Tiếng nói của tất cả mọi người Việt Nam yêu chuộng tự do dân chủ, công bằng xã hội, góp phần thúc đẩy công cuộc dân chủ hóa đất nước theo tiến trình văn minh chung của nhân loại, đòi hỏi thực thi công bằng và lành mạnh hóa xã hội


Bức Thư Thứ Ba: Số Phận Những Người Đàn Bà Thôn Quê



tải về 0.79 Mb.
trang12/12
Chuyển đổi dữ liệu23.04.2018
Kích0.79 Mb.
#37056
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

Bức Thư Thứ Ba: Số Phận Những Người Đàn Bà Thôn Quê


-...Họ (những người đàn bà thôn quê) sống như ở một thế giới khác và một thời khác thời chúng ta đang sống. Họ chỉ biết đến trâu bò, lợn gà, phân gio, bùn đất, cấy hái, con cái và muôn vàn nỗi lo khác. Và điều đau lòng mà tôi biết, họ không mấy khi có được một giấc mơ đẹp. Bởi hình như họ chẳng có một ngày thanh thản để một giấc mơ đẹp có thể bay về và trú ngụ trong tâm hồn họ...

 
Trong tập thơ "Sự Mất Ngủ Của Lửa" của tôi (Giải thưởng Hội Nhà văn 1993) có một bài thơ viết về những người đàn bà thôn quê. Bài thơ đó như sau:


Trên Đại Lộ

Những người đàn bà vác dậm đi thành một hàng

dọc về phía bên phải sát mép đại lộ

Người họ bọc kín bởi những lớp vải nâu và đen

Chỉ đôi tay, đôi chân và đôi mắt lộ ra

Nhưng tất cả cùng một màu như thế

Những chiếc dậm trên vai họ như vầng trăng khuyết vớt từ bùn lên

Những cái giỏ bên hông như những cái đầu trọc lắc lư theo nhịp bước

Bóng họ đổ xuống đường thành những vũng đen

Họ lặng lẽ đi như đội quân thất trận

Cán dậm chúi xuống mặt đường - Những nòng súng gỗ hết đạn

Những tấm áo rách sặc mùi bùn phơi trong lòng dậm như cờ ngày việc làng giã đám

Vảy cá bám trên áo họ lấp lánh những tấm huân chương

Họ chẳng cần tung hô, cũng chẳng đợi đón chào

Như mây trước cơn giông trôi nặng nề, oi bức

Những người đàn bà vác dậm đi thành một hàng dọc về phía bên phải sát mép đại lộ

Họ đến từ đâu và sẽ đi đâu

Với mùi tanh cua ốc tỏa quanh người.
Tôi đã viết bài thơ này 17 năm về trước. Nhưng cho đến bây giờ, những hình ảnh trong bài thơ về những người đàn bà thôn quê lam lũ và u buồn hình như vẫn chẳng thay đổi bao nhiêu. Trên những con đường và trên những cánh đồng thôn quê, chúng ta vẫn nhìn thấy hiện thực ấy. Và bây giờ trong chính những đô thị thi thoảng chúng ta nhìn thấy họ đi qua khi chúng ta ngồi trong tiệm cà phê, quán ăn… Họ đi qua và bị lộ ra trước mắt chúng ta không thể nào che giấu được. Đại lộ trong bài thơ là hình ảnh của đô thị hóa. Đô thị hóa làm những ai đó thay đổi đời sống của mình, nhưng những người đàn bà thôn quê vẫn đang đi bên lề của sự đổi thay ấy. Họ đi như một sự cam chịu. Họ đi và không hề than thở. Họ thực sự là một đội quân thất trận trên cánh đồng của mình.
Đã có không ít họ và con cháu họ đã phải rời bỏ cánh đồng và quê hương mình để ra thành phố. Họ làm tất cả những gì có thể làm để bảo tồn sự sống của thân xác họ. Họ làm ôsin, họ làm bồi bàn, họ bán hàng rong và họ bán cả thân xác và tâm hồn họ… Nhìn vào mâm cơm của họ, nhìn vào giường ngủ của họ, nhìn vào gương mặt của họ… tôi luôn luôn mang cảm giác rằng họ không bao giờ có một giấc mơ đẹp sinh ra từ đời sống của mình.
Hàng tuần tôi vẫn trở về làng mình và lúc nào tôi cũng bàng hoàng bởi sự đổi thay nhan sắc của những thiếu nữ thôn quê. Tóc họ vừa mới dài đấy, má họ vừa mới hồng đấy, mắt họ vừa mới lấp lánh đấy, lưng họ vừa mới thon thả đấy… nhưng chỉ như một cái chớp mắt tôi đã không còn nhận ra họ nữa. Họ nhanh chóng trở nên già nua và xấu xí như bị một mụ phù thủy hóa phép. Khi tôi cất tiếng chào họ trên đường làng thì không ít người cúi mặt đáp lại lí nhí và vội vã bước đi.
Những người đàn ông quá mệt mỏi và thất vọng về sự cố gắng đổi thay đời sống của gia đình họ trên mảnh ruộng của mình, họ đã lao vào rượu chè và sự dữ dằn. Thế là bạo lực gia đình chẳng bớt đi mà mỗi ngày như một tăng lên. Tất cả sự thất vọng và cực nhọc được trút xuống những người đàn bà thôn quê. Chúng ta từng được biết qua các phương tiện thông tin đại chúng về những người đàn bà thôn quê bị bạo hành như thế nào. Nhưng đấy chỉ là những trường hợp chúng ta biết. Còn hầu hết, 99%, những người đàn bà thôn quê bị bạo hành đã cam chịu và không bao giờ nói cho chúng ta nghe. Bởi nếu họ cất tiếng thì tình trạng của họ cũng không cải thiện được gì mà những cơn phẫn nộ hung bạo lại càng gia tăng.

Chúng ta cũng đã từng đọc trên báo chí tâm sự của những thôn nữ đi bán mình. Họ bán mình một hai năm để có chút vốn trở về quê lấy chồng và lập nghiệp. Những chuyện như thế trước kia cũng có nhưng không phổ biến và không được coi là “chuyện thường tình” như bây giờ nữa. Trước kia, cả xã hội cùng nghèo. Nhưng bây giờ, sự phân hóa xã hội càng ngày càng có một vực sâu ở giữa mà những người đứng phía bờ của đói nghèo không bao giờ dám tin có ngày họ sẽ vượt qua.


Tổ tiên họ đã trồng lúa, ông bà họ đã trồng lúa, rồi cha mẹ họ và đến họ cũng vẫn trồng lúa. Trồng lúa chỉ duy nhất giúp họ không chết đói chứ không bao giờ giàu lên được. Những người đàn bà thôn quê đời này nối đời kia trồng cấy không ngơi nghỉ nhưng tôi cam đoan hầu hết gia đình họ không có nổi vài triệu tiền mặt trong nhà. Nhưng chỉ một người có tên là doanh nhân đến và mua hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn hecta đất cấy trồng của họ để lập dự án xây chung cư và bán cho những người giàu có thì lập tức họ có trong tay hàng trăm, hàng nghìn tỷ. Đấy là sự thật đang diễn ra hàng ngày mà chúng ta ai cũng biết.
Như hình ảnh trong bài thơ của tôi, họ vẫn đi sát mép đại lộ như một sự chấp hành tội nghiệp và không than thở. Những người đàn bà ở rất nhiều vùng thôn quê sống như một tù nhân trong chính ngôi nhà của họ. Họ bị bắt sinh đẻ hết đứa con này đến đứa con khác. Có những người đàn bà thôn quê làm cho tôi nghĩ lúc nào họ cũng có thai. Họ phải lao động nhiều hơn những người đàn ông. Họ không còn biết đến điều gì thuộc về đời sống tinh thần. Họ không có báo, có sách để đọc, họ không biết đến mỹ phẩm, họ không biết đến cả một bát phở tồi bán ở thị trấn, họ làm sao biết đến những từ như sinh tố, kem caramen, cà phê nâu, sữa chua… Họ càng không biết đến nhà hàng hay tiệm làm tóc…
Họ sống như ở một thế giới khác và một thời khác thời chúng ta đang sống. Họ chỉ biết đến trâu bò, lợn gà, phân gio, bùn đất, cấy hái, con cái và muôn vàn nỗi lo khác. Và điều đau lòng mà tôi biết họ không mấy khi có được một giấc mơ đẹp. Bởi hình như họ chẳng có một ngày thanh thản để một giấc mơ đẹp có thể bay về và trú ngụ trong tâm hồn họ. Trong suốt những năm chiến tranh, họ sống âm thầm với bao giáo lý về đức hạnh để chờ chồng. Ngay cả khi người chồng đã hy sinh, họ cũng không dám đi bước nữa bởi bao ràng buộc và thói thị phi.
Nhiều năm nay, tôi đã cố gắng làm những gì có thể cho đời sống văn hóa của làng tôi. Bởi tôi chỉ mong muốn tôi và bạn bè mình có thể mang đến cho họ một khoảnh khắc hạnh phúc để tạm quên đi những cực nhọc và u buồn đằng đẵng bám theo cả cuộc đời họ. Hai câu thơ cuối cùng tôi viết: Họ đến từ đâu và sẽ đi đâu? Với mùi tanh cua ốc tỏa quanh người. Tôi đang nói về họ chứ không phải nói về những câu thơ của mình. Cũng 17 năm về trước, tôi đã gặp những người đàn bà thôn quê đi buôn cá khô, nước mắm, cua ốc trên những chuyến xe khách. Từ áo quần, tóc tai họ tỏa ra mùi cá khô và mùi gà vịt. Họ nghẹo đầu ngủ trên xe và có người miệng chảy dãi. Và tôi đã viết Giấc mơ như thế nào trong giấc ngủ thế kia? Đó không phải là một câu thơ. Đó là một câu hỏi như một tiếng nấc khổ đau.
Cuộc sống của con người đâu chỉ sinh ra, lớn lên, kiếm từng miếng ăn để nhét đầy dạ dày mà phải được khai mở tâm hồn và trí tuệ. Nhưng những người nông dân nói chung và những người đàn bà thôn quê nói riêng đã sống một cuộc sống hầu như không có sự khai mở ấy. Những điều tôi đang viết đây có thể ai đó cho rằng tôi đang cố tình bi kịch hóa đời sống của những người đàn bà thôn quê. Nhưng đó là sự thật, và nói chính xác hơn đó chỉ là một phần của sự thật. Hãy đến với họ và sống với họ, chúng ta sẽ phải kinh ngạc kêu lên: Chẳng lẽ con người sinh ra để sống như thế ư? Và làm cách nào mà họ có thể sống được một cuộc sống như thế khi quanh họ tất cả đã và đang thay đổi?

Bức Thư Thứ Tư: Sự Lựa Chọn Kinh Hoàng


-Không ai muốn chọn cho cá nhân mình sự đau đớn thân xác vì bệnh tật, không ai lại muốn chọn cái chết hơn chọn sự sống. Nhưng hiện thực đã dồn họ vào chân tường mà không có một khả năng nào chống đỡ. Họ đã bỏ mặc cuộc đời họ cho số phận. Bởi với rất nhiều những người nông dân nghèo khổ thì họ không còn cách lựa chọn nào khác.
Trong một lần về quê cách đây vài tháng, tôi ghé qua trạm y tế xã. Trước kia người ta gọi là trạm xá. Trạm y tế bây giờ là một ngôi nhà cấp bốn tường đã bắt đầu mục nát, một quầy thuốc hình như không để đựng thuốc, một vài chiếc giường cái có chiếu, cái không… Tôi lên tiếng mãi mà chẳng có người đáp lại. Những cán bộ y tế của trạm bây giờ thực ra chỉ là những người bán thuốc lẻ giá cao cho người dân ở vùng đó. Tất cả những hình ảnh ấy đã chứng minh sự “lụi tàn” của mạng lưới y tế cơ sở.
Bây giờ, những căn bệnh hiểm nghèo mỗi ngày một tăng lên. Nguồn nước mà những người nông dân sử dụng hàng ngày không hề có bất cứ sự trợ giúp nào của các hệ thống xử lý ô nhiễm. Nhiều nơi, những người nông dân vẫn dùng nước từ những chiếc giếng làng mà thực chất là nước đầm nước ruộng chảy vào. Đa số các gia đình nông dân dùng giếng khoan với một hệ thống lọc tự chế. Mới đây, một tài liệu khoa học công bố 80% nguồn nước ở nông thôn bị ô nhiễm. Nhưng tôi chắc chắn rằng: ở nhiều làng, 100% nguồn nước đã bị nhiễm độc. Bởi thế mà trong thế kỷ này ở Việt Nam mới xuất hiện những làng ung thư.
Bây giờ về quê, khác với mấy chục năm trước, lúc nào tôi cũng nghe người làng nói về những căn bệnh hiểm nghèo và quái dị mà người làng tôi mắc phải. Nhiều đêm ở quê, tôi ngồi nghe chó sủa và những câu chuyện bệnh tật của những người trong họ ngoài làng mà buồn vô hạn, mà hoang mang vô cùng. Bệnh tật là như thế. Nhưng việc chữa bệnh đối với những người nông dân có thu nhập vài chục ngàn đồng một tháng còn thê thảm biết bao. Việc chữa bệnh cho những người nông dân giờ đã thị trường hóa. Tất cả những người nông dân đều không có bảo hiểm. Vì vậy, họ phải đứng trước thách thức của việc chữa bệnh như đứng trước một bức tường không thể vượt qua.
Một tháng thu nhập trên dưới 40.000 đồng trong khi đó có những vỉ thuốc loại trung bình đã hơn trăm ngàn. Mà khi có bệnh đâu phải chỉ uống một vỉ thuốc là khỏi. Giá thuốc tăng cao đã đẩy người nông dân đến gần hơn cái chết. Điều tôi nói đây không phải là một hình tượng mang tính văn học mà là một thực tế. Có những người nông dân làng tôi mắt mờ dần khi tuổi còn chưa cao. Nếu đi mổ mắt để thay thủy tinh thể chẳng hạn thì họ cũng phải mất đôi ba triệu đồng cho một bên mắt. Đấy mới chỉ là giá cho một mắt. Còn nếu mổ cả hai mắt thì tất nhiên là số tiền chi phí phải gấp đôi.
Đó là chưa kể tiền tàu xe đi lại, tiền ăn uống, tiền nằm viện, tiền bồi dưỡng các bác sỹ “lương y như từ mẫu”. Bởi thế, hầu hết những người nông dân phải đứng trước sự lựa chọn: hoặc là bán tất cả những gì có thể bán để chữa bệnh hoặc dần dần trở thành người mù. Thật đau lòng và thật kinh hoàng là có những người nông dân đã chọn con đường trở thành một người mù lòa. Thưa bạn đọc, bạn có tin điều ấy là sự thật không?
Tôi có một người chú họ bị ngã gãy xương bả vai. Như muôn vàn người bị tai nạn như thế, ông muốn được bó bột. Nhưng biết bao nhiêu năm nay, không bao giờ trong túi ông có quá 50.000 đồng. Các con ông cũng nghèo khó quá, cay cực quá đã không dám đưa ông đi bó bột. Sau nhiều đêm suy nghĩ, ông quyết định bỏ mặc cái xương bả vai bị gãy ấy. Ông không nói cho hàng xóm láng giềng biết mình bị gãy xương. Và ông đã âm thầm chịu đựng những cơn đau đớn do cái xương gãy gây ra. Rồi đến một ngày, vai ông thành tật. Lúc đó ông mới kể chuyện cho một vài người thân nghe. Ông nói: tôi già rồi không lao động được nữa thì bó bột cái xương gãy cũng chẳng cần thiết. Tiền bó xương để cho con cái mua gạo, mua muối còn tốt hơn. Thưa bạn đọc, bạn có tin trên cuộc đời trong những năm tháng này có những câu chuyện bi thương như thế không?
Cách đây dăm năm, làng tôi có người bị bệnh hiểm nghèo. Thận ông bị suy. Nếu ông muốn sống thì chỉ còn cách hoặc thay thận đó hoặc phải đến bệnh viện thường xuyên chạy thận. Nhưng để chạy thận thường xuyên hay để thay thận thì ông chỉ còn cách bán cả nhà cả ruộng đi mới đủ chữa bệnh. Nhưng nếu ông bán nhà bán ruộng đi thì con cháu ông chỉ còn một con đường là đi ăn mày để sống. Trước tình cảnh đó, ông phải lựa chọn một trong hai con đường: hoặc bán sạch nhà cửa, ruộng vườn hoặc là đi đến cái chết. Cuối cùng, ông chọn cái chết.
Ông nói rằng: nếu ông có sống đến 90 hay 100 tuổi thì ông cũng không thể làm ra đủ số tiền để mua lại cho con cháu nhà cửa, ruộng vườn mà ông đã bán để chữa bệnh. Vậy thì theo ông, quyết định chọn cái chết là quyết định sáng suốt nhất của ông. Thưa bạn đọc, bạn có tin có người đã lựa chọn cái chết cho mình một cách bi thương như thế không?
Mỗi lần nghĩ đến câu chuyện này, tôi vẫn không thoát khỏi cảm giác kinh hoàng. Nếu người đó là cha, là anh mình hay là một người ruột thịt nào đó của mình thì chúng ta sẽ nghĩ như thế nào và sẽ đau đớn đến khi nào mới nguôi. Không ai muốn chọn cho cá nhân mình sự đau đớn thân xác vì bệnh tật, không ai lại muốn chọn cái chết hơn chọn sự sống. Nhưng hiện thực đã dồn họ vào chân tường mà không có một khả năng nào chống đỡ. Họ đã bỏ mặc cuộc đời họ cho số phận. Bởi với rất nhiều những người nông dân nghèo khổ thì họ không còn cách lựa chọn nào khác.
Với một vài hiện thực nói trên, chúng ta còn cách nói nào khác là phải nói rằng: những người nông dân đang bị bỏ rơi trong thế giới này. Và họ cùng con cháu họ đang phải sống với rất nhiều đe dọa. Cho dù người Việt Nam ta có truyền thống lá lành đùm lá rách. Nhưng dù cho chúng ta thường xuyên làm như vậy thì chúng ta cũng chỉ giúp được một số ít ỏi những người nông dân như thế mà thôi. Chúng ta phải làm một cách khác. Mà cách ấy phải bắt đầu từ một lương tâm rộng lớn: vì con người và một tư duy chiến lược thực sự về nông thôn và những người nông dân.
Bức Thư Thứ Năm: Vẫn Chỉ Là Xóa Nạn Mù Chữ (?)

Những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, nhiều làng quê đã phá đền chùa để xây dựng các công trình như sân kho hợp tác xã, trụ sở chính quyền địa phương, trường học... Tôi đã chứng kiến ngôi chùa làng tôi bị phá đi để xây trường. Chùa làng tôi rất lớn, đã có từ lâu đời, nên làng tôi còn được gọi là làng Chùa. Tôi cũng tận mắt nhìn thấy người ta ném những tượng Phật bằng đất xuống ao chùa. Sau đó, một trường cấp I đã mọc lên.


Sau khi có trường, những người nông như sống trong giấc mơ. Con cháu họ bắt đầu được đi học. Cuộc cách mạng xóa nạn mù chữ lần thứ hai được tiến hành với một quy mô rộng khắp. Trước năm 1954, phong trào bình dân học vụ coi như cuộc cách mạng xóa nạn mù chữ lần thứ nhất.
Sau khi phá chùa xây trường học, con đường mà người ta vạch ra cho một nền giáo dục ở nông thôn là một con đường lý tưởng. Bởi, chủ nghĩa xã hội được xây dựng không chỉ ở các thành phố lớn mà là trên toàn miền Bắc. Những thế hệ trẻ là con cái những người nông dân sẽ được đào tạo để phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước, mà cụ thể là nông thôn của họ. Nhưng, nền giáo dục đã không đáp ứng được bao nhiêu cho điều ấy. Hiệu quả nền giáo dục ở nông thôn xét theo chiều sâu chất lượng và sự phát triển xã hội đã gần như giẫm chân tại chỗ.
Ngày nay, với mức thu nhập “bi thương” của mình, đời sống của những gia đình nông dân đang bị những cơn bão giá tàn phá một cách thảm hại trên đường đi của nó. Toàn bộ sức lực của người nông dân gần như chỉ để duy trì mức sống tối thiểu hàng ngày cho gia đình họ. Việc sử dụng tài chính cho chuyện học hành của con cái họ là điều không tưởng. Giấc mơ lớn nhất của họ chỉ còn là tìm cách đưa con cái mình thoát cảnh con trâu đi trước cái cày đi sau và con cháu mình đi... sau rốt.
Không phải những người nông dân không còn yêu những cánh đồng, vốn là mồ hôi và máu của họ. Nhưng nếu cứ làm ruộng như họ đang làm thì suốt đời phải sống trong lam lũ, thiếu thốn. Đáng buồn là, trong tay họ không có gì để thực hiện giấc mơ đó. Bắt đầu một thời đại của sự thả nổi tương lai con em những người nông dân, mà trước hết là qua việc thả nổi chuyện học hành của những đứa trẻ.
Thực tế lâu nay, những người nông dân không quan tâm đến việc nhà trường dạy gì và dạy thế nào con em họ. Họ không quan tâm đến dạy thêm, đến luyện thi, đến việc vào trường này hay trường kia. Những đứa trẻ đến trường một buổi và ra đồng một buổi. Học hết phổ thông trung học, chúng lại trở về cày cấy như ông bà, cha mẹ và anh chị chúng. Cũng có những gia đình nông dân cho con cái họ theo học ở một trường nghề nào đó nhưng khi ra trường, chúng lại cũng không xin được một việc làm nào cho tử tế.
Nhìn sự mệt mỏi của học sinh và sự hờ hững của phụ huynh, thầy cô cũng chẳng còn hứng thú mà truyền đạt kiến thức hay những giấc mơ về tương lai cho học sinh. Như vậy, hiệu quả giáo dục ở nông thôn sẽ là gì? Không ít thầy cô giáo ở các trường làng chặc lưỡi: Thôi cứ cho chúng nó lên lớp dù chẳng biết chữ gì. Học xong cũng về đi cày cấy chứ làm được trò trống gì đâu.
Hiện tượng học sinh bỏ học ở một số vùng càng ngày càng nhiều, bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính. Thứ nhất: gia đình học sinh quá nghèo khó. Thứ hai: phụ huynh ở những vùng đó nhận thấy nếu tiếp tục cho con em mình đi học cũng chỉ là kéo dài thời gian đến trường mà thôi chứ chẳng giải quyết được gì cho gia đình và cho bản thân học sinh đó. Học hành lơ mơ, học sinh là con em những người nông dân đã kém lại càng kém. Chỉ một số rất ít con em những gia đình có điều kiện mới học lên cao, còn đa số học sinh nông thôn, có đến lớp cũng thừa biết sẽ gắn cuộc đời với đồng ruộng trâu bò.
Lại phát sinh một vấn đề khác: học sinh sau khi rời ghế nhà trường trở về cày ruộng, có khi suốt nhiều năm liền không dùng đến giấy bút một lần nào, cũng không đọc một trang sách hay một mẩu báo nào, vì ở nông thôn lấy đâu ra báo, ra sách mà đọc. Trình độ của những học sinh ấy lại quay về với khởi điểm của người mới được xóa mù chữ.
Những gì chúng ta nhìn thấy khi đi qua một làng nào đó chỉ là cái vỏ bên ngoài mà thôi. Nghĩa là, chỉ thấy những ngôi nhà xi măng quét vôi vàng vôi xanh và thấp thoáng những chiếc xe máy Tàu. Thực chất, dân trí của hầu hết các làng quê là quá thấp và không được cải thiện bao nhiêu. Tất cả chỉ vì nền giáo dục hời hợt và vì chúng ta không có một chính sách nào có tính chiến lược cho nền giáo dục ở các vùng nông thôn.

Tôi đã học ở Cuba bốn năm và thấy dù rất khó khăn về kinh tế, nhưng một trong chiến lược quan trọng nhất của Chính phủ Cuba là phổ cập giáo dục ở trình độ cao cho các vùng nông thôn. Chính phủ Cuba đã dành cho giáo dục ở các vùng nông thôn những điều kiện ưu tiên đặc biệt.


Tại sao Cuba làm được, cả trong những năm tháng đất nước này rất đói khổ mà chúng ta không làm được, ngay cả bây giờ? Bởi Chính phủ Cuba đã nhận thức một cách sống còn rằng: chiến lược về tri thức con người là chiến lược đầu tiên và tối thượng. Còn đi học cho có học và dạy cho có dạy cũng chỉ là một hình thức xóa nạn mù chữ mà thôi.


Bức Thư Thứ Sáu: Làng Đang Mất!

“Chúng tôi đang mất làng” không chỉ là tiếng kêu của những người nông dân mà còn là nỗi lo chung của những người sinh ra và lớn lên từ các làng quê, giờ đang định cư trong các đô thị.


Trên những con chữ tôi đang viết, bạn đọc sẽ khó có thể cảm nhận được tiếng kêu ấy một cách đầy đủ. Nó là một thông báo giống như thông báo về một cái chết. Tôi không hề phóng đại. Cái chết của một truyền thống hay của một nền văn hóa thường không được nhận ra ngay.
Những gì tạo nên một làng Việt Nam truyền thống đang càng ngày bị phá vỡ. Theo suy nghĩ của cá nhân tôi, có hai nền tảng cơ bản của một làng Việt Nam truyền thống đang bị phá vỡ. Thứ nhất là mô hình kiến trúc làng truyền thống. Thứ hai là bản chất của văn hóa làng. Sự phá vỡ này dẫn đến sự hủy diệt làng Việt Nam.
Công cuộc đô thị hóa nửa vời và thiếu trách nhiệm ở các vùng quê đã đẩy mô hình kiến trúc làng vào một bi hài kịch. Các nhà quy hoạch và quản lý nông thôn dường như không hề có khái niệm gì về làng truyền thống và cũng không có trách nhiệm gì về sự phát triển nông thôn. Không có một luật nào quy định việc bảo tồn thiên nhiên và kiến trúc làng; cũng không có một hướng dẫn nào của những người quản lý và quy hoạch nông thôn cho việc đó.
Kiến trúc ở nông thôn cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 là một kiến trúc tồi tệ nhất trong lịch sử kiến trúc Việt Nam. Nó hỗn tạp đến kinh hoàng. Chỉ lấy ví dụ về kiến trúc ở các vùng nông thôn của một số nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, sẽ thấy các nhà quản lý và quy hoạch nông thôn Việt Nam chính là thủ phạm phá hỏng các làng Việt Nam truyền thống. Các làng ở các nước vừa kể vẫn lưu giữ được những vẻ đẹp và tính truyền thống của kiến trúc đặc trưng, đồng thời vẫn có những tiện ích cho một đời sống hiện đại. Vì thế, không thể lấy lý do của đời sống công nghiệp mà biện minh cho những sai lầm trong kiến trúc nông thôn hiện đại.

Những người nông dân cũng không có nhận thức và kiến thức đúng về vấn đề này, nhưng họ không hề có lỗi. Các nhà quản lý và quy hoạch nông thôn phải có chiến lược tuyên truyền cho họ và có luật pháp để ngăn chặn sự tùy tiện của họ. Làng Việt Nam truyền thống không phải là một cụm cư dân lâu đời mà là nơi sinh ra văn hóa Việt. Thử làm phép loại trừ, bạn sẽ nhận ra rằng, chúng ta chẳng còn gì khi không còn văn hóa làng.


Hầu hết những người có hiểu biết và có ý thức đều kinh hoàng và thất vọng khi nhìn thấy ngày càng nhiều làng quê Việt Nam chỉ còn là một đống bê tông thô thiển, nặng nề, vô cảm. Tôi tin chắc rằng, 30, 50 năm sau hoặc có thể lâu hơn chút nữa, người ta sẽ phải phá bỏ những ngôi nhà và những công trình công cộng ở các làng quê hiện nay để tìm lại những giá trị văn hóa của làng, tìm lại chính mình.

Kiến trúc nông thôn là hình thức của làng truyền thống thì lối sống của người thôn quê là bản chất của văn hóa làng. Nhưng, lối sống của những người nông dân đang thay đổi quá nhiều. Những năm gần đây, việc xây dựng lại đền chùa, tổ chức lại các lễ hội không phải là sự phục hưng văn hóa làng, vì ngay chính trong việc xây dựng lại đền chùa, tổ chức lại lễ hội ấy chứa đựng tính thực dụng quá nhiều.

Chính những hoạt động lễ hội ở các làng hay các vùng quê trong một hai thập niên trở lại đây, đã gián tiếp giết chết bản chất của các lễ hội truyền thống. Những hoạt động gọi là văn hóa khác lại rơi vào tính phong trào. Cứ như thế, những hoạt động đó từng bước phá vỡ sự thuần khiết của tâm hồn con người ở thôn quê.
Bây giờ, những người nông dân không đói nghèo như trước kia, nhưng theo đó là họ đã không còn tin nhau nữa. Họ đang đánh mất tính cộng đồng rất đặc biệt của làng xóm Việt Nam. Chủ nghĩa thực dụng đã gặm nát truyền thống tối lửa tắt đèn có nhau của người thôn quê. Chủ nghĩa thực dụng này hiện hữu ngay trong cả nhiều hoạt động từ thiện rầm rộ.

Tôi còn nhớ mãi câu chuyện mẹ tôi kể về những người hàng xóm đã giúp đỡ một gia đình nghèo khó trong xóm tôi như thế nào. Ngày ấy, mỗi nhà ở quê chỉ có một cái cổng ngõ hoặc một bờ giậu sơ sài, ai cũng có thể vào được. Họ đã phân công từng gia đình bí mật bỏ lúa bỏ khoai vào bồ của gia đình nghèo khó đó, mỗi người một ít, mỗi lúc một ít. Họ làm vậy để gia đình nghèo khó kia không thể nhận ra ngay sự giúp đỡ của người khác. Họ đã vì nhau mà không cần quảng bá “lòng tốt” của mình, cho thiên hạ biết. Khi đã tìm cách quảng bá cho thiên hạ biết “lòng tốt” của mình, thì chủ nghĩa thực dụng đã nằm sẵn trong đó rồi.


Giờ thì chẳng thể tìm được những câu chuyện như vậy nữa. Từ đó đến nay mới chỉ hơn 30 năm mà lòng người đã đổi thay quá nhiều. Bây giờ con người đâu đói khổ như 30 năm trước, nhưng lòng tham và thói ích kỷ lại tăng lên gấp bội. Quan hệ giữa người này với người kia, giữa nhà này với nhà khác trong làng ngày càng giống quan hệ của những người ở chốn đô thị. Mỗi một cộng đồng dân cư có những đặc điểm trong sinh hoạt cộng đồng khác nhau, nếu làng mất đi quan hệ tối lửa tắt đèn có nhau thì có nghĩa là văn hóa làng đang mất.
Chúng ta thường nói nhiều về sự tăng trưởng kinh tế, nhưng lại chẳng mấy khi nói về sự phát triển nhân cách và tâm hồn con người. Ngay cả trong các sáng tác văn học nghệ thuật, nơi lẽ ra chỉ dành để tôn vinh cái đẹp và sự dâng hiến, cũng lại chứa đầy thói vị kỷ và tự phụ của chúng ta.
Đối với dân tộc Việt Nam thì làng, nơi khởi sinh và cũng là nơi trú ngụ cuối cùng những vẻ đẹp thuần khiết của tâm hồn đã và đang bị phá vỡ. Tâm hồn chúng ta sẽ tìm về đâu để được trú ngụ, để được phục sinh trong cội nguồn văn hóa? Những công dân cuối cùng của làng quê Việt Nam đang kêu cứu: “Chúng tôi đang mất làng”. Làng mất đi, họ mất đi, thay vào đó sẽ là những con người của chủ nghĩa thực dụng và thói vô cảm.
Bức Thư Thứ Bảy: Một Dự Báo Về Làng 30 Năm Sau

NGUYỄN QUANG THIỀU

http://lethieunhon.com/read.php/3138.htm
Tôi sống giữa làng quê như người ngồi trên một con tàu. Con tàu này thực sự đã đi chệch đường ray. Cho dù bây giờ, tất cả người lái tàu cho đến hành khách đều nhận ra điều ấy thì chúng ta cũng không thể dừng con tàu lại ngay lập tức và điều chỉnh hướng đi. Đoạn đường để cho con tàu chạy chậm dần và dừng lại sẽ phải mất một thời gian sớm nhất là 30 năm nữa.

Với những gì mà chúng ta đang đối xử với làng quê của chúng ta trong một hai thập kỷ trở lại đây đa cho thấy “tốc độ” sai lầm của chúng ta vẫn tiếp tục tăng lên. Kiến trúc làng quê Việt Nam truyền thống đã bị phá vỡ gần như hoàn toàn. Trong lúc đó, những người nông dân không có ai chỉ bảo và không có bất cứ chiến lược hay luật pháp nào về quy hoạch nông thôn ngăn cản đã đang tiếp tục “đắm mê” với sai lầm của mình. Còn chiến lược về văn hóa nông thôn thì hình như không có hoặc nếu có chỉ là một văn bản chung chung để báo cáo chứ không phải để thực hiện. Việc gìn giữ, tuyên truyền và phát triển văn hóa nông thôn, nền văn hóa cơ bản của nước Việt – văn hóa lúa nước – chỉ do một số người ở mỗi làng quê tự nhận thức và tự hành động chứ không hề có bàn tay cụ thể của những người làm công tác văn hóa. Thậm chí, “ bàn tay cụ thể ” của những nhà quản lý văn hóa đã trực tiếp làm hư hại đến văn hóa làng Việt Nam truyền thống.  Thử hỏi một năm có bao nhiêu hoạt động văn hóa ở mỗi làng ? Đa số các làng ở toàn bộ nông thôn Việt Nam chỉ có một hoạt động văn hóa. Đó là ngày hội làng. Ngay ở một thị xã, cả một năm chúng ta cũng khó có thể tìm ra một hoạt động hay một sự kiện văn hóa đúng nghĩa thì nói gì đến một làng.  Nhưng ngày hội làng giờ đây đã bị dẫn đi xa khỏi bản chất của nó. Nhiều nơi, người ta biến ngày hội làng thành một cơ hội kinh doanh thu lợi.


Cũng giống như chủ trương cơ giới hóa nông nghiệp, chủ trương sách cho nông thôn cũng chết hoàn toàn. Mấy chục năm trước, người nông dân còn có ham muốn đọc sách nhưng bây giờ thì không còn nữa. Ngay cả những cán bộ thôn, xã và giáo viên ở nông thôn đã mất hoàn toàn ý thức đọc sách vì sách quá đắt và vì văn hóa đọc sách đã mất hẳn. Chúng ta thử hỏi có bao nhiêu làng có thư viện ? Trong lúc đó, ngân sách chi cho văn hóa không nhỏ. Nhưng hầu hết ngân sách đó lại chỉ giành cho những hoạt động mang tính thành tích. Thử hỏi cứ 1000 người ở nông thôn thì có bao nhiêu người đọc sách ? Tự tin lắm thì tôi cũng chỉ dám nói : có 1/1000. Chính thế mà cả hình thức lẫn nội dung của một làng Việt Nam truyền thống đã không được bảo tồn và phát triển. Tất cả những gì thuộc về tư duy và ý thức của chúng ta đã đẩy làng Việt Nam đi xa khỏi bản chất của nó.

Bởi thế, mấy chục năm tới đây, chúng ta sẽ chỉ thấy hầu hết các làng Việt Nam, những cộng đồng đặc trưng và bền vững nơi chứa đựng những đặc tính cơ bản của văn hóa Việt lúc đó chỉ còn là một chỉ còn là một cụm dân cư hổ lốn vô bản sắc. Với cách xây dựng nhà ở và các công trình ở nông thôn như hiện nay thì lúc đó chúng ta chỉ thấy một đống bê tông xám xịt và rối loạn. Với một chính sách giáo dục và văn hóa sai lầm đối với nông thôn sẽ làm biến mất hay nói cách khách là giết chết những nét đẹp của văn hóa làng Việt Nam. Tính dòng họ và tính cộng đồng làng xóm Việt Nam bị phá vỡ và nông thôn bị dồn đẩy vào những nhóm cộng đồng nhỏ đầy tính ích kỷ và bị cô lập hóa.

 

Đó chỉ là một hình ảnh hết sức khái quát về các làng Việt Nam mấy chục năm tới. Đến lúc đó, những nhà quản lý và quy hoạch nông thôn của một thế hệ mới có nhận thức, có hiểu biết và có trách nhiệm lại bắt đầu tìm cách phục hồi những vẻ đẹp của văn hóa làng. Và họ phải mất bao nhiêu thời gian để làm được điều đó ? Xin trả lời rằng : ít nhất là 50 năm. Cho dù mấy chục năm tới, Việt Nam vô cùng giàu có thì chúng ta cũng chỉ phục hồi được phần kiến trúc nông thôn. Chúng ta có thể đập đi toàn bộ những khối bê tông phi thẩm mỹ và vô cảm để xây dựng lại. Nhưng những gì thuộc về văn hóa mà  chúng ta trực tiếp hay gián tiếp giết chết có thể phải mất cả hàng thế kỷ mới có thể phục hồi.



Những gì tôi đang nói về nông thôn và nông dân Việt Nam cũng mới chỉ là 50% sự thật. Hiện thực của nông thôn Việt Nam bâu giờ còn tệ hại hơn rất nhiều nhưng điều tôi nói. Từ một khẩu hiệu trên những bức tường của những ngôi nhà dọc đường làng đến các hoạt động xã hội hay gọi là văn hóa ở trong chính những ngôi đình làng đã không còn đúng với bản chất của văn hóa làng nữa. Sai lầm này tất nhiên thuộc về những người hoạch định chính sách và trực tiếp quản lý nông thôn. Với cá nhân mình, tôi không chấp nhận bất cứ lời biện minh nào của các nhà hoạch định chính sách và quản lý nông thôn. Họ phải thừa nhận sự sai lầm và vô trách nhiệm của họ.

Cá nhân tôi và nhiều người trong chúng ta đã nhận ra hướng đi sai trong sự phát triển nông thôn nhưng lại là những người bất lực. Chúng ta giống như những hành khách ngồi trên một chiếc tàu và nhìn thấy nó đi chệch đường ray. Nhưng chúng ta không phải là những người lái tàu. Chúng ta chỉ biết kêu lên tiếng kêu của những hành khách như một lời cảnh báo cho những người lái tàu đang ngủ gật hay đang uống bia trong tòa điều khiển như một sự tự thỏa mãn. Bởi có lẽ một trong những lý do làm cho những người lái tàu tự thỏa mãn là họ cảm thấy con tàu đang chạy với tốc độ cao. Họ nghĩ cứ đà chạy như thế, chẳng mấy chốc mà con tàu về tới đích. Nhưng khi đã chệch đường ray thì tốc độ cao chỉ gây ra một tai nạn khôn lường mà thôi.


Nguồn: Bài đã in báo Phụ Nữ TPHCM.

Dùng bản vi tính do tác giả gửi!


 






Điều gì đang xảy ra trong bang giao Việt-Trung? 
Ông Dương Danh Dy -Mặc Lâm,
RFA
AFP PHOTO/Frederic J. Brown

Thủ tướng VN Nguyễn Tân Dũng gặp gỡ Thủ tướng TQ Ôn Gia Bảo hôm 17-4-2009, nhân chuyến sang Trung Quốc tham dự Diễn đàn Kinh tế Bác Ngao.

i đây, Trung Quốc đã mạnh mẽ chống lại việc Hà Nội đệ trình bản đăng ký thềm lục địa mở rộng tại Liên Hiệp Quốc vào ngày 7 tháng 5 vừa qua và động thái này ngay sau đó đã bị Việt Nam phản bác.


Hà Nội cũng vừa công khai đặt mua một số tàu ngầm tối tân của Nga với số tiền bằng phân nửa ngân sách quốc phòng hàng năm của Việt Nam.

Điều gì đang xảy ra giữa bang giao Trung -Việt khi chỉ cách đây ít lâu Việt Nam vẫn còn rất dè dặt khi nói đến vấn đề nhạy cảm này?  Mặc Lâm phỏng vấn ông Dương Danh Dy một nhà ngoại giao kỳ cựu có nhiều chục năm làm việc tại sứ quán Việt Nam ở Trung Quốc để biết thêm những kinh nghiệm mà nhà ngoại giao này có được.


Bối Cảnh


Mặc Lâm:  Thưa ông vào ngày 7 tháng 5 vừa qua Việt Nam đã đăng ký thềm lục địa mở rộng dù biết rằng Trung Quốc sẽ chống đối. Xin ông cho biết việc làm này có ý nghĩa như thế nào trong hoàn cảnh hiện nay?
Ông Dương Danh Dy:  Ta báo trước cho Trung Quốc biết đấy. Tôi nói cho các anh biết là tôi sẽ đăng ký cái này dù các anh có phản đối. Tức là tôi qua đó để nói với anh rằng thái độ của chúng ta, những nhà lãnh đạo của chúng ta bây giờ cũng là cương quyết rồi. Chúng ta có thể nói là những vấn đề lớn, những vấn đề nguyên tắc là chúng ta không lùi.
Mặc Lâm:  Với kinh nghiệm nhiều năm làm việc trong lĩnh vực ngoại giao ông đã tiếp cận khá nhiều với Trung Quốc, ông có nhận xét gì về cách mà nước này đối phó với Việt Nam trong những năm qua?
Ông Dương Danh Dy:  Theo tôi, vấn đề của ta với Trung Quốc, ngoài những vấn đề bauxite ở trên lục địa thì bây giờ vấn đề Biển Đông nó nổi lên thành một vấn đề có thể nói là nhạy cảm, gay gắt và nó thể hiện rõ cái quan hệ hai nước ấm lạnh như thế nào là cũng qua đây nó thể hiện đấy.

Nhưng trong vấn đề này thì tôi nghĩ rằng Việt Nam chúng ta bây giờ không thể, nhưng mà muốn giải quyết vấn đề này (thì) không có cách gì khác là phải dựa trên sức mạnh dân tộc. Sức mạnh dân tộc đây tôi nói là cả trong và ngoài nước chứ không phải là chỉ có trong nước đâu.

Ngoài nước cũng là sức mạnh rất đáng kể mà trước đây tôi đã rất chú ý vấn đề này nhưng mà gần đây thì người trong nước mới chú ý đến họ.

Thế thì đấy là sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại. Sức mạnh của thời đại đây tức là cái công khai hoá, cái quốc tế hoá, cái đa phương hoá để tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của những người đồng tình với chúng ta.


Mặc Lâm:  Dư luận cho rằng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc đã viện trợ cho Miền Bắc rất nhiều và có lẽ sự trợ giúp quân sự này đã khiến cho Hà Nội tỏ ra quá mềm yếu trong khi đàm phán về biên giới giữa hai nước, phải không ạ?
Ông Dương Danh Dy:  Bây giờ cũng không thể kết tội ai được bởi vì nó là chuyện lịch sử rồi. Chúng ta có một số điều hứa. Tôi biết rất rõ những điều hứa này của ta. Ta có những điều hứa trong vấn đề Biển Đông. Cái hứa của chúng ta lúc đó thì có những nguyên nhân là do chúng ta bênh Trung Quốc, có những nguyên nhân do chúng ta dốt, chúng ta không hiểu gì cả.

Tôi xin nói thật, tôi đã từng đi điều tra biên giới trên bộ nhiều lần và tôi thấy có những cái đúng là sự ngây ngô khờ dại, có những cái do lúc bấy giờ người ta giúp mình nhưng mà mục đích là đưa hàng hoá sang nhanh chẳng hạn.

Như tôi nói làm một con đường đi qua lãnh thổ của Trung Quốc thì là phải qua đèo cao, thế thì đi vòng chân đồi mở rộng sang chỗ đường bằng phẳng đi vòng trên đất nước Việt Nam thì đường ô-tô dễ đi. Lúc không có chuyện thì không sao, nhưng bây giờ anh nói đường của tôi ở đâu thì đất của tôi ở đấy.
Thế là mình mất toi mấy chục hecta trở lên. Làm thế nào được! Đấy, lúc đó là trong hoàn cảnh thời chiến. Người ta giúp mình, mình chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện đó, có thể là không nghĩ ra, có thể là dốt, vân vân. Bây giờ muốn trách cứ thế nào thì cũng phải chịu thôi.

Sức Mạnh Dân Tộc


Mặc Lâm:  Mới đây thì Việt Nam đã chính thức đặt hàng mua một số tiềm thủy đỉnh tối tân của Nga. Ông nhận định việc này ra sao?
Ông Dương Danh Dy:  Phông phải bây giờ mới là lần đầu. Ta có tên lửa, ta có máy bay tầm xa, ta có tàu ngầm bỏ túi, trước những cái này rồi. Tôi nói thật báo chí Trung Quốc họ công khai rồi, các anh không có đọc nên không biết đó thôi.

Báo chí Trung Quốc đánh giá lực lượng mình, cho điểm rất kỹ : máy báy SU-30, SU-37 của Nga thế nào, tàu ngầm bỏ túi của Triều Tiên như thế nào, họ biết cả đấy. Tên lửa tầm gần, tầm trung của ta như thế nào, họ biết cả đấy chứ không phải không đâu.

Thế thì bây giờ cái chuyện chúng ta mua 6 tàu ngầm của Nga, như vậy đó là nằm trong kế hoạch. Chúng ta thì không chạy đua vũ trang nhưng mà chúng phải có cái bảo vệ mình. Anh không còn lùi được nữa.

Trên bộ xong rồi thì bây giờ trên biển đấy. Trên bộ thì họ còn cái bauxite, họ cắm cái dao găm vào đấy. Nhưng mà cái đó các anh bên ngoài theo dõi cũng thấy. Nhân dân mình cảnh giác, người già cảnh giác, trẻ cảnh giác, cũng là một mặt nhưng mà không đáng ngại, nhưng còn cái biển thì bây giờ cái vấn đề nó nóng bỏng rồi, không lui được nữa rồi, chỉ có cách bây giờ mình giải quyết như thế nào?

Theo tinh thần của cha ông mình, khôn ngoan khéo léo dựa vào sức mạnh của ta, sức mạnh trong nước, sức mạnh ngoài nước, sức mạnh của thế giới, sức mạnh của dư luận tiến bộ, vân vân.
Mặc Lâm:  Ông có nghĩ rằng động thái mua võ khí tối tân của Việt Nam có làm cho Trung Quốc đi đến những quyết định quân sự mà từ lâu họ vẫn âm thầm chờ đợi hay không?
Ông Dương Danh Dy:  Tôi nghĩ rằng trong lúc này phía Trung Quốc họ chưa làm được cái gì lớn đâu. Cho đến tháng 10 sang năm Trung Quốc tổ chức triển lãm quốc tế ở Thượng Hải, cho nên trong giai đoạn này thì Trung Quốc chưa dám làm điều gì lớn ở Biển Đông đâu.

Nhưng mà sau thời điểm 2010 trở đi thì chưa biết họ làm cái gì đâu. Họ kinh khủng lắm chứ. Không phải là



đùa với người láng giềng này được đâu.

Ứng Phó Với Bắc Kinh?


Mặc Lâm:  Trong khi làm việc với Trung Quốc, ông có nhận xét gì về những chiến lược của họ đối với vấn đề biên giới hai nước? Đặc biệt là biên giới trên bộ?
Ông Dương Danh Dy:  Trong cái chuyện Biển Đông bây giờ thì nó lại còn gay gắt hơn trên bộ bởi vì rõ ràng là trong cái chuyện này thì đây là một cuộc đối đầu không cân sức. Trung Quốc mạnh hơn ta rất nhiều. Thế thì mình bây giờ phải có biện pháp khôn ngoan làm thế nào để mình giữ vững được. Chúng ta cũng phải xem lại, xem mình như trước đây chủ trương công khai như vậy đã đúng chưa?

Theo tôi nghĩ bây giờ đương giai đoạn nung nấu. Vấn đề này hiện nay đã trở thành vấn đề thời sự trong nước. Bây giờ ở trong nước tôi biết là ta tìm được quả ấn chứng tỏ rằng ngày xưa đất của chúng ta ở gần Bằng Tường, cách biên giới bây giờ khoảng hai chục cây số, tức là các cụ nhà mình cũng mất đất cho Trung Quốc, cho nên những người bên ngoài cứ bảo rằng chúng tôi là hèn, chúng tôi bán nước, chúng tôi không có cái chuyện đó đâu.

Chúng tôi đấu với họ (Trung Quốc) cũng căng lắm chứ, nhưng mà trong cái tương quan lực lượng, nhất là biên giới trên bộ, anh nào yếu hơn, anh nào khôn hơn, lọc lõi hơn, mình thì yếu hơn lại có những lúc dại khờ, có những lúc cả tin, tất nhiên cái chuyện thua thiệt là cái điều khó tránh khỏi. Khó chứ không phải dễ tránh nổi lịch sử đâu!
Mặc Lâm:  Và cuối cùng xin ông một kết luận về những điều mà ông cho là quan trọng nhất để người Việt chúng ta dè chừng và đối phó với họ?
Ông Dương Danh Dy:  Tôi làm việc với Trung Quốc suốt từ năm 1962 đến năm nay về hưu rồi nhưng mà vẫn cứ tiếp xúc với những người làm với Trung Quốc là cái anh láng giềng nó to, nó khoẻ, nó lại tham, nó lại xấu tính.

Mệt lắm. Lúc hữu nghị mình tưởng nó hữu nghị nó giúp mình hết sức, nhưng mà nó cũng luôn luôn tìm cách nó thọc gậy. Tất nhiên là những cái giúp đỡ của họ với mình thì mình không bao giờ quên. Nó to lớn lắm! Nhưng mà ngay trong những lúc họ giúp đỡ mình to lớn nhất họ vẫn có ý đồ. Có, mà lúc đầu mình không để ý.

Cho nên trong cái buổi phát biểu gần đây tôi có nói như thế này: "Mắt tôi đã từng thấy thế hệ cha anh bị Trung Quốc mang lòng tin ra để đánh lừa, thế hệ tôi cũng có lúc bị Trung Quốc mang cái lòng tin ra để đánh lừa. Tôi hy vọng và mong rằng thế hệ sau tôi không mắc những cái nhược điểm đó".
Mặc Lâm:  Thưa, một lần nữa xin cám ơn ông đã cho phép chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn rất đặc biệt này.

Phân Ưu




Cụ Bà Nguyễn Thị Hải



Thân Mẫu chị Dương Thị Xuân

Tạ thế lúc 13 giờ 15 phút chiều ngày 25 tháng 7 năm 2009

hưởng thọ 85 tuổi
Thành kính phân ưu cùng chị Dương Thị Xuân và tang quyến.

Cầu nguyện Cụ Bà về nơi bình an.



Ban Biên Tập Tập San Tự Do Dân Chủ







THƯ BAN BIÊN TẬP ……(Tiếp theo trang 22)

Người Tàu đang âm mưu tiến chiếm Cao nguyên, nơi có vị trí địa lý mang tính chiến lược cực kỳ quan trọng của nước ta, họ đang bao vây biển Đông dã tâm biến thành ao nhà của nước họ và đang giết chết dần giòng sông Cửu Long của cả mấy nước lân bang vẫn hưởng chung lợi ích của nó trên bán đảo Đông Dương từ bao ngàn đời nay…


Suốt đời binh nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là những chuổi ngày liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc kể từ khi chính ông cũng được họ đào tạo tại trường quân sự Hoàng Phố bên đó khi vị tướng này và đảng CS của ông còn chưa tiếm quyền thành công ở trong nước. Không ai biết rõ tâm địa người Tàu hơn Lão Đại tướng , chính vì vậy ông đã liên tục gửi thư đến hệ thống cầm quyền hiện tại. Bên cạnh đó chúng ta không thể không nhắc đến trường hợp ông Dương Danh Di cũng đã từng trải qua mấy chục năm của cuộc đời gắn bó máu thịt với đảng CSVN của ông ta. Ông đã phục vụ tại tòa đại sứ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà sau này là nhà nước CHXHCN Việt Nam tại Bắc Kinh. Chính nhà ngoại giao CS này đã gửi lời nhắn cho thế hệ trẻ VN rằng : "Mắt tôi đã từng thấy thế hệ cha anh bị Trung Quốc mang lòng tin ra để đánh lừa, thế hệ tôi cũng có lúc bị Trung Quốc mang cái lòng tin ra để đánh lừa. Tôi hy vọng và mong rằng thế hệ sau tôi không mắc những cái nhược điểm đó".
Thế hệ người Việt chân chính chúng ta trước đây và hôm nay đã nhận thấy hiểm hoạ này từ rất lâu trước những người cộng sản Việt Nam. Chúng ta đang nỗ lực đấu tranh kiên trì không ngưng nghỉ để dân tộc tránh rơi vào thảm hoạ như lịch sử đã từng xảy ra với đất nứớc ta và nhiều quốc gia láng giềng khác mà người hàng xóm khổng lồ luôn nuôi dưỡng mộng bá quyền là thủ phạm gây ra …
Kính thưa quý đc giả thân mến !
Nhân dịp này, chúng tôi kính thông báo đến toàn thể quý độc giả một vài thay đổi về tổ chức nhân sự của Ban biên tập Tập San T Do Dân Chủ mới để phù hợp hơn nữa với hoàn cảnh của thực tế trong nước như sau :
1/ Nhà văn Hoàng Tiến giữ vị trí Chủ Nhiệm Tập San T Do Dân Chủ.

2/ Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn giữ vị trí Tổng Biên Tập Tập San T Do Dân Chủ.

3/ Trong Ban Biên Tập mới của Tập San ngoài những thành viên cũ ra còn có thêm kỹ sư Đ Nam Hải tham gia.

4/ Các chiến sĩ dân chủ tham gia khối đu tranh 8406 như các anh chị: H Thị Bích Khương, Lê Thanh Tùng, nông dân Dương Văn Nam ....vv…. là các nhà báo, ký giả t do, nhà thơ nông dân nghiệp dư cũng chính là những cộng tác viên tích cực của Tập San chúng tôi. Vậy nay chúng tôi kính báo đ quý độc giả tỏ tường và rất mong được s tích cc hợp tác, giúp đ của quý vị dành cho anh chị em chúng tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ đầy nguy hiểm và vinh d đã được giao phó.
Những ngày sắp tới, những năm sắp tới là thời gian khó khăn của đất nước ta. Bóng dáng của cuộc xâm lược từ phương Bắc mỗi ngày mỗi lộ diện rõ ràng hơn trước với sự hỗ trợ tích cực cùng sự nhu nhược, ươn hèn của nhà cầm quyền ở bên trong. Chúng ta sẽ gìn giữ và phát triển đất nước yêu qúy của chúng ta bằng cách nào, đó là niềm trăn trở đêm ngày khôn nguôi của mỗi người Việt Nam yêu nước có lương tri, có trách nhiệm với giang sơn của cha ông ta và các bậc tiền nhân đã để lại….

Điều chắc chắn là chúng ta giờ đây phải tăng cường đấu tranh không chỉ với kẻ thù ngoại bang đang lăm le bờ cõi, mà chúng ta còn phải xiết chặt đoàn kết, sẻ chia mọi gian khó, thuận lợi để tranh đấu với cả kẻ nội xâm đang hiện diện ngay trong lòng đất nước và đang không ngừng tước đoạt quyền được sống trong dân chủ, tự do, nhân quyền của cả dân tộc này.



Hà Nội những ngày cuối tháng 7-2009
Trân trọng kính chào

Ban Biên Tập Tập San Tự Do Dân Chủ





Tự Do Dân Chủ / Số 14 – Trang

Каталог: TapSan
TapSan -> Tiếng nói của tất cả mọi người Việt Nam yêu chuộng tự do dân chủ, công bằng xã hội, góp phần thúc đẩy công cuộc dân chủ hóa đất nước theo tiến trình văn minh chung của nhân loại, đòi hỏi thực thi công bằng và lành mạnh hóa xã hội
TapSan -> Tiếng nói của tất cả mọi người Việt Nam yêu chuộng tự do dân chủ, công bằng xã hội, góp phần thúc đẩy công cuộc dân chủ hóa đất nước theo tiến trình văn minh chung của nhân loại, đòi hỏi thực thi công bằng và lành mạnh hóa xã hội
TapSan -> MỘt vài thông tin nhân sự kiện gs ngô BẢo châU ĐẠt giải thưỞng fields 2010 Huỳnh Tấn Châu Trường thpt chuyên Lương Văn Chánh
TapSan -> Tiếng nói của tất cả mọi người Việt Nam yêu chuộng tự do dân chủ, công bằng xã hội, góp phần thúc đẩy công cuộc dân chủ hóa đất nước theo tiến trình văn minh chung của nhân loại, đòi hỏi thực thi công bằng và lành mạnh hóa xã hội
TapSan -> Tiếng nói của tất cả mọi người Việt Nam yêu chuộng tự do dân chủ, công bằng xã hội, góp phần thúc đẩy công cuộc dân chủ hóa đất nước theo tiến trình văn minh chung của nhân loại, đòi hỏi thực thi công bằng và lành mạnh hóa xã hội

tải về 0.79 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương