TÌm hiểu sáu phái triết họC ẤN ĐỘ ht mãn Giác



tải về 1.05 Mb.
trang6/38
Chuyển đổi dữ liệu16.11.2017
Kích1.05 Mb.
#34347
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   38

VII.CÁC CÚ NGHĨA KHÁC


Bởi vì bản thể luận của Mìmàmsïà không mấy khác xa với Nyàya-Vaisùesïika, cho nên ta không cần trình bày chi tiết ở đây. Một vài chi tiết sai biệt giữa các phái đó được trình bày nơi vấn đề ngã (àtman).

Về đức cú nghĩa (gunïa-padàrtha), cũng như Nyàya-Vaisùesïika, ở đây Mìmàmsïa cũng chấp nhận có 24 phẩm tính. Trong số đó, thanh (sùabda) bị loại trừ và được thay vào bằng “hữu năng” (sùakti). Nó là một năng lực biểu trưng sắc thái của sự vật, như khả năng đốt cháy của lửa. Hiện hữu của phẩm tính này chỉ có nhận ra bằng suy luận từ kết quả mà nó tạo nên. Các phẩm tính (gunïa) khác, ngoại trừ pháp (dharma) và phi pháp (adharma), thảy đều được giải thích đại khái như Nyàya-Vaisùesïika.

Những cú nghĩa còn lại cũng đã được giải thích rải rác ở các đoạn trên, tùy theo mỗi vấn đề liên hệ.

---o0o---


VIII.NỘI DUNG MÌMÀMÏSÀ-SÙTRA  (NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC)


Dharma, hay nghĩa vụ đạo đức, là chủ điểm của Mìmàmïsà. Mọi vấn đề tư tưởng triết lý hay tôn giáo của hệ phái đều lấy đây làm điểm xuất phát. Để có thể thấu hiểu vị trí của nó đối với những vấn đề liên hệ, trước hết chúng ta cũng nên xét qua nội dung của Mìmàmïsà-sùtra, mà ngay từ đầu lấy ngay sự muốn biết (jijnõàsà) về dharma làm xuất phát điểm.

Tập Sarva-darsùana-samïgraha, tác phẩm trình bày các tiết phái, của Haribhadra, thế kỷ V sau tây lịch, phân tích nội dung của Mìmàmïsà-sùtra như sau, căn cứ theo 12 chương của nó; mỗi chương được coi như chứa đựng một vấn đề.

1. Tri nguyên luận, nguồn gốc của tri thức, khi nghiên cứu về ý nghĩa của dharma, nguồn mạch tri thức là thánh điển Veda.

2. Phân biệt các loại tế tự chính và phụ, và hiệu quả của chúng. Chương này cũng tiếp tục tri nguyên luận của chương trước, và nói thêm phương pháp ứng dụng các loại tế lễ như được thấy trong thánh điển Veda.

3. Nêu lên đặc chất của thánh điển Veda, giải quyết những điểm mâu thuẫn giữa các tập Khải thị lục (sùruti) và Ký ức lục (smrïti). Chương này cũng nói về các tế thức, ý nghĩa bộ loại của chúng, cách thực hành các tế thức và nghĩa vụ của thí chủ.

4. Quan hệ giữa tế lễ chính và phụ, nghi thức tức vị (Ràjasùya).

5. Thứ tự các loại văn cú trong Veda, thứ tự tế lễ, quy định tế lễ, sự tăng gia và giảm thiểu các tế thức, và mức độ quan trọng của các tập Khải thị lục.

6. Tư cách thí chủ, tế quan, và nghĩa vụ.

7. Ứng dụng tế pháp này hay tế thức khác, theo sự quy định của Veda; suy định danh xưng (nàma) và đặc chất (linga) để ứng dụng.

8. Trình bày phương thức lựa chọn đặc chất như đã nói trong chương trước.

9. Trường hợp dẫn chú văn, hay nghi thức, lựa chọn sự thích dụng hình thức ca vịnh (sàma) hay tế văn (mantra).

10. Phế chỉ tế thức.

11. Căn bản giáo lý của nghi tế.

12. Tùy theo mục đích mà chấp hành tế thức.

Nguồn mạch tri thức của Mìmàmïsà là các tập Veda, được chia làm hai loại: tế văn (mantra) và Phạm thơ (Brahmanïa). Dựa theo đây, Taiken Kimura phân tích nội dung của Mìmàmïsà-sùtra thành năm loại như sau:

1. Nghi quỹ (vidhi), bộ phận chủ yếu là Brahamanïa, trình bày cách quy định các tế thức, thành bốn loại nghi quỹ: (a) Nghi quỹ phát đoan (utpatti-vidhi), mở đầu cho một cuộc tế; (b) Nghi quỹ phương pháp (viniyoga-vidhi), chỉ định phương pháp tế lễ; (c) Nghi quỹ thế đệ (prayoga-vidhi), thứ tự của cuộc lễ; (d) Nghi quỹ tế nhân (adhihàra-vidhi), quy định tư cách của người tế lễ.

2. Nội dung của tế văn (mantra) và tập lục (samïhità), gồm ba loại. (a) Tán ca (rïc), những lời mời mọc trong cuộc tế thần, mà chủ yếu là nội dung các tập Rg-Veda; (b) Ca vịnh (sàman), ca ngợi các thần linh được mời mọc, chủ yếu là nội dung của Sàma-Veda; (c) Tế từ (yajus), những lời dâng cúng các phẩm vật được đọc lên hay ngâm nga trong khi tiến hành nghi thức, chủ yếu là nội dung của Yajur-Veda.

3. Tế danh (nàmadheya), những danh hiệu được đặt cho các cuộc tế theo các thánh điển Veda.

4. Cấm chế (nisïidha), những cấm chỉ trong một cuộc tế.

5. Thích danh (arthavàda), nguồn gốc và hiệu năng của cuộc tế.

---o0o---


IX.DHARMA: NGHĨA VỤ


Dharma được định nghĩa bởi Jaimini như là phán truyền của Veda, bắt buộc phải thi hành những điều được chỉ định. Trên phương diện triết lý, nó là một trong 24 phẩm tính, tương phản với adharma. Jaimini cũng xác định rằng tri giác giác quan, hay hiện lượng, không thể tri thức được dharma đó. Bởi vì nó là sự phán truyền có tính cách vĩnh cửu, mà tri giác tùy thuộc tác dụng của giác quan, chỉ thâu nhận những gì xảy ra trong hiện tại. Suy luận hay tỉ lượng cũng không biết đến. Bởi vì sự phán truyền là sự phát hiện của ngôn ngữ, sự liên tục phát hiện của âm thanh. Mà bản chất của âm thanh vốn là thường trụ, vô sinh. Do đó, những gì được phán truyền, bởi thánh điển Veda, luôn luôn có giá trị tuyệt đối, vượt ngoài mọi khả năng nhận thức, trừ khả năng nhận thức trên chứng ngôn. Giá trị đó phải được tuân hành một cách trung thức, không thể khước từ hay cưỡng bức.

Dharma được hiểu như vậy, thì chính nó là một nghĩa vụ tuyệt đối. Nói cách khác, dharma chính là nghĩa vụ tuyệt đối. Các nhà Mìmàmïsaka đã nỗ lực chứng tỏ rằng thánh điển Veda không phải được nói bởi một người nào, dù là Thượng đế. Nỗ lực này hàm ngụ một ý nghĩa quan trọng, mà chúng ta có thể hiểu rằng, đó là những gì được phát hiện tất nhiên từ ý thức xã hội, từ một ý lực tự nhiên. Vũ trụ không có tác giả, không do sự sáng tạo của Thượng đế. Trong sự vắng mặt của một Thượng đế sáng tạo, điều hành và hủy diệt vũ trụ như vậy, con người tìm thấy một phán truyền tuyệt đối từ thiên nhiên. Và từ phán truyền đó, loài người nhận thức đâu là nghĩa vụ tuyệt đối mà mình phải tuân hành. Nghĩa vụ bao gồm hai phương diện: nghĩa vụ đối với xã hội, theo một căn bản đạo đức; và nghĩa vụ đối với thần linh, được thực hiện bằng những nghi thức tế tự. Trong đó, nghĩa vụ chính yếu là tế tự.

Nghĩa vụ được chia thành ba loại: nghĩa vụ cưỡng bức, nghĩa vụ tự nguyện và nghĩa vụ cấm chỉ. Những hành vi bị cưỡng bức, bị bắt buộc phải làm, nếu không người ta sẽ bị đọa lạc vào con đường tội lỗi, mặc dù thi hành đúng mức cũng không hẳn sẽ hưởng thọ được phước báo gì. Những hành vi cưỡng bức này lại có hai: nghĩa vụ thường nhật (nitya) như sự cầu nguyện hàng ngày chẳng hạn, và những nghĩa vụ phải thi hành trong những cơ hội đặc biệt. Hành vi tự nguyện (kàmya) hay tự ý, những nghĩa vụ được thi hành theo một ước vọng nào đó, như muốn sinh lên cõi trời sung sướng, người ta phải thi hành một số các tế tự. Những hành vi cấm chỉ (pratisiddha), không được phép thi hành, nếu vi phạm chắc chắn sẽ đọa lạc đau khổ dưới địa ngục.

Prabhàkara chủ trương nghĩa vụ như một ý nghĩa, và do đó, sự tuân hành theo các phán truyền mệnh lệnh của Veda không phải vì mục đích nào đó. Nghĩa vụ là nghĩa vụ. Veda không nói đến một cứu cánh của nghĩa vụ. Tự nghĩa vụ đã có giá trị nội tại trong mình nó. Nhưng với Kumàrila, những gì mà người ta thi hành là muốn nhắm đến một mục đích nào đó, Veda không hề gợi lên ước muốn thi hành. Thánh điển chỉ phân biệt mục tiêu tốt hay xấu mà hành động của nghĩa vụ sẽ dẫn đến. Rồi con người lựa chọn. Ánh sáng của ngọn đèn trong tay soi rõ đường đi. Nhưng đi hay không đi là do chính tự nguyện của người đi.

Trong đoạn giới thiệu nội dung cương yếu của Mìmàmsà-sùtra, chúng ta biết rằng, nghĩa vụ mà Veda chỉ định chính là những nghĩa vụ tế tự. Thánh điển phân biệt rõ ý nghĩa của mỗi loại, mục đích và hiệu quả của chúng. Tuy nhiên, những nghĩa vụ tế tự này chỉ dành cho ba giai cấp trên của xã hội, không dính gì đến giai cấp thứ tư, thủ đà la (sùudra).

Khi một cuộc tế được thực hiện xong, thì hành vi tuy dứt, nhưng nó đã gây ra nơi người tế tự một năng lực tiềm tàng, chưa từng có trước kia. Chính nó sẽ dẫn đến kết quả hiệu nghiệm của tế tự. Vì rằng năng lực chưa hề có trước khi tế lễ, cho nên nó được gọi là vô tiền (apùrva). Đây là quan niệm về nghiệp lực (Karma-sùakti) của Mìmàmïsà, như được nói bởi Jaimini, sùtra II.i.5. Năng lực này được nhận ra bởi vô thể lượng (abhàva-pratyaksa). Tri giác hiện lượng không thể nhận ra, bởi vì hành vi tế tự sau khi đã thể hiện xong, tức thì biến mất.

Các nhà Mìmàmïsà đầu tiên chỉ chú trọng dharma, và không biết đến giải thoát (moksïa). Cứu cánh của dharma, hay nghĩa vụ tế tự, là đạt đến thiên giới, sanh thiên (svarga) để hưởng thọ khoái lạc. Lý tưởng giải thoát được khải thị từ các thánh thư Upanishads, khi mà triết lý về tế tự được khảo sát, và một tế lễ được biểu tượng cho một khải sáng vũ trụ, con người hướng về “muốn biết” (jijnõàsà). Giải thoát thường phải hàm ngụ một ý nghĩa nào đó của trí tuệ. Các nhà Mìmàmïsà về sau thay thế lý tưởng sanh thiên bằng lý tưởng giải phóng (apavarga).

Tiểu ngã chìm đắm trong luân hồi do kết hợp với thân xác, với cảm quan, với tâm và thức. Do kết hợp này mà tiểu ngã trở thành một tri giả (jnõàtà), một thọ giả (bhoktà), một tác giả (kartà). Giải thoát tức giải phóng tiểu ngã ra khỏi sự ràng buộc của thân xác. Bởi vì giải thoát là vượt lên mọi phước báo hay không phước báo, do đó không cần thiết phải thi hành các nghĩa vụ tự nguyện (kàmya-karma) hay cấm chỉ (pratisïiddha), vì hành vi tự nguyện dẫn đến phước báo sanh thiên, còn hành vi cấm chỉ nếu vi phạm sẽ đọa địa ngục. Hành vi thường nhật (nitya) mà Veda phán truyền, như nghĩa vụ tế tự chẳng hạn, phải được thi hành không hướng đến một mục đích hưởng thụ phước báo nào cả.

Kumàrila cũng chủ trương thuyết tri hành hiệp nhất (jnõàna-karma-samuccaya). Ông coi ngã như là một năng lực của tri thức (jnõàna-sùakti). Khi giải thoát, không còn những tác dụng của ý (manas) và các giác quan khác, và ngã trở lại trạng thái thuần túy của nó như là năng lực tri thức. Do đó, trong cảnh giải thoát, ngã không còn những phẩm tính khổ, lạc, dục, sân, v.v...

Nhưng giải thoát mà không thể nhập bản thể tuyệt đối Brahman như các nhà Vedànta SÙanïkara, hay diện kiến Thượng đế sáng tạo đầy ân huệ như các nhà Dvaita-Vedànta; sự giải thoát của Mìmàmïsà như là sự giải trừ những ràng buộc của ngã đối với các nghĩa vụ có điều kiện, và duy nhất chỉ thể hiện bằng nghĩa vụ tuyệt đối không điều kiện. Thế thì giữa Vedànta và Mìmàmïsà chưa chắc bên nào đã trung thành với lý tưởng của Veda hơn bên nào.

 

---o0o---


tải về 1.05 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   38




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương