1.2.2. Nghiên cứu bảo tồn ĐDSH ở Việt Nam
Theo đánh giá của Trung tâm giám sát bảo tồn thế giới (WCMC) (1992, 2003), Việt Nam được xếp thứ 16 trong số các nước có ĐDSH cao nhất thế giới [9]. Theo báo cáo quốc gia về ĐDSH Việt Nam năm 2011 thì hệ thực vật Việt Nam đã ghi nhận 13.766 loài thực vật, trong đó có 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch, có 2256 chi, 305 họ chiếm 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 5% tổng số họ thực vật trên thế giới, 2.393 loài thực vật bậc thấp chưa kể các nhóm vi tảo ở nước [9], [58].
Về hệ động vật, ngoài các loài đặc hữu Việt Nam còn có nhưng loài động vật mang tính chất hỗn hợp của hai khu hệ động vật Nam Trung Hoa và Ấn Độ, Mã Lai [58], [60], [81]. Nhiều loài không những có giá trị cao về kinh tế, mà còn có giá trị bảo tồn ở Việt Nam và thế giới, nhiều loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) và Danh lục đỏ IUCN (2012). Sự phong phú về thực vật và các hệ sinh thái là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật. Việt Nam có đến 312 loài và phân Thú, 840 loài Chim, 317 loài Bò sát, 167 loài Lưỡng cư, 7700 loài Côn trùng, 547 loài Cá nước ngọt, 2038 loài Cá biển và 9300 loài Động vật không xương sống [9], [57].
Tuy nhiên, Việt Nam cũng trong tình trạng chung của toàn cầu là ĐDSH đã và đang bị đe dọa và có chiều hướng suy giảm mạnh. Nguyên nhân của sự mất mát ĐDSH được xác định bao gồm hai yếu tố chính là do thiên tai và do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của con người [59], [80], [92]. Vì vậy, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong công tác nghiên cứu và quản lý bảo tồn ĐDSH, trong đó phải kể đến các vấn đề quan trọng sau đây:
-
Sơ lược về tình hình nghiên cứu ĐDSH ở Việt Nam
Các nghiên cứu ĐDSH thường được bắt đầu bằng những nghiên cứu cơ bản để có tiền đề xây dựng luận chứng kinh tế- kỹ thuật (LCKT) cho các KBT. Phần lớn LCKT được xây dựng bởi các cơ quan chuyên môn, các Viện nghiên cứu, các trường đại học như Viện Điều tra Quy hoạch rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Trường đại học Lâm nghiệp…[6],[7]. Ngoài các nghiên cứu liên quan đến LCKT còn phải kể đến các nghiên cứu chuyên sâu của các cơ quan nghiên cứu, Viện Khoa học và Công nghệ Quốc gia- Đại học QG Hà Nội, các tổ chức trong và ngoài nước. Các số liệu trong nghiên cứu này rất quan trọng và có giá trị, được các VQG và KBT sử dụng để biết được sự đa dạng sinh vật mà mình đang quản lý.
Một thành tựu nổi bật về nghiên cứu ĐDSH là kết quả điều tra về tài nguyên thực vật và động vật ở một số VQG và Khu BTTN và một số sinh cảnh khác ngoài Khu BTTN nhờ sự phối hợp giữa các nhà khoa học của các cơ quan nghiên cứu ở Trung ương, địa phương và ban quản lý các VQG, Khu BTTN [7], [58].
Trong những thập kỷ của những năm đầu cuối thế kỷ XX, các nghiên cứu về ĐDSH phục vụ cho việc xây dựng các luận chứng KTKT để xây dựng hệ thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Tuy nhiên, do thiếu kinh phí nên số liệu chưa được cập nhật, nhiều VQG và Khu BTTN chỉ có số liệu khi xây dựng LCKT. Nhiều loài động vật, thực vật có trong thực tế nhưng chưa có tên trong danh lục hoặc ngược lại có tên trong danh lục nhưng lại không thấy trong thiên nhiên.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |