TIẾn với việc cảnh báo sát thực những không gian có nguy cơ cao…HO¹T §éNG øNG PHã VíI BIÕN §æI KHÝ HËU CñA CH¦¥NG TR×NH SEMLA
S.TS Trương Quang Học*, GS.TS Per Bertilsson* Đặt vấn đề Biến đổi khí hậu (BĐKH), mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và nước biển dâng, là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với loài người trong thế kỷ XXI. BĐKH tác động tới mọi lĩnh vực, bao gồm tài nguyên thiên nhiên, môi trường, kinh tế xã hội và sức khoẻ con người. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của nó có thể khác nhau tuỳ theo điều kiện địa lý, mức độ phát triển và các biện pháp thích ứng mà các khu vực cũng như các quốc gia cụ thể áp dụng (IPCC, 2007 a, b). Việt Nam được coi là một trong các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH. Mặc dù tác động của BĐKH trên các mặt xã hội, kinh tế và môi trường chưa được đánh giá đầy đủ, nhưng rõ ràng BĐKH đã trở thành một thách thức hiện hữu đối với các nỗ lực nhằm đạt được mục tiêu về xoá đói giảm nghèo, phát triển bền vững và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Vì vậy, việc ứng phó với BĐKH là một trong những ưu tiên của Việt Nam, cả trong trước mắt và lâu dài (Trương Quang Học, 2007 a, b; Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008). Hiện nay, theo tinh thần của Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và đang trình Chính phủ phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (CTMTQG). Khi được phê duyệt, Chương trình sẽ trở thành định hướng và chiến lược cơ bản của Nhà nước để ứng phó với BĐKH. Trên cơ sở này, các bộ, ngành và địa phương sẽ xây dựng các kế hoạch hành động của mình để phối hợp triển khai thực hiện. Bộ cũng đã thiết lập một diễn đàn đối thoại chính sách với thành viên là các bộ, ngành, tổ chức, các đối tượng khác có liên quan và các nhà tài trợ. Diễn đàn đối thoại chính sách là công cụ hỗ trợ và điều phối trong việc xây dựng và thực hiện CTMTQG (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2007, 2008). Chương trình Hợp tác Việt Nam - Thuỵ Điển về tăng cường năng lực quản lý đất đai và môi trường (SEMLA) tại Bộ Tài nguyên và Môi trường có nhiều hoạt động chịu sự tác động của BĐKH. Bốn trong số sáu tỉnh của SEMLA (bao gồm Nghệ An, Phú Yên, Bình Định và Bà Rịa Vũng Tàu) là các tỉnh có biển. Một số hoạt động liên quan đến việc thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH đã được thực hiện trong Chương trình và đã được đưa vào Kế hoạch hoạt động giai đoạn 1/1/2008 - 30/6/2009 (Per Betilsson và Trương Quang Học, 2007). Kết quả và các mô hình thành công của Chương trình sẽ được nhân rộng trong phạm vi các tỉnh SEMLA và trên phạm vi cả nước. Các kinh nghiệm và mô hình thực tế này là các yếu tố đầu vào và là đóng góp quan trọng cho quá trình chuẩn bị và triển khai các kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện CTMTQG. Bài viết này trình bày các hoạt động về ứng phó với biến đổi khí hậu và kết quả bước đầu đạt được của Chương trình SEMLA theo Kế hoạch năm 2008 - 2009 trong các lĩnh vực có liên quan.
Nói chung, BĐKH có ba biểu hiện đặc trưng cơ bản sau đây: – Nhiệt độ trung bình năm tăng; sự biến đổi và độ khác thường của thời tiết và khí hậu tăng; – Nước biển dâng do băng tan từ các cực Trái Đất và các đỉnh núi cao; – Các hiện tượng cực đoan của thời tiết và thiên tai (nóng, rét hại, bão, lũ lụt, hạn hán, v.v…) xảy ra với tần suất cao hơn, cường độ và độ khác thường lớn hơn. Việt Nam được coi là một trong các quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng hưởng lớn nhất của BĐKH. Ở Việt Nam, trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình đã tăng lên 0.70C và mực nước biển đã dâng lên khoảng 20 cm. Hiện tượng El-Nino và La-Nina đã ảnh hưởng lớn hơn, thiên tai, đặc biệt là bão lũ và hạn hán ngày cảng trở nên khốc liệt hơn. Các hiện tượng biến đổi này chỉ là dấu hiệu báo trước của các diễn biến sẽ xảy ra. Theo tính toán gần đây nhất, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình có thể tăng thêm 30C và mực nước biển dâng lên tới 1 m (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008). Nếu nhiệt độ trung bình tăng thêm 20C và mực nước biển dâng thêm 1 m, thì 12,2% diện tích đất - nơi sống của 23% dân số (khoảng 17 triệu người) sẽ bị ngập. Trong trường hợp nước biển dâng thêm 3m, khoảng 25% dân số sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp và GDP sẽ bị giảm sút khoảng 25%. Khi đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, dự kiến khoảng 45% diện tích sẽ bị nhiễm mặn nặng và mùa màng sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng do ảnh hưởng của lũ lụt. Nếu không có biện pháp thích ứng hiệu quả thì khi nước biển dâng thêm 1m, cả vùng châu thổ này sẽ bị ngập lụt trong thời gian dài mỗi năm. Thiệt hại ước tính lên tới 17 tỷ USD (Van Urk and Misdorp, 1996; Pilgrim, 2007). Việt Nam đã ký Công ước chung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC) (1992), Nghị định thư Kyoto (KP) (1998) và tham gia Hội nghị Baly (2007). Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao làm cơ quan đầu mối của Chính phủ Việt Nam tham gia và thực hiện UNFCCC, KP. Chính phủ đã ban hành các Chỉ thị, Quyết định, Nghị quyết giao Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành, địa phương có liên quan triển khai thực hiện các cam kết này. Trong thời gian qua, Việt Nam đã tham gia nhiều hoạt động của khu vực và toàn cầu về BĐKH và có quan hệ hợp tác thường xuyên với Ban Thư ký UNFCCC, Ban Chấp hành quốc tế về cơ chế phát triển sạch (CDM, KP), Ban liên Chính phủ về BĐKH, với các nước và các tổ chức quốc tế về các vấn đề có liên quan. Việt Nam cũng đã triển khai một số chương trình nghiên cứu, dự án về BĐKH, CDM có kết quả (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2003, 2004; VACNE, 2008).
SEMLA là Chương trình hợp tác Việt Nam - Thuỵ Điển kéo dài 5 năm (từ 2004 đến giữa năm 2009) với mục tiêu chung là hỗ trợ thiết lập một hệ thống quản lý Tài nguyên và Môi trường hiệu quả phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, quản lý tốt ở cấp địa phương và hỗ trợ người dân tham gia vào quá trình ra quyết định. Chương trình SEMLA có 9 hợp phần: i) Hợp phần quốc gia (gồm 6 nhóm chuyên đề: Rà soát chính sách và quản lý, Xây dựng năng lực, Quản lý đất đai, Quản lý môi trường, Hệ thống thông tin đất đai và môi trường, Nâng cao nhận thức), ii) Hợp phần đặc thù về An toàn hoá chất (của Bộ Công - Thương và Hợp phần đặc thù của Cục BVMT, và iii) sáu hợp phần tỉnh (Hà Giang, Nghệ An, Phú Yên, Bình Định, Đồng Nai, và Bà Rịa Vũng Tàu). Tại mỗi hợp phần tỉnh có 8 dự án, bao gồm: P1 - ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm và phục hồi sau ô nhiễm, P2 - Sản xuất sạch hơn, P3 - An toàn hoá chất,
Ngay từ khi bắt đầu, Chương trình đã xác định rõ ràng rằng Hợp phần quốc gia sẽ chịu trách nhiệm xây dựng chính sách, tổ chức triển khai và hỗ trợ kỹ thuật; các Hợp phần tỉnh chịu trách nhiệm triển khai các chính sách đã được xây dựng và có ý kiến phản hồi lên các cấp cao hơn để hoàn thiện chính sách. Các thành tựu mà Chương trình SEMLA đạt được đã có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của ngành Tài nguyên và Môi trường, sự phát triển kinh tế xã hội/xoá đói giảm nghèo, việc thực hiện các mục tiêu và thỏa thuận hợp tác phát triển giữa Việt Nam và Thuỵ Điển, và việc thực hiện Cam kết Hà Nội về hiệu quả viện trợ (Hoàng Minh Đạo, Trương Quang Học và Per Bertilsson, 2007).
Một số hoạt động của Chương trình SEMLA đã có sự lồng ghép với việc thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH (Per Bertilsson và Trương Quang Học, 2007), bao gồm: 2.1. Quy hoạch sử dụng đất (Nhóm chuyên đề quản lý đất đai) Một trong các hoạt động mới được thực hiện gần đây là trong lĩnh vực quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) vì đây chính là cơ sở chung cho việc quản lý tài nguyên đất đai và quy hoạch tối ưu hoá về sử dụng đất. Vì vậy, QHSDĐ là một công cụ hiệu quả để thích ứng với BĐKH. Chương trình SEMLA đã bắt đầu rà soát lại các mô hình quy hoạch sử dụng đất tổng hợp đã được xây dựng và thử nghiệm tại 6 tỉnh trong năm 2007 và xác định các nội dung ứng phó, giảm nhẹ BĐKH có thể được đưa vào quy hoạch cũng như các bước tiến hành cụ thể trong quy trình lập QHSDĐ (Truong Quang Hoc, Per Bertilsson and Jonas Noven, 2007. Một cách tổng quát, có bốn hoạt động chính như sau: – Sử dụng/Thu thập dữ liệu có liên quan đến khí hậu trong bước thứ nhất của Quy trình lập QHSDĐ; – Đánh giá tiềm năng đất đai và các rủi ro do BĐKH có thể gây ra; – Đánh giá về mặt môi trường đối với các phương án quy hoạch nhằm xem xét các tác động của phương án quy hoạch tới khí hậu và ngược lại; – Đánh giá nhu cầu bố trí đất đai cho các công trình sản xuất năng lượng tái tạo, trên cơ sở các kịch bản về giảm thiểu phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính và đề xuất các vị trí thuận lợi để xây dựng (khu vực phong điện, điện mặt trời, ...) – Giám sát việc thực hiện QHSDĐ, bao gồm cả việc quan trắc khí hậu.
Ngoài ra, Chương trình cũng đã thực hiện một số mô hình toán về dự báo BĐKH cho các tỉnh SEMLA về khả năng biến đổi lượng mưa và nhiệt độ. Các mô hình toàn cầu này sử dụng dữ liệu độ cao và khí tượng giai đoạn từ 1950 tới nay để dự báo các biến động tới năm 2050. Các mô hình này tính toán nhiệt độ và lượng mưa trung bình hàng tháng cho lưới dự báo trong đó ô diện tích một ô lưới là 1 km2 (trên cơ sở độ phân giải của mô hình số độ cao - DEM). Mục đích của việc thử nghiệm này nhằm xác định xem có thể ứng dụng các kết quả dự báo như vậy vào quá trình lập quy hoạch sử dụng đất tại cấp tỉnh hay không. Một cách khiêm tốn nhất, các mô hình này có thể giúp xác định mức độ tương đối về biến đổi lượng mưa và nhiệt độ cho một tỉnh hoặc một khu vực. 2.2. Đánh giá môi trường chiến lược (Nhóm chuyên đề quản lý môi trường) Phiên bản mới của Hướng dẫn kỹ thuật chung của Bộ Tài nguyên và Môi trường về ĐMC có bổ sung thêm nội dung thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH trong quá trình ĐMC. Tóm tắt nội dung này như sau. Bảng 2. Sơ đồ hướng dẫn lồng ghép nội dung thích ứng với BĐKH trong các bước ĐMC
2.3. Nâng cao nhận thức cộng đồng (Nhóm chuyên đề nâng cao nhận thức cộng đồng) Nâng cao nhận thức cộng đồng về BĐKH - bao gồm các kịch bản, tác động và chương trình/ kế hoạch ứng phó - là một nhiệm vụ cấp thiết đối với Việt Nam. Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường với tư cách là cơ quan chủ trì điều phối hoạt động ứng phó với BĐKH, Nhóm nâng cao nhận thức cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong Chương trình SEMLA trong giai đoạn 2008-2009. Chương trình đã xây dựng được bộ tài liệu truyền thông rõ ràng và dễ hiểu về BĐKH cho ba nhóm mục tiêu khác nhau, bao gồm người dân, học sinh phổ thông cơ sở và cán bộ cấp cơ sở. Bộ tài liệu truyền thông về BĐKH này tập trung nâng cao nhận thức về các tác động có thể xảy ra ở cấp địa phương và cấp quốc gia và đã được phân phát tới tất cả các đơn vị của Bộ Tài nguyên và Môi trường và được đăng trên trang web của tất cả các tỉnh và có thể tải xuống một cách dễ dàng. Chương trình SEMLA đã hỗ trợ một số hình thức truyền thông tại cấp cơ sở ở một số địa phương, cũng như tăng cường truyền thông đại chúng thông qua các chiến dịch truyền thông và nâng cao nhận thức. Bằng cách này, Chương trình đã hướng dẫn cách thức lồng ghép thông tin về BĐKH vào các hoạt động cũng như xác định các hoạt động cần phải tiến hành trong giai đoạn 2008-2009. Hỗ trợ mạng lưới báo cáo viên và cộng tác viên cơ sở Báo cáo viên và cộng tác viên cơ sở có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền trực tiếp cho cộng đồng của mình. Tài liệu đào tạo dành cho báo cáo viên cơ sở đã được xây dựng, trong đó bao gồm một mô đun về phương pháp truyền thông về biến đổi khí hậu. Các lớp đào tạo đã được tổ chức từ tháng 9/2008. Nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu thông qua hương ước bảo vệ môi trường Chương trình đã tiến hành đánh giá mức độ nhận thức của cộng đồng và cán bộ địa phương về BĐKH tại một số tỉnh SEMLA. Các cộng đồng địa phương đã bắt tay thực hiện các biện pháp thích ứng với các thay đổi của điều kiện tự nhiên như hiện tượng xâm thực, nhiễm mặn mặc dù có thể họ không nhận thức được mối liên hệ giữa các thay đổi này với BĐKH. Kế hoạch của Chương trình là sẽ bổ sung nội dung BĐKH và các ví dụ điển hình về thích ứng có hiệu quả đối với BĐKH tại cấp cộng đồng vào hương ước bảo vệ môi trường. Tập huấn về kỹ năng truyền thông và nâng cao nhận thức (cho cơ quan truyền thông đại chúng) Các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là truyền hình, rất phổ biến tại Việt Nam, ngay cả ở khu vực nông thôn. Trong nhiều hoạt động của mình, Chương trình SEMLA đã chủ động mời các cơ quan truyền thông đại chúng cấp tỉnh tham gia; Chương trình cũng đã hỗ trợ Sở Tài nguyên và Môi trường Bà Rịa Vũng Tàu và Đồng Nai xây dựng các chương trình truyền hình định kỳ về các vấn đề tài nguyên và môi trường. Các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu. Khả năng tiếp cận đối tượng và tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng khiến cho đó trở thành kênh thông tin số một đối với một lượng lớn công chúng. Chương trình SEMLA có thể góp phần xây dựng năng lực cho đội ngũ phóng viên, và hỗ trợ họ thực hiện một nhiệm vụ quan trọng là đưa tin chính xác và toàn diện về các vấn đề liên quan đến khí hậu ở cấp quốc gia và cấp cơ sở. Tổ chức một khoá tập huấn ngắn (2 - 3 ngày) cho đội ngũ phóng viên các tỉnh SEMLA. Nội dung khoá tập huấn sẽ bao gồm các cách tiếp cận và kỹ năng báo chí khi đưa tin về các vấn đề môi trường và phát triển bền vững, đặc biệt chú trọng tới BĐKH. Xây dựng một bộ công cụ truyền thông đại chúng (có cả ở dạng số) trong đó cung cấp thông tin cơ bản về các vấn đề liên quan đến khí hậu của Việt nam nhằm khuyến khích và hỗ trợ việc đưa tin của phóng viên.
Một mô đun đào tạo về biến đổi khí hậu cho cán bộ ngành Tài nguyên và Môi trường hiện đang được xây dựng với sự hỗ trợ của Chương trình SEMLA và sự cộng tác của Vụ Tổ chức cán bộ và Vụ Hợp tác quốc tế của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Mô đun đào tạo này sẽ được sử dụng để tập huấn cho đội ngũ cán bộ tại cấp trung ương và địa phương. Chương trình cũng đã xây dựng một chương trình đào tạo cho cán bộ cấp huyện và xã trong đó chú trọng tới vấn đề BĐKH và quản lý môi trường. Chương trình đào tạo này trước mắt có thể được thực hiện tại các tỉnh SEMLA, tuy nhiên cũng có thể đồng thời triển khai trên toàn quốc nếu Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ có thể cung cấp kinh phí thông qua một cơ chế tài trợ đa phương.
Chương trình SEMLA đã thực hiện và sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động về sản xuất sạch hơn, bao gồm: – Tập huấn về sản xuất sạch hơn; – Thực hiện các dự án thử nghiệm về sản xuất sạch hơn; – Cung cấp thông tin về sản xuất sạch hơn. Các hoạt động về sản xuất sạch hơn nhằm tiếp cận theo cả hai hướng, đó là thích ứng và giảm nhẹ BĐKH. Cùng với các biện pháp khác, sản xuất sạch hơn có thể góp phần giảm nhẹ thông qua việc giảm lượng phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính từ các ngành sản xuất công nghiệp bằng cách tiết kiệm năng lượng và chuyển sang sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng gió và năng lượng mặt trời. Cùng với các biện pháp khác, sản xuất sạch hơn có thể góp phần thực hiện thích ứng với biến đổi khí hậu bằng nhiều cách, ví dụ: giảm lượng tiêu thụ nước từ các nguồn nước có khả năng bị ảnh hưởng xấu bởi biến đổi khí hậu. Tương tự, sản xuất sạch hơn có thể giúp giảm lượng nước thải đổ ra sông hồ và khu ngập nước khiến cho chúng càng dễ bị tổn thương hơn đối với BĐKH. Chương trình SEMLA đã hỗ trợ thực hiện các dự án thử nghiệm về sản xuất sạch hơn (chế biến thủy sản tại Bà Rịa Vũng Tàu, chế biến cao su tại Đồng Nai và chế biến tinh bột sắn tại Bình Định), trong đó tập trung vào giảm lượng nước sử dụng và lượng nước thải. Tất cả các dự án thử nghiệm này đều có thể được nhân rộng ra các địa bàn tương tự khác.
Một số khảo sát đã chỉ ra rằng, pháp luật môi trường liên quan đến lĩnh vực công nghiệp không được thực hiện tốt; ngành Công nghiệp phải chịu trách nhiệm về các tác động tiêu cực gây ra đối với môi trường, cả trên bình diện địa phương và trên các bình diện rộng lớn hơn. Với tốc độ tăng trưởng rất nhanh chóng của ngành Công nghiệp trong những năm vừa qua và các năm sắp tới, tác động tới môi trường có thể còn trở nên nghiêm trọng hơn. Do vậy, một yêu cầu cấp bách hiện nay là cần tăng cường công tác quản lý môi trường trong các khu công nghiệp, nơi thực hiện hoạt động sản xuất của hầu hết các ngành công nghiệp. Giữa năm 2007, Cục Bảo vệ Môi trường (VEPA) đã đề xướng một dự án Quỹ Mở rộng của SEMLA với mục đích thiết lập một diễn đàn chia sẻ thông tin môi trường các khu công nghiệp. Dự án sẽ xây dựng quy chế và mô hình trang thông tin điện tử về môi trường; trang thông tin này có thể được nhúng vào trang thông tin điện tử của các khu công nghiệp. Trang thông tin điện tử về môi trường sẽ cung cấp các thông tin sau: Hiện trạng môi trường khu công nghiệp; Các hoạt động ứng phó của khu công nghiệp đối với BĐKH; Thông tin về pháp luật môi trường có liên quan; Thông tin về công nghệ và dịch vụ môi trường, bao gồm tiết kiệm năng lượng và các nguồn năng lượng tái tạo; Tin tức và kế hoạch môi trường; Công cụ tương tác theo đó các bên có liên quan có thể gửi các đề xuất, yêu cầu, khiếu nại tới ban quản lý khu công nghiệp. Ý định khi thực hiện dự án này là nhằm cung cấp các dịch vụ môi trường cho các bên có liên quan - với tư cách là một kênh bổ sung ngoài kênh thông tin truyền thống theo kiểu chỉ huy - kiểm soát theo pháp luật môi trường, và do vậy có thể tạo ra cơ hội thực hiện các tranh luận cởi mở, bảo đảm minh bạch và giúp công tác quản lý môi trường tại các khu công nghiệp có thể được thực hiện một cách hiệu quả hơn. Một hợp phần đặc biệt của dự án này là tiến hành kiểm toán năng lượng cho một số công ty đóng tại các khu công nghiệp được thí điểm và từ đó xây dựng các hướng dẫn thực hiện tiết kiệm năng lượng theo cách có thể áp dụng một cách dễ dàng. Mục đích của hợp phần này là nhằm trình diễn cách thức dịch vụ thông tin có thể giúp ngành công nghiệp giảm tác động tới môi trường và khí hậu, đồng thời cũng là giảm chi phí sản xuất. Một hợp phần khác của dự án này là tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo cho từng loại hình công nghiệp cụ thể và cho các khu công nghiệp. Các ngành công nghiệp có thể gia tăng sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, đồng thời các khu công nghiệp dọc theo bờ biển có thể xây dựng các bãi phong điện. Diễn đàn chia sẻ thông tin môi trường đã được thử nghiệm tại một khu công nghiệp và sẽ được trình diễn tại các khu công nghiệp khác tại các tỉnh có liên quan tới SEMLA. Dự kiến mô hình diễn đàn chia sẻ thông tin môi trường sẽ được triển khai tại tất cả các khu công nghiệp của Việt Nam trong các năm tới.
“BĐKH đang gây ra sự suy thoái cho môi trường toàn cầu, đòi hỏi cả thế giới phải hành động một cách nhanh chóng hơn bao giờ hết”. BĐKH là một vấn đề phức tạp, vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài. Tác động của BĐKH sẽ xảy ra trên phạm vi toàn cầu và ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực, từ tự nhiên tới kinh tế - xã hội, về thực chất, BĐKH là vấn đề của phát triển bền vững. Như vậy, việc thích ứng với BĐKH cần phải được giải quyết theo một chương trình/kế hoạch toàn diện của từng quốc gia và có hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế để bảo vệ ngôi nhà chung của ta - Trái Đất - nơi nguồn tài nguyên quý giá nhất là con người đang sinh sống. Trong APO 2008 - 2009 của Chương trình SEMLA có lồng ghép các yếu tố tác động của BĐKH vào các hoạt động, ví dụ: (i) Quy hoạch sử dụng đất, (ii) Đánh giá môi trường chiến lược, (iii) Hệ thống thông tin đất đai và môi trường, (iv) Nâng cao nhận thức, (v) Xây dựng năng lực, (vi) Sản xuất sạch hơn, (vii) Diễn đàn chia sẻ thông tin môi trường các khu công nghiệp, ... Kết quả và các mô hình thành công sẽ được nhân rộng trong phạm vi 6 tỉnh SEMLA và trên toàn quốc. Các kinh nghiệm và ví dụ thực tế này là các yếu tố đầu vào và đóng góp quan trọng cho quá trình chuẩn bị và triển khai các kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[12] Trương Quang Học, Per Bertilsson và Jonas Noven, 2007. Các bước tiến bộ trong lồng ghép các nội dung biến đổi khí hậu vào quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam. Tài liệu hội thảo “Thích ứng với biến đổi khí hậu trong các chính sách, quy hoạch và chương trình phát triển tại Việt Nam, Hanoi, 22/10/2007 (Do Bộ Tài nguyên và Môi trường, ICEM, SEMLA và IIED tổ chức):2-16. Каталог: jspui -> bitstream -> 123456789 -> 14888 123456789 -> Vò Quúnh Thu Cao häc K18 123456789 -> Khoa Báo chí Đhkhxh&NV 123456789 -> Acknowledgements 123456789 -> Danh mục chữ viết tắT 123456789 -> Chương TỔng quan vật liệu mao quản trung bình (mqtb) trật tự 1 Giới thiệu chung 123456789 -> Khoa hóa họC (141 142 báo cáo) tải về 2.48 Mb. Chia sẻ với bạn bè của bạn: |