Trần Trúc-Lâm những hộ pháp vưƠng của phật-giáo trong lịch sử ẤN-ĐỘ


Hòang Đế Kanishka I (127 - 151 L)



tải về 0.63 Mb.
trang18/24
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.63 Mb.
#13344
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   24

Hòang Đế Kanishka I (127 - 151 L)


Tiền vàng có hình vua Kanishka I (khoảng 130 TL). Kanishka đứng thẳng trong bộ chiến phục Kushan, ủng cao, ngọn lửa phát ra từ hai vai, tay trái cầm uy trượng, đang dâng cúng vật trước bàn thờ. Ghi chú bằng chữ Hy-Bactrian viết "Shaonanoshao Kanishki Koshano": có nghĩa "Vua của các vua, Kanishka dân Kushan".

Tuy Kanishka được biết như là một ông vua lừng danh của đế quốc Kushan; và đã được kinh sách Đại thừa PG ca tụng như một Hộ pháp vương vĩ đại; thế mà vì những nghiên cứu sử học ở vùng thung lũng tây bắc Ấn cho đến nay chưa được khảo sát tường tận nên chưa có một sự đồng thuận về thời gian trị vì của ông. Có thuyết cho là từ 78 TL đến 103 TL, có người bảo là từ 78 đến 144 TL, kẻ khác lại cho là từ 100-164 TL hoặc từ 128 đến 151 TL. 




Hoàng Đế Kanishka

Cho đến nay đã có 3 cuộc hội nghị chuyên đề tại Luân đôn để giải quyết việc này vẫn chưa đem lại kết quả cụ thể.  Gần đây những bàn luận đã tập chú vào thời kỳ từ năm 100 đến 140 TL. Nhưng vào năm 2004, nhờ vào một khám phá trong việc nghiên cứu của Harry Falk thấy rằng thời trị vì của Kanishka đã được dân Kushan xưa dùng làm niên đại đầu của lịch mới trong suốt một thế kỷ cho đến khi đế quốc bị tan rã, nên nhiều người thấy năm đăng quang của Kanishka là 127 TL có vẻ khả tín hơn. [Falk, Harry (2001): “The yuga of Sphujiddhvaja and the era of the Kuṣâṇas.” Silk Road Art and Archaeology VII, pp. 121-136.]



Bức tượng bằng đá bị hư hỏng của vua Kanishka, tương tự hình được khắc trên đồng tiền, được trưng bày ở Viện bảo tàng Mathura.

Những chứng cớ về cuộc đời của vua Kanishka đã được gom góp lại từ những di tích khảo cổ và trong văn học PG. Khi ông lên ngôi thì đế quốc Kushan đã hùng cường; tuy vậy ông lại bành trướng thêm dựa vào sự lấn chiếm các nước nhỏ quanh vùng, đặc biệt là về phía đông. Sự bành trướng này nhằm 2 mục đích: 1) Giữ vững sự kiểm soát “con đường tơ lụa”; con đường kinh tế huyết mạch của thế giới thời bấy giờ. 2) Truyền bá PG qua Trung hoa. 

Dưới thời Kanishka, kinh đô của đế quốc Kushan là Purushapura, bây giờ là Peshawar ở  Pakistan, nằm ở vùng thượng lưu của các sông Indus và Ganges. Đế quốc Kushan thời này rất rộng. Nó trãi dài từ Uzbekistan và Tajikistan, vùng Trung Á, trên đồng bằng Oxus ở phía tây bắc Ấn đến Varanasi ở phía đông; từ Kashmir ở phía bắc đến Mathura và Gujarat ở phía đông nam bao gồm xứ Malwa. Có lúc còn lan đến vùng Kashgar, Khotan và Yarkand, là các chư hầu của Trung quốc ở lưu vực sông Tarim, Tân Cương ngày nay. Nhiều đồng tiền có hình vua Kanishka đã đào được ở đây. Để cai trị hiệu quả một đế quốc rộng lớn, hoàng đế bổ nhiệm các quan satraps (thái thú), meridareks (huyện trưởng), và strategoi (quân khu trưởng) phụ trách các miền. 

Vì kiểm soát được con đường tơ lụa và đánh thuế cao trên những lái buôn ngoại quốc đi qua các quan ãi của lãnh thổ đế quốc Kushan nên nền kinh tế trong vùng rất sung túc với các thành phố lớn, nhiều đền đài cung điện huy hoàng, thương mãi sầm uất và nhiều nghiệp đoàn nghệ nhân tụ hội từ các xứ tây và đông phương. Nhờ vậy mà nền văn hóa và học thuật cũng phát triễn cao độ khi tiếp có sự giao lưu giữa các nền văn minh lớn từ La Mã (trong thời của các hòang đế Trajan và Hadrian: 98-138 TL) và Trung quốc (dưới triều nhà Hán).

---o0o---


Sự dung hòa các nền văn hóa


Trong sự phát triển và lớn mạnh của đế quốc Kushan đã có sự tiếp thu và dung hòa nhuần nhuyển các nền văn hóa địa phương; rõ nét nhất là dưới triều vua Kanishka. Điều này được biết đến qua các đồng tiền thời ông đã đào được trong các cuộc khảo cỗ ở vùng Kashmir. Trong đó đồng tiền thời vua Kanishka có mang nhiều dấu vết đa thần từ Ấn giáo, PG, Hy-lạp, Persian và ngay cả thần của xứ Sumerian-Elamite trong Zoroastrian (Bái hoả giáo). Nó cho thấy có sự thay đổi chuyển tiếp trong ảnh hưởng của các nền văn hóa, và nổi bậc là PG.

Tương tự như các nhà cai trị quân chủ khác, Kanishka cũng cho mình có “thiên mệnh”. Ông mang nhiều danh vị đã được khắc trên các đồng tiền dưới thời ông như “Vua của các vua”, “Đại vương”, “Thiên tử”, và “Hoàng Đế”. Sau khi băng hà cũng được thần dân thánh hóa và xây điện thờ. 




Mặt sau của đồng tiền vàng có hình của nữ thần Hy-lạp Helios. (kh. 130 TL).

Một vài đồng tiền ở những năm đầu trị vì của Kanishka đào được cho thấy dân Kushan chịu nhiều ảnh hưởng Hy-lạp với ghi chú bằng chữ Hy trên đồng tiền, ví dụ ΗΛΙΟΣ (Nhựt thần Helios), ΗΦΑΗΣΤΟΣ (Hỏa thần Hephaistos), ΣΑΛΗΝΗ (Nguyệt thần Selene), ΑΝΗΜΟΣ (Phong thần Anemos). 

Về sau dân Kushan dần chịu thêm ảnh hưởng của Iran và Ấn, ví dụ như dấu triện mang hình thần Iran tên Adsho đang cởi ngựa. Sau giai đoạn chuyển tiếp ở Bactria, nhiêù hình thần Persian thấy xuất hiện trên đồng tiền dưới chữ Hy-lạp như ΜΑΟ (Nuyệt thần Mao), 




Vua Kanishka và Nguyệt thần Mao 
ΟΑΔΟ (Phong thần Oado), ΜΙΘΡΟ ("Mitro", Mithra), vv..

và một số thần Ấn giáo cũng được đúc theo như ΟΗϷΟ "Oesho", hóa thân của thần Shiva.

Ông còn khuyến khích sự dung hòa giữa các trường phái nghệ thuật PG-Hy và Mathura của Ấn giáo, cùng với nền học thuật Gandhara của PG. Dưới triều ông nền văn hóa Gandhara được phát triển mạnh mẽ và đạt đến tuyệt đỉnh cao độ với nhiều học giả, cao tăng, luận gia qui tụ. 

---o0o---


Vua Kanishkan và sự hưng thịnh của phái Đại thừa PG


Các tiên vương trước thời Kanishka đều tôn thờ đa thần giáo, nhưng đến thời ông thì trở nên một Phật tử thuần thành. Thời bấy giờ phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivādins) của Đại chúng bộ đã bén rễ vững chắc ở vùng Kashmir và Gandhara. PG đã được truyền bá đến vùng này nhờ vào đoàn truyền giáo thứ 2 do đại sư Majjhantika cầm đầu theo lệnh vua Asoka, và lời đề nghị của cao tăng Moggaliputta Tissa sau kỳ kêt tập kinh điển lần thứ ba tại Pàtaliputra vào khoảng năm 256 trước TTL.

Được sự hộ trì của vua Kanishka, phái Nhất thiết hữu bộ càng được phát triễn mạnh mẽ và cao điểm là nhà vua đã bảo trợ cho lần kết tập kinh điển mà trong Phật sử đại thừa gọi là lần thứ tư, vào năm Phật lịch 618, tức khỏang đầu TK thứ 2 TL, tại Jālandhar Kashmīrthat, Kashmir, gồm 500 vị tỷ-kheo dưới sự chủ tọa của đại sư Vasumitra (Thế Hữu, dịch âm là Bà-tu Mật-đa). Mục đích của kỳ kết tập này là để soạn ra các bộ luận: Kinh Sớ, Luật Sớ và Luận Sớ. Ðại hội này chính là khởi điểm cho sự phát triển của Ðại thừa (Mahayana) về sau; và cũng nhờ vua Kanishka mà PG đã được truyền sang Trung quốc vào khoảng thế kỷ thứ 2 TL. 

Lần kết tập này đã ghi lại tam tạng kinh bằng tiếng Sanscrit, và được khắc lên rất nhiều tấm đồng, đặt rong những hòm đá và  để thờ trong các tháp; thế nhưng ngày nay nội dung những bản kinh này chỉ còn lưu truyền qua các bản dịch Hán tự. 

Cũng trong thời kỳ huy hòang này có sự xuất hiện của những đại luận gia PG như Nagarjuna (Long Thọ), Vasumitra (Bà-tu Mật-đa: Thế Hữu) và Asvaghosha (Mã Minh). Tương truyền Asvaghosha còn giữ vai cố vấn tôn giáo cho nhà vua.

Vào giữa thê kỷ thứ 2, tăng đoàn ở Gandhara đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá PG về phương bắc và đông Á châu. Một cao tăng người Vu-điền, tên Lokaksema (Chi-Lâu-Ca-Sấm, kh. 178 TL), đã đến hoằng hóa tại kinh đô Lạc-dương (Lo-yang) trở thành người đầu tiên dịch các kinh Đại thừa ra Hán ngữ. Từ đó con đường truyền bá PG sang Trung quốc đã thiết lập vững vàng. 

Chính dưới thời Kanishka đã làm cho PG thay đổi triệt để để thích nghi với thời đại mới. Nhiều học giả đề ra giả thuyết cho rằng với đế quốc rộng lớn kiểm soát con đường tơ lụa nối từ châu Âu đến châu Á làm dung hòa nhiều tư tưởng tôn giáo đông tây và bản địa, đã xúc tác cho việc phát triển tư tưởng Đại thừa, chủ yếu ở phia bắc Ấn (nên Phật sử hay gọi là “bắc truyền”). Người ta cũng cho rằng vì thế mà làm cho cốt lỏi PG bị biến đổi nên suy yếu tại quê hương mình; và Ấn giáo có cơ phục hồi một khi đế quốc Kushan của ông bị tan rã. Nhưng người khác lại cho rằng sự di cư ồ ạt của những bộ tộc du mục ở nội lục địa Á châu vào vùng tây bắc Ấn dươi thời thịnh trị của Kanishka, hoặc tràn sang châu Âu đã tàn phá những nền văn minh và học thuật của địa phương trong đó có La-Mã và PG, và đã đưa châu Âu vào thời kỷ Trung cổ tối tăm. Những ý kiến này cần phải được tìm hiểu cặn kẻ thêm trước khi có một kết luận chính xác. 

Vua Kanishka còn cho xây một đại tháp hùng vỹ tại thành Kanishkapur (mang tên ông) ở Peshawar không xa đèo Baramula là bao để thờ phụng xa-lị Phật trong một chiếc hộp bằng vàng.

Ngày nay đại cổ tháp chỉ còn trơ lại cái nền cao năm tầng. Vào các năm 1908-1909, các nhà khảo cổ đã xác định được rằng nền tháp có đường kính là 286 bộ (feet), và chiều cao thì ký sự của đại sư Trung quốc chiêm bái Huyền Trang (Xuan Zang) đã ghi là từ 600 đến 700 bộ Tàu, tức khoảng 180-210 metres hay 591-689 feet; cao khoảng 13 tầng nhà theo tiêu chuẩn ngày nay, bằng gỗ chạm trổ tinh vi được chống đở bởi hàng cột bằng sắt mà bên trên cột toả ra với bệ đở bằng đồng mạ vàng. Rõ ràng nó là một kỳ quan của nhân loại vào thời bấy giờ.

 

Hộp chứa xá-lị (s. sarira) của đức Phật Thích Ca do vua Kanishka dựng, cho thấy có đúc tượng Phật đang ngồi thiền định và bao quanh bởi Brahma và Indra. Kanishka đứng phí dưới bên trái. Một mẫu sao được lưu giữ ở British Museum.

Hộp xá-lị chính của đức Phật Thích Ca tương truyền có chứa ba mảnh xá-lị (xương Phật) vốn được tôn thờ trong đại tháp tại Shah-Ji-Ki-Dheri, ngoại ô Peshawar đã được an trí ở Mandalay, Miến Điện vào năm 1910; còn hộp thì được lưu giữ ở Viện Bảo tàng Peshawar. 

Hộp chứa xá-lị có khắc giòng chữ Kharoshthi: "(*mahara) jasa kanishkasa kanishka-pure nagare aya gadha-karae deya-dharme sarva-satvana hita-suhartha bhavatu mahasenasa sagharaki dasa agisala nava-karmi ana*kanishkasa vihare mahasenasa sangharame" “Thần tử Agisalaos (gôc Hy-lạp), quản đốc mọi công việc tại đền Kanishka trong tu viện Mahasena.”

Chung quanh có điêu khắc hai hình đức Phật ngồi trên tòa sen được hoàng gia hầu kính, và hình các thần Persian như Nhật thần và Nguyệt thần. Một tràng hoa trang trí chạy vòng quanh hộp. 

Hiện nay đang có sự bàn cãi về vị vua nào là người cho làm chiếc hộp dựa vào hình vua trên hộp không có râu rậm như hình thường thấy về vua Kanishka. Có người cho là đó là hình của vua kế vị là Huvishka. 



Vua Kanishka trong truyền thống PG thường được mô tả như một bạo quân vô đạo trước khi qui y PG như trong kinh Sri-dharma-pitaka-nidana sutra: "Bấy giờ vua xứ Ngan-si (Pahlava) rất ngu xuẩn và tâm tánh cuồng bạo. Một vị A-la-hán nhìn thấy những việc ác mà nhà vua đã làm liền muốn làm nhà vua hồi tâm nên đã dùng thần thông cho nhà vua thấy cảnh sẽ bị tra tấn ở địa ngục. Nhờ thế nhà vua kinh hãi và hồi tâm.” [theo Kumar, Baldev. 1973. The Early Kuṣāṇas. Trang 95 New Delhi, Sterling Publishers].

Ngoài ra việc xuất hiện của vua Kanishka và việc xây dựng đại tháp vốn đã được đức Phật báo trước. Trong Vinaya sutra kể: “... đức Phật chỉ vào đứa bé đang ngồi chơi xxây tháp với đất sét .. [phán rằng] chính trên chỗ này, Kanishka sẽ xây một bảo tháp mang tên ông ấy.” [trang 91; SKT].

Câu chuyện tương tự đã được ghi lại trong một cuộn kinh tiếng Khiết Đan tìm thấy ở Đôn Hoàng (Dunhuang), báo trước việc vua Kanishka sẽ xuất hiện 400 năm sau khi đức Phật nhập Niết bàn và xây một đại tháp. [trang 89; SKT]

Đại sư Huyền Trang khi đi chiêm bái qua Ấn vào khoảng năm 630 cũng ghi lại câu chuyện này. [trang 93, SKT]

Các đồng tiền được đúc vào thời vua Kanishka có hình đức Phật Thích Ca và Di Lặc đào được chỉ chiếm khoảng 1%. Mặt kia có hình nhà vua như đã thấy ở trên. Hình ảnh trên các đồng tiền thời khắc chưa được khéo, không chi tiết và thiếu cân đối. 






Mặt sau của đồng tiền vàng có hình của đức Phật (kh. 130 TL) với giòng chữ Hy-lạp ΒΟΔΔΟ ("Boddo", đức Phật), hay ϷΑΚΑΜΑΝΟ ΒΟΔΔΟ ("Shakamano Boddho", đức Phật Thích Ca, hay Ο ΒΟΔΔΟ ("Metrago Boddo", đức Phật Di Lặc).

Dưới đây là 6 mẫu tiêu biểu được vẽ lại. 




Tượng Phật mặc áo tu sĩ theo kiểu Hy-lạp, gồm antaravasaka, uttarasanga,  


và áo khoác ngoài sanghati.


Hình Phật Thích Ca trên tiền bằng đồng cho thấy hình vẽ áo cà sa rất mỏng, có lẻ là lớp áo lót antaravasaka và uttarasanga. Tay trái khoác dãi uttariya.

 

 



Các mẫu khắc trên đồng tiền vàng về đức Phật đã được biểu tượng hóa khá xa với dáng tự nhiên của các điêu khắc kiểu Hy-lạp ban đầu ở Gandhara.




Hình đức Phật Di Lặc dược kkhắc trên đồng tiền Kanishka, mang giòng chữ "Maitreya" (ΜΕΤΡΑΓΟ ΒΟΔΔΟ "Metrago Boddo") đang ngồi kiết già và tay trái làm địa ấn (Abhaya mudra).


Tượng đồng Phật đứng đúc ở Gandhara, khoảng TK 3 hay 4.

---o0o---




tải về 0.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương