm để nâng cao mức sinh hoạt. Tiếp thu, quản lý tất cả các cán bộ dân tộc miền Nam hiện đang công tác ở miền Bắc. Tổ chức an dưỡng cho những người già trong cán bộ dân tộc miền Nam. Nghiên cứu thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ dân tộc...”.

Thời kỳ 1959-1960, đồng chí Chu Văn Tấn là Trưởng Ban dân tộc Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Chính phủ.

Năm 1961, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Dân tộc được quy định cụ thể hơn tại Nghị định số 133/CP ngày 29-9-1961 của Chính phủ: “Ủy ban Dân tộc là cơ quan của Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhằm tăng cường đoàn kết các dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng và tương trợ, tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số cùng nhân dân toàn quốc tiến nhanh về mọi mặt lên chủ nghĩa xã hội”. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Ủy ban Dân tộc gồm: Văn phòng, Vụ Nội chính, Vụ Dân sinh, Vụ Tuyên giáo và một số đơn vị sự nghiệp như Trường Cán bộ dân tộc, Tạp chí Dân tộc. Đến năm 1968 giải thể Vụ Nội chính và Vụ Dân sinh, thành lập các Vụ Địa phương và Vụ Tổng hợp theo Nghị định số 34/CP ngày 5-3-1968 của Hội đồng Chính phủ (các Vụ Địa phương gồm: Vụ I theo dõi và nghiên cứu tình hình dân tộc Tày, Nùng, Hoa và các dân tộc khác sinh sống ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hải Ninh, Vĩnh Phú, Bắc Giang. Vụ II theo dõi và nghiên cứu tình hình các dân tộc Thái, Mèo, Dao và các dân tộc khác sinh sống ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ, Hà Giang. Vụ III, theo dõi và nghiên cứu tình hình các dân tộc Mường, Vân Kiều và các dân tộc khác sinh sống ở các tỉnh Hoà Bình, Hà Đông, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình và khu vực Vĩnh Linh. Vụ IV, theo dõi và nghiên cứu các dân tộc thiểu số ở miền Nam). Vụ Tổng hợp có nhiệm vụ " Tổng hợp tình hình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục và đào tạo cán bộ dân tộc. Nghiên cứu các vấn đề lớn về chính sách có quan hệ chung đến các dân tộc. Góp ý kiến với các ngành về chính sách cụ thể đối với các vùng dân tộc".

Thời kỳ 1960-1976, Trưởng Ban Dân tộc Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc là đồng chí Lê Quảng Ba.

Công tác dân tộc trong giai đoạn này là tập trung hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng: Miền Bắc tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ đi lên chủ nghĩa xã hội, hậu thuẫn vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ở miền Nam tiếp tục sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ, trực tiếp đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, cùng với cả nước “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc.

Sau ngày đất nước thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, non sông thu về một mối, công tác dân tộc triển khai trên phạm vi cả nước với những nội dung và yêu cầu mới: Tập trung ổn định sản xuất và đời sống, giải quyết các vấn đề xã hội do hậu quả chiến tranh để lại. Cơ quan công tác dân tộc đã tham mưu cho Đảng và Chính phủ kịp thời chỉ đạo, giải quyết những vấn đề đặt ra ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ, vùng đồng bào Chăm, vùng Tây Nguyên...); tiếp tục đẩy mạnh công tác định canh định cư, theo dõi kiểm tra việc thực hiện các chính sách xã hội (ưu tiên cấp thuốc chữa bệnh, muối, dầu hoả... đối với vùng cao); tham mưu giúp Chính phủ ban hành các chính sách miễn giảm thuế, nghĩa vụ... đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, giải quyết tự túc lương thực tại chỗ... Từ sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, cùng với sự nỗ lực của các cấp các ngành, đồng bào các dân tộc thiểu số trong cả nước luôn tin tưởng, giữ trọn niềm tin vào Đảng và Bác Hồ vượt qua mọi thử thách, khó khăn, cùng với quân dân cả nước anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc biên cương đất nước, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ 1976-1979, Đồng chí Vũ Lập là Trưởng Ban Dân tộc Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc.

Năm 1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 38/QĐ-TW, ngày 14-5-1979 quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức Ban Dân tộc Trung ương và của các tỉnh: “Ban Dân tộc là cơ quan tham mưu, giúp việc của Trung ương (hoặc cấp ủy địa phương) về vấn đề dân tộc ít người”. Nhiệm vụ của Ban Dân tộc Trung ương là: Giúp Trung ương chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị các Hội nghị của Trung ương bàn về đường lối, chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc. Đối với các vấn đề chung của Đảng về vấn đề dân tộc có liên quan đến nhiều ngành, Ban chủ trì giúp Trung ương chuẩn bị; đối với các vấn đề cụ thể thuộc phạm vi cơ quan nào phụ trách thì cơ quan đó chuẩn bị. Ban có trách nhiệm tham gia chuẩn bị và phát biểu chính thức ý kiến của mình trước khi trình Trung ương để quyết định. Ban phối hợp và đề xuất ý kiến với Ban Tổ chức Trung ương trong việc nghiên cứu chính sách đối với cán bộ người dân tộc ít người. Giúp Trung ương kiểm tra việc chấp hành đường lối chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc. Qua kiểm tra, phát hiện các mặt tốt để phát huy, những khuyết điểm cần khắc phục; đồng thời đề xuất với Trung ương những vấn đề về chính sách, chủ trương công tác liên quan đến vấn đề dân tộc ít người mà các ngành cần nghiên cứu hoặc chỉ đạo để giải quyết. Phát hiện và tổng hợp các vấn đề chính trị của các dân tộc ít người như tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân các dân tộc, mối quan hệ giữa các dân tộc, những vấn đề có tính chất chính trị trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của các ngành, các cấp ở các vùng dân tộc, nhằm bảo đảm những quan điểm của Trung ương về vấn đề dân tộc được thực hiện đầy đủ, tăng cường khối đoàn kết thống nhất giữa các dân tộc trong cả nước.

Ở các tỉnh có Ban Dân tộc, nhiệm vụ của Ban Dân tộc tỉnh là giúp cấp uỷ theo dõi, kiểm tra và tổng hợp tình hình chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và chủ trương của cấp uỷ về vấn đề dân tộc; nghiên cứu các vấn đề về chấp hành chính sách của Đảng đối với các dân tộc ở địa phương theo yêu cầu của cấp uỷ và phối hợp với Ban Dân tộc Trung ương trong việc nghiên cứu và kiểm tra các vấn đề về chính sách của Đảng đối với các dân tộc theo sự chỉ đạo của cấp uỷ.

Căn cứ chương trình làm việc của Trung ương (hoặc của cấp uỷ) Ban Dân tộc lập chương trình công tác của Ban và thực hiện chương trình công tác đó. Trưởng Ban hoặc Phó Trưởng Ban được tham dự các kỳ họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư (hoặc của cấp uỷ) bàn về vấn đề dân tộc ít người. Ban được cung cấp các thông tin cần thiết như các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo của Trung ương và Báo cáo do các địa phương, các ngành gửi lên Trung ương (hoặc cấp uỷ) về những vấn đề quan trọng có liên quan đến chính sách dân tộc. Ban Dân tộc quan hệ chặt chẽ với các Ban khác, với các Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn ở các ngành cùng cấp, để trao đổi ý kiến về những vấn đề có liên quan đến chính sách dân tộc, phối hợp nghiên cứu, kiểm tra những vấn đề về dân tộc theo các quy định của Trung ương (hoặc của cấp uỷ). Ban được yêu cầu các địa phương, các ngành cung cấp những tư liệu cần thiết về vấn đề dân tộc có liên quan trách nhiệm công tác của Ban. Ban Dân tộc Trung ương được quan hệ với các tổ chức làm công tác dân tộc ở Trung ương và địa phương để trao đổi kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ, phối hợp kiểm tra hoặc nghiên cứu những vấn đề về chính sách dân tộc ở địa phương. Ban có nhiệm vụ báo cáo, thỉnh thị, phản ánh tình hình thực hiện chính sách dân tộc và những vấn đề khác có quan hệ đến công tác dân tộc lên Bộ Chính trị, Ban Bí thư (hoặc cấp uỷ).

Ở các tỉnh miền núi và các tỉnh có nhiều dân tộc ít người (khoảng từ 3 vạn trở lên) thành lập Ban Dân tộc của cấp uỷ, biên chế khoảng 5 đến 7 cán bộ nghiên cứu. Cần lựa chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn để bảo đảm làm tốt chức trách của Ban; trường hợp chưa có cán bộ có chất lượng để thành lập Ban thì tạm thời có 1 hoặc 2 cán bộ đặt trong Ban Dân vận – Mặt trận để giúp cấp uỷ theo dõi, nắm tình hình.

Như vậy là từ năm 1955, hai cơ quan làm công tác dân tộc của Trung ương Đảng và của Chính phủ hầu như thống nhất trong một tổ chức, nhất là từ năm 1959 nâng lên Ủy ban Dân tộc của Chính phủ (cơ quan ngang Bộ) với Ban Dân tộc Trung ương, cùng một trụ sở (số 80 Phan Đình Phùng, Hà Nội), có hai con dấu của cơ quan Đảng và cơ quan Chính phủ, thực hiện hai chức năng: Tham mưu cho Trung ương Đảng và quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc.

Từ năm 1979-1982, đồng chí Hoàng Văn Kiểu là Trưởng Ban Dân tộc Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Chính phủ. Thời kỳ 1982-1989, Trưởng Ban Dân tộc Trung ương là đồng chí Hoàng Trường Minh.

Thực hiện Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, để đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới, ngày 16/02/1987, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đã ký Quyết định số 78/HĐNN nhằm kiện toàn một bước các cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, trong đó có nội dung: Giải thể Ủy ban Dân tộc của Chính phủ. Như vậy, cơ quan Dân tộc của Chính phủ từ năm 1987 đã giải thể và chỉ còn Ban Dân tộc Trung ương là cơ quan có trách nhiệm tham mưu cho Trung ương Đảng về các vấn đề dân tộc.

5. Ban Dân tộc Trung ương (1979-1993)

      Sau khi hoàn thành cuộc Cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nước ta có điều kiện để kiện toàn, hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan dân tộc nói riêng. Theo Quyết định số 38-QĐ/TW, ngày 14/5/1979 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Duy Trinh, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng ký nhằm kiện toàn tổ chức, cải tiến chế độ làm việc theo Nghị quyết lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương thì hệ thống Ban Dân tộc ở Trung ương và các tỉnh được kiện toàn.

Để tăng cường tổ chức cơ quan dân tộc Trung ương, ngày 25-8-1988 Ban Bí thư Trung ương ra Quyết định số 62/QĐ-TW về chức năng, nhiệm vụ của Ban Dân tộc Trung ương, đã xác định: “Ban Dân tộc Trung ương có chức năng làm tham mưu tổng hợp cho Trung ương Đảng về công tác dân tộc thiểu số” và có các nhiệm vụ: Nghiên cứu, tổng hợp các vấn đề dân tộc và công tác dân tộc, kiến nghị với Trung ương Đảng những vấn đề về chủ trương, chính sách đối với các dân tộc thiểu số. Kiểm tra việc thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về vấn đề dân tộc thiểu số ở các cấp uỷ Đảng, các tổ chức chính quyền và các đoàn thể. Làm công tác tổ chức cán bộ theo quy định của Trung ương. Phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu công tác xây dựng Đảng ở vùng dân tộc thiểu số và xây dựng chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số. Hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác dân tộc ở các ngành và bộ phận chuyên trách làm công tác dân tộc của các cấp uỷ địa phương. Bộ máy giúp việc của Ban gồm có: Vụ Kế hoạch - Đời sống, Vụ Văn hoá, Giáo dục và Y tế, Vụ Chính trị (bao gồm các lĩnh vực xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, an ninh quốc phòng), Văn phòng Ban (gồm có bộ phận nghiên cứu tổng hợp, Phòng Hành chính - Quản trị và Phòng Tổ chức -Cán bộ cơ quan). Biên chế của Ban gọn nhẹ, sắp xếp phù hợp với chức năng nhiệm vụ, coi trọng chất lượng; gồm những cán bộ có phẩm chất, có năng lực nghiên cứu, tổng hợp, có tinh thần đổi mới, có kiến thức về kinh tế xã hội, có khả năng kinh nghiệm công tác ở vùng dân tộc thiểu số, hiểu biết về công tác tổ chức cán bộ và xây dựng Đảng. Ngoài số cán bộ trong biên chế, Ban được thực hiện chế độ cộng tác viên để phục vụ công tác nghiên cứu, kiểm tra theo yêu cầu của Ban. Ban Dân tộc Trung ương bàn bạc thống nhất với Ban Tổ chức Trung ương về biên chế và chế độ sử dụng cộng tác viên của Ban. Ban quan hệ chặt chẽ với các Ban của Trung ương Đảng, với Văn phòng Trung ương, Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, với các cấp các ngành để trao đổi những vấn đề có liên quan đến chính sách dân tộc.

Từ năm 1989-1992, đồng chí Nông Đức Mạnh là Trưởng Ban Dân tộc Trung ương. Ban Dân tộc Trung ương đã cùng các cơ quan hữu quan nghiên cứu, chuẩn bị nội dung để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27-11-1989 về "Một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế – xã hội miền núi". Đây là văn kiện quan trọng của Đảng, mở đường cho sự đổi mới hoạt động công tác dân tộc. Nghị quyết 22 chỉ rõ: “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với miền núi; kiện toàn tổ chức và tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tham mưu, đủ sức giúp Trung ương cả trong công tác nghiên cứu, ban hành chính sách cũng như việc kiểm tra việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, chính sách kinh tế, xã hội ở miền núi”. Hội đồng Bộ trưởng đã thể chế hóa Nghị quyết của Đảng và ban hành Quyết định số 72/HĐBT ngày 13/3/1990 về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi.




tải về 204.31 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương