Trần Trúc-Lâm những hộ pháp vưƠng của phật-giáo trong lịch sử ẤN-ĐỘ



tải về 0.63 Mb.
trang10/24
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.63 Mb.
#13344
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   24

E. Tiểu Thạch Trụ Pháp Dụ

E.1: TTTrPD I (Còn gọi là Thạch Trụ Pháp Dụ Rummindei)


Hai mươi năm sau khi đăng quang, Thiên tử, Vua Piyadasi đã viếng thăm và lễ bái nơi này bởi vì đây là nơi Đức Phật Thích Ca, Bậc Giác Ngộ đã ra đời. 69 Thiên tử đã cho xây một tường đá bao bọc xung quanh và dựng một thạch trụ. 70 Và vì Đức Thế Tôn đãn sinh ở đây, làng Lumbini 71 được miễn thuế và chỉ đóng một phần tám nông sản. 

---o0o---


E.2: TTTrPD II (Còn gọi là Pháp dụ Sanchi, hay Allahabad)


Thiên tử, Vua Piyadasi lệnh cho Đại thần cai trị ở Kosambi rằng: 72 Kẽ nào đã chia rẽ tăng-già không được thâu nhận vào tăng-già nữa. 

Tăng-già của tỷ-khưu hay tăng-già của tỷ-khưu-ni nay đã được hòa hợp, tiếp tục hòa hợp cho đến đời con và cháu của trẫm, và còn dài lâu như mặt trời và mặt trăng còn soi sáng. 

Kẽ nào, dù là tỷ-khưu hay tỷ-khưu-ni, quấy rối trong tăng già bị buộc phải mặc bạch y 73 và không được sống trong tịnh xá. 74 Ước muốn của trẫm là tăng-già hòa hợp và trường tồn mãi mãi. 

---o0o---


E.3: TTTrPD III (Còn gọi là Pháp dụ Sarnath)


[..] 75 không ai được gây xáo trộn tăng-già.

Nếu một tỷ-khưu hay một tỷ-khưu-ni quấy rối trong tăng già, tăng hay ni ấy phải bị buộc phải mặc bạch y và không được sống trong tịnh xá. 

Pháp dụ này phải được công bố trong tăng-già của tỷ-khưu và trong tăng già của tỷ-khưu-ni. 

Thiên tử, Vua Piyadasi phán rằng: Treo một bản của Pháp dụ này trong hành lang của tịnh xá; trao một bản cho tất cả tín đồ. Tín đồ phải tụ họp mỗi ngày chay để học tập về Pháp dụ này. Mỗi quan lại phải thường xuyên đến dự mỗi ngày chay để làm quen và hiểu rành rẽ Pháp dụ này. 

Lại nữa, ngươi (chỉ vị quan đầu tỉnh) phải ra lệnh xuống khắp nơi thi hành nghiêm chỉnh Pháp dụ này. Các phó quan thuộc quyền của ngươi cũng phải làm như thế ở khắp các châu huyện. 

---o0o---


F. Pháp Dụ Hang Động Karna Chaupar


Mười chín năm sau khi đăng quang, Thiên tử, Vua Piyadasi 76 tặng hang động này, trong dãy đồi thơ mộng Khalatika, không hề bị ngập nước vào mùa mưa. 

---o0o---



Tài Liệu Tham Khảo: 

1. Ven. S. Dhammika, "The Edicts of King Asoka" Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 1993. 
2. Nayarayanrao Appurao Nikam and Richard McKeon, "The Edicts of Asoka", The University of Chicago Press, 1959.  
3. Kenoyer, J.M., "Ancient Cities of the Indus Valley Civilization", Oxford University Press, Oxford, New York, Delhi, 1998.  
4. Possehl, G.L., "Indus Age; The Beginnings", Oxford and IBH Publishing, New Delhi, 1999.  
5. Possehl, G.L., "Harappan Civilization: a Recent Perspective", Oxford and IBH Publications, New Delhi, 1993.  
6. Possehl, G.L, "Indus Age - The Writing" Oxford and IBH Publications, New Delhi, 1999.  
7. Shaffer, J.G., "The Indo-Aryan Invasions: Cultural myth and Archaeological Reality" in "The People of South Asia" edited by J.R. Lukas, Plenum Press, New York, 1984.  
8. Chris J.D. Kostman, M.A., "The Demise of Utopia: Contexts of Civilizational Collapse in the Bronze Age Indus Valley", JAGNES, the Journal of the Association of Graduates in Near Eastern Studies, 2001.  
9. Romila Thapar, "Languages and Scripts of Asoka's Inscriptions". Microsoft Encarta DVD, 2001.  
10. John Snelling, "The Buddhist Handbook", B&N, NY. 1991.  

Trần Trúc-Lâm  


Seattle, trọng thu 2001   

---o0o---


CHƯƠNG BA - KHUNG CẢNH LỊCH SỬ QUANH BỘ KINH “MILINDA VẤN ĐẠO”  (MILINDA-PANHÀ) HAY “NA-TIÊN TỲ KHEO KINH” CỦA PHẬT GIÁO

Dẫn Nhập


Thông thường ai cũng nghĩ rằng đạo Phật chỉ mới được truyền sang tây phương trong các thế kỷ gần đây mà thôi, mà quên rằng trong nhiều thế kỷ trước tây lịch Phật giáo (viết tắt: PG) đã thấm nhuần vùng Tiểu Á và tây bắc Ấn, rồi ảnh hưởng trên cả nền triết học Hy-lạp và giáo lý của vài tôn giáo lớn có nguồn gốc tây phương. Phật tử Việt nam vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo pháp truyền từ Trung quốc nên ít biết đến sự giao hòa của hai nền văn hóa Hy-lạp và PG khởi đầu rất sớm ở vùng đất này. 

Ngay cả khi đức Phật Thích Ca còn tại thế, vùng đất xa xôi này đã tiếp xúc với PG rồi. Trong một bộ kinh của Thượng tọa bộ (Theravada) có ghi câu chuyện hai thương nhân, tên Tapassu và Bhallika từ xứ Bactria tìm đến viếng đức Phật và đã trở thành đệ tử. Lúc về xứ họ đã xây dựng nhiều đền đài thờ Phật. 

Khi Alexander xâm chiếm Bactria vào 329-327 TTL (cùng khỏang với thời Chiến quốc bên Tàu: 403-221 TTL), thì vùng này đã thuần PG. Đến thời của hòang đế Asoka Maurya (từ 269 đến 232 TTL), thì biên cương của Ấn Độ được mở rộng bao gồm luôn vùng Gandhara nhờ đuổi được quân Hy lui về bên kia dãy núi Hindu-Kush. Ông cũng đã gởi nhiều đòan truyền giáo được ra hải ngọai để truyền bá Phật pháp, do đó PG đã được lan tràn mạnh mẽ hơn. 

Chính từ những hạt giống PG do hoàng đế Asoka gieo ở vùng này dần lớn mạnh và đã để lại ảnh hưởng khá sâu đậm trong vùng tây bắc Ấn, và còn lưu mãi đến nay như ảnh tượng đức Phật theo mỹ thuật Hy-lạp, những ý niệm manh nha của PG đại thừa phát sinh từ những trung tâm văn hóa PG có một thời rất rực rỡ, và một bộ kinh không kém phần quan trọng, đó là bộ Milinda-Panhà, đã được Việt dịch là "Di Lan Ðà vấn kinh" hay dưới nhiều tên tương tự. 

Bài khảo luận này không bàn sâu vào giáo nghĩa của bộ kinh, vốn đã có nhiều tác giả đã luận giải, mà chỉ chú trọng vào lược sử thời đại của hai nhân vật chính của bộ kinh đã sống, đó là vua Mi-Lan-Đà và tỳ kheo Na-Tiên. 

---o0o---


Vương quốc Bactria và xứ Gandhara ở đâu?


Đối với dân Aryans đã tràn vào đất Ấn (Arya-Varta) hơn 15 thế kỷ TTL, thì vùng tây bắc Ấn là đất của Gandharvas hay chư thiên với ngọai hình tuyệt hảo, rành về âm nhạc, giỏi về thần thông, vốn thường được nói đến trong Kinh Rig-Vedas (Vệ đà), một bộ lịch sử cổ nhất của nhân lọai, cho nên dân Ấn gọi vùng này là xứ Gandhara với kinh đô Taxila (tiếng Sankrit là Takshasila, gần Rawalpindi thuộc Pakistan bây giờ), nay thuộc Afghanistan và Pakistan, nơi phì nhiêu với 5 con sông chảy qua nên Hán văn còn gọi là vùng Ngũ Hà, chính là phụ lưu của con sông Indus bắt nguồn từ Hy-mã-lạp-sơn.  Sau khi nền văn minh của thung lũng sông Indus bị tàn lụi thì vua Darius (522 to 486 TTL) dẫn quân Persia chiếm vùng này. 

Vào thời bấy giờ lối giao thương chủ yếu dựa vào đường bộ, và vùng ấy lại nằm trên tuyến chiến lược từ châu Âu ở phía tây qua châu Á ở phía đông, từ Trung Á ở phía bắc xuống lục địa Ấn ở phía nam, cho nên dân tình vùng này không bao giờ được yên ổn lâu dài vì các thế lực đế quốc luôn luôn xâm lăng nó để làm bàn đạp tiến xa hơn. 

Ngày nay, các tư liệu về gai đoạn lich sử này đã được công bố rất dồi dào, và bài này đã chọn lọc, so sánh và tổng hợp từ rất nhiều nguồn khác nhau như sử liệu cổ của các nước trong vùng Pakistan, Afghanistan và Trung đông do các tác giả hiện đại biên sọan, từ những cổ vật do các nhà khảo cổ ngừơi Pháp đào xới được, từ rãi rác trong thánh điển Pali và đại thừa, các ảnh tượng đức Phật tồn tại đến nay vv… Ở đây cũng xin được lưu ý đọc giả đến nguồn sử liệu quí giá về các vị vua gốc Hy-lạp ở vùng Tiểu Á đã được hai nhà sử học danh tiếng Hy-lạp cổ là Strabo và Plutarch ghi lại. 

Strabo (sinh 63 hay 64 TTL, mất khoảng 24 TL), một sử, triết và địa lý gia Hy-lạp. Tác phẩm nổi danh của ông là Geographia, gồm 17 cuốn viết vào khỏang năm 7 hay 18 TL về nhân vật, địa danh, trên thế giới Hy-La vào thời ông. 

Plutarch, tên đầy đũ là Mestrius Plutarch, một nhà sử học và tiểu sử danh nhân học, cũng là người Hy-lạp sau Strabo (khỏang 45-125 TL). Ông sinh vào thời của hòang đế La mã Claudius. Ông tham quan rộng rãi vùng Địa trung hải, và về sau giảng dạy tại Rome, kết giao với nhiều nhân vật chính trị uy quyển trong Thượng viện. Cuối đời, ông quay về sinh quán là Chaeronea ở Hy-lạp, trở thành một trong hai tu sĩ chính trong đền thờ Apollo ở Delphi, chuyên giải những lời sấm của thần Pythia. Ông còn được hòang đế Trajan cử làm thái thú tại vùng Achaea. Trong thời gian này ông viết nhiều bộ sử quan trọng. 

Tác phẩm nổi danh của ông là “Cuộc đời của những danh nhân Hy-lạp và La mã (Lives of the Noble Greeks and Roman)”; nhưng bộ sách còn được chú trọng khác là “Những cuộc đời tương đồng” (Parallel Lives) so sánh 23 cặp danh nhân Hy và La; và “Cuộc đời của Alexander”(Life of. Alexander). Nói chung những tác phẩm của ông đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền văn học và kịch nghệ tây phương, ngay cả Shakespeare cũng thường tham chiếu. 

Trước đấy, vua Darius I (521-486 TTL) của Persia cũng đã sai người xứ Carian tên Scylax thám hiểm vùng tây bắc Ấn, và đã ghi lại trong cuốn ``Peripulus''. Không lâu sau Hectaeus (500 TTL) và Herodotus (483-431 TTL) cũng có viết về các thái thú (Satrapy) người Persia ở vùng này. 

Đến thời vua Alexander, những cuộc khảo sát cũng đã được ghi lại bởi Strobe, Ptolemy, Pliny, Arrian và nhiều người khác. Họ cho biết 5 phụ lưu của sông Indus là Hydaspes (Jehlum), Akesines (Chenab), Hydroatis (Ravi), Hyphasis (Satluj) và Hesidros (Beas); làm biên giới cho 4 vương quốc trước khi Alexander xâm lăng. 

---o0o---



tải về 0.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương