Trần thị Vĩnh-Tường Con Đuờng Tơ Lụa


Văn minh Tây Vực vào Trung Hoa qua ngả Tân Cương



tải về 451.69 Kb.
trang7/8
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích451.69 Kb.
#35367
1   2   3   4   5   6   7   8

Văn minh Tây Vực vào Trung Hoa qua ngả Tân Cương


Hai ngàn năm trước, người Hoa gọi vùng mênh mông từ Tân Cương, Trung Á, Tây Á là Tây Vực. Dân cư gồm người Xiongnu/Hung Nô, Yuezhi/Nguyệt Chi, Greco-Bactrian/Hy Lạp, Persian/Ba Tư, Turkic, Indian/Ấn Độ. Mỗi đế quốc lại đặt tên đánh dấu ảnh hưởng của họ, nhưng dân cư thì vẫn chỉ thuộc hai đại chủng da vàng và da trắng. Mỗi chủng lại có nhiều chi chủng. Người Hoa gọi tuốt luốt là “rợ Hồ”.

Tràng An đời Đường, dân không-Hán lên đến một triệu người, đủ thứ “rợ”.  Đông nhất là “rợ” Hồ, tăng lữ, nhạc sư, hoạ sĩ, vũ sư, học giả, quan văn võ, nhất là thương nhân. Trung tâm buôn bán của Trường An là của người Hồ. Trường An có nhiều Hồ điếm (cửa hàng), Hồ đề (khách sạn). Trường An đầy văn hoá Hồ: bạch ngọc Hồ, tôn giáo Hồ, sáo Hồ, múa Hồ, y phục Hồ, ăn uống kiểu Hồ, bánh trái Hồ, rượu nho Hồ rót trong chén dạ quang Hồ. Ngựa Hồ đáng giá hơn cả mạng người. Xứ Trung Hoa có mía, nhưng phải đợi đến người Hồ mới biết làm đường. Lý Bạch tả các cô gái Hồ nơi quán ruợư “Đẹp như hoa không biết ở đâu lạc đến thế này?”

Người Hồ Ả Rập vào Trung Hoa mang theo hương liệu, ngà voi. Người Hồ Ấn độ mang đá quí, ngọc trai, trầm hương. Nhóm ảnh hưởng nhất tới Trung Hoa là Hồ Ba Tư nhờ địa bàn sát bên: vương triều Saka ở Khotan, cung cấp bạch ngọc nephrite và thợ khéo. Tại Trường An, người Ba Tư mở nhà hàng nấu món ăn Trung Á. Họ giới thiệu với giới văn nhân, học giả môn cỡi ngựa đánh cầu, thảm quí, nước hoa, đồ dùng bằng vàng bạc. Họ mang đến trào đình thú lạ, chim quí, cây kiểng, thuốc men, đồ thêu, tranh vẽ, âm nhạc, nữ trang, đồ sành sứ, đồ thuỷ tinh…Họ là người đánh giá các món nữ trang bằng vàng bằng ngọc bằng mắt thường. Nữ trang của họ vẽ riêng cho trào đình, thợ Trung Hoa (hồi đó hay bây giờ) không làm nổi, phải mời “rợ” Hồ qua với đãi ngộ đặc biệt, không tù đầy giam lỏng hay đe doạ chặt đầu như với đám thợ người Hoa. Đồ cổ ngoạn bằng ngọc tinh xảo mỏng chừng 3mm của hoàng gia, chắc chắn do tay nghệ sĩ “rợ” Hồ Yuezhi. Nhà Đường (618-907), mà ông vua chuộng mỹ thuật, ham chơi là Đường Minh Hoàng nhất nhất bắt chước rợ Hồ, kể cả sủng ái tướng An Lộc Sơn -người Đột Quyết-. cho đến khi mất ngôi.     

Người mình quen gọi “Ba Tư” cho cả đế quốc Persia và quốc gia Iran. Iran ngày nay chỉ rộng 1,648,195km2, chỉ là một cái đuôi sao chổi của đế quốc Persia. Đế quốc này là một chuỗi những triều đại khởi đi từ cao nguyên Iran trong hơn 6000 năm. Huy hoàng nhất, dưới trào Darius đại đế (522 - 485 TCN), Persia trải từ Tây Á châu, Trung Á, vùng Caucasus, đến cả Bắc Phi, phủ một diện tích 7.500.000 km², với nhiều chủng tộc, triều đại…Nhưng sắc dân độc giả thoáng thấy trong bài này như Parthia, Sogdiana, Yuezhi, Saka, Scythia, Khotan, được các học giả phương Tây xếp vào tộc da trắng Indo-Aryan, lý do vì họ dưới sự cai trị của người Perse, không có nghĩa là họ cùng sắc tộc/văn hoá/tôn giáo với người Perse. Năm 1935, Vua Reza yêu cầu cộng đồng thế giới gọi Persia là Iran. Các học giả phản đối cho rằng việc đổi tên sẽ làm mất đi quá khứ huy hoàng. Vì vậy năm 1959, vua Mohammad Reza kế vị, cho lệnh dùng cả hai tên. Ngày nay, tên Iran dùng trong chính trị ngoại giao, còn tên Persia dùng cho văn hoá và lịch sử.

Nói chung, giữa Tây Vực và Trung Hoa, sự giao lưu kinh tế và văn hoá đã biến đổi toàn vùng thành một nơi muôn màu muôn vẻ. Người Hoa cũng xuất cảng sản phẩm sang Tây Vực, giấy, la bàn, trà, thuốc súng, kỹ thuật in ấn, đào giếng, và nhất là tơ lụa. Triều đình Trung Hoa nào cũng chuộng hàng hoá rợ Hồ. Duy nhất, chỉ Từ Hy Thái Hậu bài ngoại mù quáng, cái gì cũng cho là quỉ sứ, ngoại trừ bạch ngọc nephrite giữ khư khư. Đời GiangThanh mù quáng không kém, đến nỗi có lúc bao nhiêu vườn nho ở Tân Cương phải đào xới vứt đi.

Thời điểm người Tây Vực vào Trung hoa


Thống kê năm 1990, số Muslim ở Trung Hoa 17.6 triệu: gồm 8.6 triệu Hui; 7.2 triệu Uighur; 1.1 triệu Kazakhs; 375,000 Kyrghyz; 33,500 Tajik và 14,500 Uzbeks. Người Tây Vực đến Trung Hoa vào nhiều thời điểm, cả đường bộ lẫn đường biển.

Phía Tây Bắc Trung Hoa, sau khi Con Đường Tơ Lụa hình thành thế kỷ thứ ba TCN, người Ả Rập, Ba Tư, Trung Á và Mông Cổ đổ vào đất Trung Hoa như nhũng con bướm say ánh đèn đêm. Họ băng sa mạc, vượt núi non trên lưng những con lạc đà chất đầy hàng hoá. Mỗi chuyến đi về có thể từ 2 đến 8 năm. Vì vậy, dần dần có những người định cư ở Tràng An.

Phía Đông Nam Trung Hoa, thế kỷ thứ 7 đời nhà Đường, một số thương nhân Arabia/Ả Rập và Persian/Ba Tư tới Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tô, Hàng Châu bằng đường biển. Quảng Châu từ đó đụơc xem là “Con Đường Tơ Lụa” trên biển nối với Con Đường Gia Vị đã có từ 3000 năm TCN bởi những thương nhân từ bán đảo Ấn độ đến Ả Rập, La Mã, Ai Cập. Những thứ như quế, hồi, đậu khấu, gừng nghệ, muối …3000 năm trứơc đồng nghĩa với lối sống xa hoa và những chuyện thần kỳ kiểu Ngàn Lẻ Một Đêm. Giữa mùi hành tiêu tỏi ớt cay nồng thấp thoáng bóng giai nhân uốn mềm như rắn thơm như trầm hương mát như sữa dê khiến quỉ thần trên thiên giới hân hoan xếp hàng đợi bị đầy xuống trần gian.  

Năm 758, vua Đường Túc Tông, kế vị Đường Minh Hoàng, cầu cứu vua Abbasid ở Baghdad gửi 20,000 quân dẹp loạn An Lộc Sơn. Sau đó, đám 20,000 này ở lại Cam Túc và Ninh Hạ.

Năm 801, người Tây Tạng tuyển 20,000 lính đánh thuê người Arab và Sogdian giúp họ đánh nhau với đế quốc Nam Chiếu/Nanzhao ở Vân Nam. Người Tây Tạng bị thua, nhưng đám quân nhân này vẫn ở lại Tây Tạng. Từ đó, người Tây Tạng trở thành đồng minh duy nhất của người Hui. Năm 1652, vị Đat Lai Lạt Ma Thứ Năm đến thăm Ngân Xuyên, thủ đô của Ninh Hạ/Ningxia.

Khoảng 1070-1080, Tống Thần Tông mời 15,000 quân Ả Rập đến làm vùng đệm giữa Trung Hoa và đế quốc Liêu của người Khiết Đan. Độc giả có thể nhẩn nha đọc lại đoạn sử này đựơc tiểu thuyết hoá trong Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung, với bi kịch muôn đời tình nưóc/tình riêng, Tiêu Phong tráng sĩ bồng xác A Châu ngơ ngác giữa Nhạn Môn Quan không biết về đâu.

Đại hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt (1215-1294) sáng lập nhà Nguyên mang 3 triệu người Trung Á vào Trung Hoa giúp phù tá triều đại của ông. Họ là quân nhân trung thành, thương nhân thành công và là thợ khéo. Duới thời nhà Đường đến nhà Nguyên, tiếng Trung Hoa gọi người Muslim ở East Turkestan là Uyghur, gọi người Muslin ở Ninh Hạ và trong nội địa là Hui. Người Hui gần gũi với người Hán về ngôn ngữ, chữ viết, văn hoá, phong tục. Người Uyghur, nguợc lại, không hề chia sẻ với người Hán điều gì. Câu nói phổ thông cho thấy tình trạng giữa hai khối trong/ngoài quan ải:

Người Uyghur ghét người Hui vì họ là người Hán.

Người Hán ghét người Hui vì họ theo Islam.

Thâm cung bí sử cho Chu Nguyên Chương (1328-1398) gốc gác xa gần là người Hui. Vì vậy đám Minh giáo (gồm Hoả giáo và Mani giáo, thờ lửa) hết lòng phò tá ông. Để trả ơn, Chu đặt tên triều đại của ông là “Minh triều”. Triều Minh che chở người Hui khỏi sự nguợc đãi của người Hán, cho họ nhiều đặc quyền về tôn giáo, chính trị. Họ là những sử gia, nhà toán học, thiên văn, học giả, thầy giáo, thông dịch, cận thần tin cậy, sứ thần ở Roma, Bagdad và Istanbul. Họ đã đủ đông làm một cộng đồng Huihe giầu có và vững mạnh. Họ không chỉ nắm thương trường, nghệ thuật mà còn can thiệp vào cả chính trường Trung Hoa. Tuy vậy, Chu ra lệnh bắt họ phải kết hôn với người Hoa, nói tiếng Hoa và y phục kiểu Hoa. Từ đó, người Hui mất dần căn tính Hui. Gần cuối đời, Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái Tổ chợt sợ rằng chính đám Minh giáo này có thể đe doạ ngai vàng của ông, nên đang từ Minh giáo sáng chói, ông đàn áp họ, cho họ là Ma giáo, khiến đám Nho gia hết sức hả hê. Tiểu thuyết gia Kim Dung hình như không đồng ý với điều này, nên đã xây dựng nhiều nhân vật Minh giáo xuất sắc trong bộ Cô Gái Đồ Long, trong đó Trương Vô Kỵ xả thân cứu Minh giáo.  Giòng văn chương/văn học Việt Nam còn thiếu một ngòi bút như Kim Dung nói lên những bề khuất đầy rẫy trong của sử Việt.

Ngươi Huihui nội địa là hậu duệ của cả hai ngả di dân đường biển và đường bộ nói trên. Họ có những dây liên hệ kinh tế và văn hoá với người Hán và người Mông Cổ. Họ ở rải rác khắp nứơc Trung Hoa quây quần xung quanh thánh đường Islam. Khi lập gia đình với các sắc tộc khác, họ cải tên Muslim cho ngắn bót:

Sai cho Said;

Sha cho Shah;

Ha cho Hasan; Hu cho Hussein;

 Zheng cho Shams;

 Chuah cho Osman;

Koay cho Kamaruddin;

Ma, Mu, Han cho Muhammad;

Người Hui nổi tiếng nhất là thái giám Hajji Mahmud Shams, حجّي محمود شمس , tên Trung Hoa: Zheng He, tên Việt: Trịnh Hoà (1371–1433), nhà hàng hải kiêm ngoại giao Muslim nổi tiếng.  Ông là hậu duệ đời thứ 6 của Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar, một viên quan ở Vân Nam, có gốc gác từ thủ đô Bukhara của nứơc Sogdiana - Uzbekistan hiện nay. Sinh tại Vân Nam, năm 11 tuổi Zheng He bị tuyển làm thái giám cho triều Minh. Ông mất khi ghé một hải cảng ở Ấn Độ. Zheng He được thuỷ táng, mộ phần trống rỗng ở Vân Nam quạnh quẽ. Ông không may mắn như những thái giám chết già khác: không được nhận lại phần thưởng cuối cùng từ lệnh thiên tử: bộ phận sinh dục đã héo khô chứa trong một cái chai khằng kín.

Chiến dịch “biển Đông” được trào đình nhà Minh tài trợ, cho thấy Trung Hoa đã sắp xếp một trật tự mới để từ vùng biển phía Nam hướng ra thế giới. Bẩy chuyến hải hành trong 30 năm, mang về quà cáp biếu xén, uy danh và liên hệ kinh tế cho trào đình. Tuy vậy gây phản ứng ngược nơi đám Nho gia, là đám có nỗi sợ hãi kinh niên “sợ thay đổi”, có thể làm vị trí của họ lung lay. Dưói áp lực ấy trào đình nhà Minh chỉ coi thành công của Trịnh Hoà như “duyên dáng Minh trào”. Thái độ vừa sợ hãi vừa kênh kiệu ấy Thanh triều về sau sao cóp y chang. Cái giá phải trả là hoàng thành bị bọn “quỉ đỏ” Tây Dương đốt phá, triều đại sụp đổ. Tương tự hoàn cảnh ông Nguyễn Trường Tộ duới trào vua Tự Đức và định mệnh của trào Nguyễn Việt Nam.

Sang đến nhà Thanh (1644 - 1912) thời kỳ đen tối của người Hui thật sự bắt đầu. Dân Hán và triều đình ngày càng kỳ thị người Hui. Từ 1648 đến 1878, ở East Turkistan 12 triệu người Hui và Uyghur bị giết trong mười lần nổi dậy. Năm 1845, ở Tây Bắc Vân Nam quân đội và người Hán tàn sát người Hui trong 3 ngày. Biến cố đẫm máu này tạo nên cuộc khởi nghĩa Panthay (1856–1873) ở Vân Nam, người Hui chủ trương ly khai. Kết quả 1 triệu người chết, cả người Hui lẫn người Hán, một số người Hui đào thoát sang Miến Điện, hiện nay trở thành một quyền lực lớn ở khu Golden Triangle/Tam Giác Vàng, nắm giữ nhiều mối lợi lớn về thuốc phiện, vàng, ruby và Burmese Jade. Ở Thiểm Tây (1862-1877), một cuộc nổi dậy khác khiến dân số người Hui từ 1,700,000 chỉ còn 150,000 người.

Điểm chung duy nhất: Islam ?


Truớc khi theo Islam, người Turkestan theo các tôn giáo/hệ thống tư tưởng khác như Shaman, Ki Tô, Do Thái, Phật, Mani và Zoroastrianism/Hoả giáo, Nestorian (Ki Tô Giáo phương Đông).

Thế kỷ thứ 8, Islam bắt đầu nở rộ ở Medina/Arab Seoudite. Từ thế kỷ thứ 10, Islam thay thế đạo Phật ở khu vực Trung Á và East Turkestan. Theo tiếng Arabic, “Islam” để chỉ tôn giáo, “Muslim”để chỉ tín đồ Islam. Phật giáo và Ki-Tô giáo được đặt theo tên của giáo chủ sáng lập, còn Islam và Muslim là tên đuợc mặc khải, có ghi chép trong kinh Qur’an, không phải do tín đồ tự đặt.

Tính đến tháng tư 2009, có 1.4 đến 1.6 tỷ tín đồ Islam khắp thế giới. Cứ 5 người có 1 người theo Islam. Theo thống kê của CIA Online World Factbook, bốn quốc gia có đông người Muslim nhất: Indonesia 204 triệu, Pakistan 164 triệu, India 154 triệu, Bangladesh 128 triệu. Đa số người Turks theo phái Sunni Muslims. Thiên sứ Mohammed qua đời, không chỉ định người kế vị. Sunni chấp nhận cả bốn Caliphs (hoàng đế) kế vị thiên sứ Mohammed là chính thống. Trái lại, Shiites cho rằng chỉ một mình Ali, anh em họ và cũng là con rể cuả thiên sứ Mohammed, mới là chân truyền.

Ngày 13-7-2009, bài viết của Moisés Naím tựa đề “Mute Muslims/ Sự Im Lặng của Người Muslims” (4) nêu lên câu hỏi cho toàn khối Muslim. Bài báo nhắc biến cố 17/9/2005, một tờ báo Đan Mạch đăng hý hoạ nội dung kém kính trọng thiên sứ Muhammed, đã gặp phản ứng giận dữ của cả khối Hồi giáo. Toà lãnh sự Đan Mạch ở Beirut bị đốt.  Ở Afghanistan, Pakistan và Somalia, xô xát đến tử vong. Ở Damacus, đám đông phẫn nộ đốt hai toà đại sứ Na Uy-Đan Mạch. Ở Tehran, tổng thống Ahmadinejad cho đăng hý họa nhạo báng thói đạo đức giả của Tây Phương trong vụ  Holocaust tàn sát người Do Thái. Ông Naím đặt câu hỏi “Vậy tại sao năm 2009 khối Muslim yên lặng trước hành vi đàn áp tàn bạo của chính quyền Trung Hoa với người Urghuy ngày 6-7-2009?” Những đàn áp này có từ những năm 1990.  Phụ nữ bị đoạn sản. Tiếng Uyghur không đựoc dậy ở trường học. Công chức không đựoc để râu và quàng khăn. Không được cầu nguyện hay ăn chay trong giờ làm việc. Công việc bị người Hán lấn chiếm. Nhà cửa tốt chỉ dành cho người Hán. Thanh niên Uyghur bụộc phải làm xa thành phố, nhường chỗ cho người Hán di cư đến. Tất cả những mầm mống chống cự đều bị coi là khủng bố, lãnh tụ bị bắt giam. Nhũng siêu thị ngạo nghễ cạnh thánh đường Islam hàng ngàn năm tuổi. Năm 2004, môt đoàn vũ công Uyghur trình diễn tại Canada đã xin tỵ nạn chính trị, vì sau khi trình diễn, họ bị nhân viên Trung Hoa ép phải uống rưọư và khiêu vũ, trái với đạo đức người Uyghur.



Câu hỏi của Moisés Naím rơi vào yên lặng không kém.

Uyghur trong quĩ đạo Trung Quốc


Người Mãn Châu thành lập đế quốc Thanh năm 1644 đã sáp nhập Mông Cổ, Tân Cương, và Tây Tạng năm 1759. Nhà Thanh chỉ bị lui bước ở Miến Điện và Đại Việt với chiến thắng của vua Quang Trung ở trận Đống Đa. Bức tranh dưới đây mô tả trận chiến giữa quân Thanh và người Uyghur thời gian này.

Sau những năm chiến tranh đẫm máu, tháng 11/1884, East Turkestan bị sát nhập vào Trung quốc vói tên mới Xinjiang/Tân Cương. Từ đó, uy danh, văn hoá của East Turkestan ở bên bờ vực thẳm. Sau khi lực lượng Trung Hoa Quốc Gia lật đổ nhà Mãn Thanh năm 1911, người Uyghur khởi nghĩa nhiều lần. Họ chống nhà Thanh, chống người Anh, chống chính phủ bù nhìn do người Anh dựng lên. Họ đánh bật quân đội Nga Sô ra khỏi khu vực Ili. Tất cả những chiến đấu gian khổ đó rốt cuộc vẫn không dành đựoc độc lập. Tháng 10 năm 1955, họ đựoc “chỉ định” là một khu tự trị của Trung quốc. Năm 1949, người Hán chỉ chiếm 6%, hiện nay là 40% với 7.5 triệu người.



Bức ảnh  duới đây chụp tình cờ, nói lên đựơc nỗi lòng người Uyghur? Ông râu trắng xoá kề cận bên mái tóc cháu còn xanh. Giống nhau chăng là sự bất an, cái nhìn của người ông chịu đựng đầy nghi ngại và bé gái tí teo đã bậm môi đẫm căm hờn.

Một thi sĩ người Uyghur, Abduhalik Uyghur , ئابدۇخالىق ئۇيغۇر, hấp thụ cả năm nền học vấn: Islam, Trung Hoa, Ả Rập, Ba Tư và Liên Sô. Abduhalik làm nhiều thơ nhằm đánh thức người Uyghur trước nguy cơ bị Trung Hoa tiêu diệt. Bài thơ Oyghan (Wake Up, Hãy Thức Dậy) sáng tác năm 20 tuổi. Thơ của Abduhalik không gục mặt xin xỏ lặt vặt ăn mày ăn nhặt “xin cho tôi một thoáng rượu cay” hay thở dài than ngắn “một ngàn năm nô lệ giặc Tầu”.  Abduhalik bị người Trung Hoa hành hình vào tuổi 32. Bạn đọc nào muốn dịch bài Wake Up/Oyghan sang tiếng Việt và lưu lại trên net, cứ tự nhiên vào web (5)

Xin dịch thoát 8 câu:

Này người Uyghur khốn khổ, thức dậy đi từ cơn ngủ đã dài


Người còn gì đâu ngoài mạng sống mỏng manh
Nếu không tự cứu khỏi cái chết
Phút tàn sinh sẽ chẳng còn bao lâu nữa
Hãy mở to mắt nhìn quanh,
Tương lai sẽ ra sao
Nếu lỡ dịp may này vuột khỏi tầm tay
Mai này sẽ chỉ là một nỗi ăn năn vô tận

 

Người Việt sính làm thơ. Việt Nam thời anh hùng thơ khác bây giờ. Năm 1284, từ vua đến dân cùng nức lòng thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát” -diệt quân Nguyên. Thượng tướng Trần Quang Khải vừa đánh giặc vừa làm thơ

Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử diệt quân thù

Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu”

Để trả lời doạ nạt, dụ dỗ của tướng Nguyên, danh tướng Trần Bình Trọng đanh thép trả lời: Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi”. Câu nói bật ra lúc đao kiếm đang kề vào o cổ chứng tỏ ý chí tự chủ và tinh thần “vô uý” của Phật giáo triều Trần thấm rất sâu. Câu nói này là dấu ấn của một triều đại đặc biệt trong sử Việt: là dân di cư từ vùng biển Phúc Kiến, thuộc Bai Yue/Bách Việt, đến duyên hải Đại Việt mới hơn 100 năm, triều Trần là triều đại chống cự Bắc phương dữ dội nhất: chống quân Mông cổ năm 1257, và chống quân Nguyên hai lần năm 1284, 1287. Ông hoàng trẻ hy sinh tháng 2 (âm lịch) năm 1285, vừa 26 tuổi. Hình như không có một ngày giỗ tầm cỡ quốc gia tưởng nhớ đến ông?



Каталог: yahoo site admin -> assets -> docs
docs -> Hai Chiến Dịch TruyềnThông Của Đế Quốc Đại Hán
docs -> Con Tem 44 xu “Brothers Always”
docs -> Cách đó không xa, viên sĩ quan phụ tá của tướng Grant, thống lãnh quân đội miển Bắc, bước vào phòng riêng của tướng Grant để đánh thức ông dậy. Người sĩ quan hầu cận vội mang đến tướng Grant một tách cà phê nóng hổi
docs -> Hồi tưởng của một sinh viên trường Luật Sài gòn khóa 1958 ls đoàn Thanh Liêm
docs -> Xây dựng Xã hội từng mảnh một Bài 3 – George Soros và công cuộc Xây dựng Xã hội Mở Toàn cầu
docs -> Nữ danh ca Joan Baez và Những người đã ủng hộ csvn đã thức tỉnh & không còn là bạn của csvn
docs -> Duong Nhu Nguyen Thay lời tựa: “Tôi yêu lắm cái linh hồn
docs -> Tham khảo tại các Thư Viện ở Mỹ
docs -> Trong tương lai nó còn quý hơn cả vàng
docs -> S: Smile (Cười) T: Talk (Nói) R: Raise (Đưa (tay) lên)

tải về 451.69 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương