Thuyết bốN ÐẾ Gs. Minh Chi Chủ nhiệm bộ môn tôn giáo học và Phật giáo sử Việt Nam Trường Phật học Cao Cấp Thành phố Hồ Chí Minh 1996



tải về 468.78 Kb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích468.78 Kb.
#19777
1   2   3   4   5   6   7

II. TẬP ÐẾ 

Nội dung của Tập đế, chân lý về nguyên nhân của Khổ là phiền não và nghiệp. Từ sanskrit Samudaya có tiền tố sam nghĩa là tập, tích tập. Do các phiền não tích tập khởi lên dẫn tới tạo nghiệp chồng chất. 



A.  PHIỀN NÃO 



GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
S. Klesa P.Kilesa, Hán dịch nghĩa là Hoặc, Trần lao (bụi trần làm cho con người khổ sở). Nhiễm : làm dơ bẩn. 
Công năng của phiền não là làm rối loạn thân tâm của chúng sinh, gây trở ngại cho việc tu hành chứng đạo, thoát khỏi sanh tử, thể nhập Niết bàn. 

CÁC TỪ ÐỒNG NGHĨA VỚI PHIỀN NÃO 
Tùy miên : Anusaya, ý tứ là phiền não có sẵn, nhưng dưới dạng tiềm ẩn ở trong tâm người, chờ có nhơn duyên mới biểu hiện. Miên có nghĩa đen là ngủ, nằm ngủ. Tùy có nghĩa là đeo đuổi, không tách rời. Các phiền não nằm phục sẵn trong tâm chúng ta và luôn đeo đuổi chúng ta. Khi phiền não biểu hiện thì sách Phật gọi là triền, với nghĩa trói buộc chi phối S.parijavasthana P.pariyutthana. 

Kết S.samyojana : Chia thành 3 kết, 5 thượng phần kết , 5 hạ phần kết , 7 kết, 9 kết, 10 kết...


a/Ba kết : là thân kiến, tức chấp cái thân này là Ta hay của Ta. 
Nghi (không có niềm tin ở chân lý, lẻ phải) tướng của nghi là do dự, phân vân. 
Giới cấm thủ, thủ là chấp, bám lấy, không chịu buông ra. Có một số giới cấm vô ích, phi lý có hại cho sức khỏe của thân, và sự lành mạnh của tâm, nhưng có người vẫn cho là đúng, bám chặt vào không chịu buông tha, thí dụ tin rằng ép xác làm khổ thân xác, như bò không đi thẳng người, cả đời đứng 1 chân, còn chân kia treo lên... Sống như vậy lầm tưởng sẽ được giải thoát và khi chết sẽ được sanh lên cõi Trời. 
b/ Năm thượng phần kết : 
1) Sắc tham ; 2) Vô sắc tham ; 3) Trạo cử ; 4) Mạn ; 5) Vô minh ; 
1) Sắc tham : là thèm muốn cuộc sống ở cõi Trời sắc giới.
2) Vô sắc tham : thèm muốn cuộc sống ở cõi Trời Vô sắc. Ở đây cần phải chú ý là, theo đạo Phật cuộc sống ở hai cõi Trời Sắc giới và Vô Sắc giới tuy sung sưóng hơn rất nhiều so với cõi Người , nhưng vẫn chưa phải là ra khỏi được vòng luân hồi sanh tử, chưa được giải thoát, chưa phải là cảnh giới Niết bàn. 
3) Trạo cử : thân tâm lăng xăng, không yên. 
4) Mạn : kiêu ngạo. 
5) Vô minh : tức là si. 
Năm kết sử này, vừa nặng nề vừa nhỏ nhiệm, nên khó đoạn phải chứng quả A La Hán mới được trừ hết (cho nên gọi là Thượng phần Kết, tức là loại kết sử cao cấp) cũng gọi là 5 độn sử. Theo Hữu bộ, tham, sân, si, mạn, nghi là 5 độn sử. 

c) Năm hạ phần kết 


(Kết sử hạ cấp, vì thô cho nên dễ đoạn trừ hơn, so với thượng phần kiết sử) 
1) Dục tham 
2) Sân giận 
3) Thân kiến (chấp thân 5 uẩn này là Ta hay của Ta). Vì vậy cũng gọi là hữu thân kiến, hay ngã kiến. 
4) Nghi 
5) Giới cấm thủ. 
Chứng được quả A Na Hàm (quả Thánh thứ ba) thì đoạn hết 5 hạ phần kết sử này (cũng gọi là 5 lợi sử).Theo hữu bộ, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ là 5 lợi sử. 

d/ Bảy kết : 


1) Dục tham 
2) Sân giận 
3) Tà kiến 
4) Nghi 
5) Mạn 
6) Hữu tham (tham muốn tồn tại) 
7) Vô minh. 

e/ Chín kết : 


1) Ái ; 2) Sân giận ;  3) Mạn ;  4) Vô minh ;  5) Kiến (tà kiến) ; 
6) Giới cấm thủ ;  7) Nghi ;  8) Tật (ghen ghét) ;  9) Xan (keo kiệt). 

f/ Mười kết : 


(Trong chín kết nói trên, chia Ái làm hai: Dục tham và Hữu tham).

Cái: S.Nivarana. Cái ngăn che.


Năm cái : Dục tham, sân giận, hôn trầm thụy miên (viết tắt là hôn miên), trạo hối (cũng gọi là trạo cử) và nghi. Nhập sơ thiền thì bỏ được 5 cái nói trên. 
Ách : cái ách bò, tròng vào cổ con bò, phiền não cũng như ách bò, nhưng tròng vào cổ người (S. Yoga) ách = Dục hữu, kiến, vô minh. 
Lậu : S.Asrava, Rasava (sai sót, khuyết điểm) có ba lậu : Dục lậu : sai sót vì đam mê dục vọng; Hữu lậu, sai sót vì đam mê tồn tại ở 2 cõi trời sắc và vô sắc; Vô minh lậu, sai sót vì ngu si. 
Bộc lưu : S.Ogha : giòng chảy xiết. Có bốn Bộc lưn là : dục tham, hữu tham, kiến (tà kiến, vọng kiến), vô minh. 
Hệ : trói buộc, S.grantha P.gantha, các từ có nghĩa tưong tự là Hệ phược, kết phược.
Có bốn hệ : Dục, hữu, kiến, vô minh. 
Ngoài ra, có các từ Tam hỏa (3 ngọn lửa),  Tam cấu (ba cái nhơ bẩn), Tam độc (ba độc). 
Cụ thể tức là tham dục, sân giận và ngu si. 
Tiễn : mũi tên. Phiền não ví như mũi tên. 
Trù lâm : rừng rậm. Phiền não nhiều như rừng rậm. 
Kết phược : phiền não kết liền lại, kết tụ lại để trói buộc chúng sanh. S.jata. 
Tăng thịnh : S.Utsada, Ussada; phiền não và dục vọng, càng tìm cách thỏa mãn chúng, thì chúng càng tăng trưỏng. 

Người tu hành, khi chứng quả Tu đà hoàn (tức là quả Dự lưu hay Sơ quả) thì đoạn trừ đuợc ba phiền não là thân kiến, nghi và giới cấm thủ. 


Khi chứng quả A Na Hàm tức là quả Bất Lai thì đã đoạn hết mọi phiền não thuộc Dục giới, tức đoạn hết năm hạ phần kiết sử, đến quả A La Hán thì đoạn luôn năm thượng phần kiết sử, (tức là mọi phiền não của Sắc giới và Vô sắc giới). 
Các bậc Thánh gọi là 4 đôi, 8 chúng theo kinh nguyên thủy. Bốn đôi đồng nghĩa với tám chúng : 
1. Hướng tới Tu Ðà Hoàn (Sơ quả, 1 đôi, cũng gọi là Dự Lưu) 
2. Ðã chứng Tu Ðà Hoàn– 2 đôi. 
3. Hướng tới Tu Ðà Hàm (Nhất lai) 
4. Ðã chứng Tư Ðà Hàm–3 đôi 
5. Hướng tới A Na Hàm. 
6. Ðã chứng A Na Hàm– 4 đôi 
7. Hướng tới A La Hán. 
8. Ðã chứng A La Hán. 

Quá trình tu chứng bốn quả Thánh : Tu đà Hoàn, Tư đà Hàm, A Na Hàm, A la Hán chia làm ba giai đoạn:  Kiến đạo vị - Tu đạo vị - và Cứu kính vị. Vị là quả vị. Quả vị cứu kính là quả A La Hán. 

Trong giai đoạn Kiến đạo thì đoạn trừ kiến hoặc, tức là mọi mê lầm, mê hoặc trong kiến giải, nhận thức, đồng thời đoạn trừ mọi phiền não, gắn với kiến hoặc. Trong giai đoạn tu đạo, thì đoạn trừ mọi tu hoặc. Ðoạn hết kiến hoặc và tư hoặc thì sẽ chứng quả A La Hán. Tư hoặc cũng gọi 1à Tu hoặc là những mê lầm chỉ có hành trì tu trì mới đoạn trừ được. 

Phân biệt kiến hoặc và tư hoặc : 


Kiến hoặc là mê lầm về lý luận, về kiến giải. Những mê lầm này không phải bẩm sinh, mà do học tập sai lầm, học không đến nơi đến chốn mà có. Nếu được nghe chánh pháp, gần bạn lành, thì sẽ đoạn trừ được kiến hoặc. (Vì vậy mà cũng gọi là Lợi sử, Sử là hoặc, phiền não). Tư hoặc là phiền não bẩm sinh, rất khó doạn trừ, mặc dù biết chúng là sai lầm đưa đến khổ não. Vì đó là sai lầm đã thành thói quen phải tu hành lâu dài, kiên trì, mới trừ bỏ được, cho nên cũng gọi chúng là độn sử, tức kiết sử trì trệ, khó đoạn. 
Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ là năm lợi sử (5 hạ phần kiết). 
Tham, sân, vô minh (si), mạn, nghi là năm độn sử (năm thượng phần kiết). 

Sáu loại, mười loại phiền não căn bổn : 


Trong kiến hoặc và tư hoặc, cái chủ yếu là các phiền não căn bổn. Các sách phân biệt có sáu loại và 10 loại phiền não căn bổn. Trong số này, tham, sân, si là ba loại nổi bật nhứt, đứng hàng đầu, và trong ba loại này, thì si cũng gọi là vô minh là căn bản nhứt. Ví dụ, trong 12 nhơn duyên, vô minh được xếp hàng đầu. 
Sáu loại phiền não căn bổn sắp xếp như sau : 
1/ Tham ; 2/ Sân ; 3/ Si (vô minh) ; 4/ Mạn ; 5/ Nghi ; 6/ Kiến giải sai lầm (gọi tắt là kiến). 
Kiến giải sai lầm thường gọi tắt là kiến và phân tích thành năm mục : 
- Thân kiến
- Biên kiến, 
- Tà kiến, 
- Kiến thủ, 
- Giới cấm thủ
Tổng hợp lại thành 10 phiền não căn bổn (do kiến tách thành năm loại kiến). Trong 10 phiền não căn bổn liệt kê trên đây thì tham, sân, si, mạn là tư hoặc. Nghi và kiến là kiến hoặc. 
Tư hoặc cũng có 10 loại : 4 loại ở Dục giới, 3 loại ở sắc giới và 3 loại ở vô sắc giới. 
Ở Sắc giới và Vô sắc giới không còn có sân, chỉ có tham, si, mạn, tống cộng là 10 tư hoặc: 
Tham, sân, si, mạn ở Dục giới 
Tham, si, mạn ở Sắc giới, 
Tham, si, mạn ở Vô sắc giới. 

Tám mươi tám kiến hoặc : là tổng số kiến hoặc ở ba giới. Ðây là cách phân chia của A Tỳ Ðàm, chi ly và phức tạp cho nên không thể bàn ở đây. 


Tám mươi mốt tư hoặc : đem sắc giới chia làm bốn cấp, ứng với bốn cấp thiền sắc giới. Ðem Vô sắc giới chia làm bốn cấp, ứng với bốn cấp thiền của vô sắc. Và mỗi cấp như vậy lại chia thành ba cấp vị : thượng, trung, hạ : chín cấp. Mỗi cấp có chín vị. Tổng cộng thành 81 Tư hoặc. 

Các cách xếp loại phiền não: 


Về xếp loại phiền não, môn Duy thức học có sự xếp loại hoàn chỉnh hơn, lập thành biểu như sau: 
Phiền não căn bổn (6) : 
1. Tham; 2. Sân; 3. Si; 4. Mạn ; 5. Nghi ; 6. Kiến. 
Tùy phiền não (20) : chia làm : 
Tiểu tùy phiền não (10). 
1. Phẫn; 2. Hận; 3. Phú; 4. Não; 5. Tật; 6. Xan; 7. Cuống;  8. Siểm ; 9. Kiêu ; 10. Hại ; 
Trung tùy phiền não (2) : 11. Vô tàm; 12. Vô quý. 
Ðại tùy phiền não : (8) 
13. Hôn trầm; 14. Trạo cử; 15. Bất tín; 16. Giải đãi (lười); 17. Phóng dật (buông thả, phóng túng); 18. Thất niệm (hay quên, không nhớ điều thiện, điều phải); 19. Tán loạn; 20. bất chánh tri. 

Dưới dây sơ lược giải thích từng món phiền não : 


Căn bổn phiền não : 
1. Tham : (S.Lobha, raga, abhidhya. P.abhijjha) cũng gọi là ái, S.trsna, P.tanha). 
Lòng tham ở cõi Trời Sắc giới gọi là Sắc tham. 
Lòng tham ở cõi Trời vô sắc gọi là Vô sắc tham. 
2. Sân : S.dvesa, dosa, pratigha. P.patigha, vyapada, tức là tỏ thái độ cự tuyệt, phản kháng đối với điều mình không hoan hỷ, thích thú. Các tùy phiền não phẫn, hận, hại, đều thuộc phạm vi của sân. Phẫn S.Krodha P.Kodha là giận dữ đến mức độ kịch liệt. Hận Upanaha, là giận ôm ấp trong lòng, như nói oán hận. Hại, vihimasa do giận mà có hành vi hại người, hại vật. 
3. Mạn : Mana, tức là đề cao mình, hạ thấp người khác xuống, xem mình là trung tâm của tất cả. Sách Phật phân biệt ba mạn : Ngã thắng mạn, Alimana. Là tự cho mình hơn người. Ngã đẵngmạn, tự cho mình bằng người, Mana. Ngã liệt mạn, tự cho mình kém người (một cách không thực), avamna, cũng gọi là ty mạn hay ty hạ mạn. 

Có sách phân biệt 7 mạn : 


1/ Mạn,
2/ Quá mạn, 
3/ Mạn quá mạn, maha-timaha 
4/ Ty mạn 
5/ Tăng thượng mạn, Manatimana, adhimana. 
6/ Ngã mạn asmimana. 
7/ Tà mạn, mithymana, micchamana. 

Trong tùy phiền não, có kiêu, mada thường dùng trong hợp từ kiêu mạn. Tuy nhiên, mạn khác với kiêu là so với người, cho rằng mình hơn gọi là mạn. Còn kiêu là một sự tự hào, không có so sánh với người khác. 

4. Vô minh : S.Avidya, P.Avijja. Cũng gọi là ngu si, moha, là không hiểu biết hay là hiểu biết sai sự lý của duyên khởi, của bốn đế. 

5. Kiến : S.Drsti P.ditthi, tức là mọi kiến giải sai lầm. Hữu bộ phân biệt có năm loại kiến : 


a/Thân kiến : S.satkaya drsti, P.sakkayaditthi. Tức là thấy có thân của ta, cũng dịch âm là Tất cả gia kiến. Chấp năm uẩn là Ta, là của Ta. 
b/ Biên kiến: Antagraha drsti. Pantaggaha ditthi. Cũng gọi là biên chấp kiến. Nghĩa là có thái độ cực đoan, tuyệt đối chấp vào một bên, như chấp thế gian là thường còn hay đoạn diệt, vũ trụ là hữu biên hay vô biên... 
c/ Tà kiến : S.mithya drsti P.Miccha ditthi, nghĩa rộng là mọi kiến giải tà ác, sai lầm. Nhưng ở đây chỉ cho 10 tà kiến là không bố thí, không cúng dường, không tế tự, không thiện ác, và quả báo, không đời này, không đời sau, không cha, không mẹ, không có hữu tình, không có hóa sinh, không có người tu hành chứng quả. 
Không chấp nhận lý nhơn quả là tà kiến tệ hại nhứt, ngoài ra còn có các tà kiến khác như không chấp nhận có Tam bảo. 
d/ Kiến thủ : S.arsti - paramasa, P.ditthi paramana, cũng gọi là kiến thủ kiến. Tức là tự cho ý kiến của mình là đúng hơn tất cả, ý kiến của các người khác đều là sai lầm, rồi chấp chặt vào ý kiến đó. 
e/ Giới cấm thủ kiến : S.Silata - paramana, P.Silabbata paramana. Chỉ cho 1 số giới luật của ngoại dạo, như giới con chó, giới con voi (giới ngồi chồm như chó, giới đi như voi...) Ngoại đạo cho rằng sống khổ hạnh theo những giới đó thì sẽ được giải thoát hoặc sanh thiên. Hữu bộ phân biệt có hai loại giới cấm thủ là : 
(1) : Phi đạo kế đạo : không phải là đạo giải thoát mà chấp là đạo giải thoát. 
(2) Phi nhân kế nhân : Không phải là nhân sanh thiên mà chấp nhân là nhân sanh thiên. 

6/ Nghi : 


 S. Vicikitsà ; P.Vickiccha, chỉ cho lòng hoài nghi Tam bảo, nghi nghiệp báo thiện ác, nghi nhân quả ba đời, nghi thuyết bốn đế... 

Tùy phiền não (giới thiệu những món chính). 


Xan : là keo kiệt. Có năm loại keo kiệt là : 
Trú xứ xan : keo kiệt về nơi ở. Gia lan : keo kiệt thu vén cho gia đình. Lợi dưỡng xan : keo kiệt về lợi dưõng. Xưng thán xan : chỉ muốn một mình mình được khen ngợi. Pháp xan : không muốn nói pháp cho người khác được nghe. 

11. Vô tàm : Nội tâm không biết thẹn. 


12. Vô quý : Ðối với người không biết thẹn. 
13. Hôn trầm : tâm nặng nề, mê muội. 
14. Trạo cử : tâm căng thẳng, không định tỉnh, lăng xăng, không yên. 
15. Giải đãi : lười nhác, không siêng năng, tinh tấn. 
16. Phóng dật : buông thả, phóng túng.

Quan hệ giữa trí tuệ và phiền não : 


Phiền não gây chướng ngại đối với đạo Thánh, đối với trí tuệ. Do dó, dùng trí tuệ có thể đoạn trừ phiền não, đoạn trừ hết phiền não tức là giải thoát, là Niết bàn là Bồ Ðề (giác ngộ).

B/ NGHIỆP

1. NGUỒN GỐC CỦA TƯ TƯỞNG NGHIỆP LỰC : 


Các nhà Ấn Ðộ học như người Đức Zimmer và Basham đều cho rằng, ngay trước khi bộ tộc Aryan vào Ấn Ðộ, những người thổ dân ở đây (giống người Dravidiens) vốn đã có các khái mệm về nghiệp, Du già (yoga), giải thoát. 

Trong các giáo phái ở Ấn Ðộ cổ đại, Kỳ na Giáo (Jainism) - là tôn giáo có nhiều liên hệ với Phật giáo Nguyên thủy, và với tín ngưỡng dân gian Ấn Ðộ. 

Thuyết nghiệp của Kỳ Na giáo và Phật giáo Nguyên thủy khác nhau và giống nhau ở chỗ nào ? Quan điểm của Phật giáo, nghiệp thiện hay ác chỉ có thể hình thành trên cơ sở động cơ tâm lý của đương sự (tức là dụng tâm - motivation). Kinh Phật Nguyên thủy gọi dụng tâm đó là tác ý (cetana). Nói cách khác, tác ý chính là nghiệp. Không có tác ý thì không có nghiệp. Kỳ Na giáo có một quan điểm cơ giới về nghiệp : nhơn biểu hiện ra như thế nào thì quả biểu hiện ra như thế ấy, bất kể động cơ tâm lý hay dụng tâm của đương sự như thế nào, ví dụ, một người do vô ý mà phạm tộí sát sinh, thì sẽ phải chịu quả báo của sát sinh, không thể tránh .khỏi được. Kỳ Na giáo lại còn chủ trương, nên sống khổ hạnh ép xác tự làm khổ mình thì có thể bù cho nghiệp ác tạo ra từ đời trước, triệt tiêu nghiệp ác này, nhờ đó mà được giải thoát. Ðồng thời, kiên trì không làm gì hết để không còn tạo nghiệp mới nữa. Ðó là phương pháp giải thoát của Kỳ Na giáo. 

Quan diểm về nghiệp của Kỳ Na giáo “tuy không cố ý sát, nhưng cũng phải chịu quả báo sát sinh” được phê phán trong bộ luận Kathavatthu. Ðối với Phật giáo, động cơ tâm lý (dụng tâm, tác ý) thiện hay ác là cái quyết định sự hình thành nghiệp lực, chứ không cố chấp vào hành vi tạo nghiệp bên ngoài. Quan điểm nghiệp lực của Phật giáo là một quan điểm không chấp tướng, nó thúc đẩy mọi người hướng thưọng về mặt nội tâm. Luận sư Buddhaghosa (Giác Âm cũng gọi là Phật Âm) đã so sảnh hai quan điểm nghiệp lực khác nhau của Phật giáo và Kỳ Na giáo như sau : 

“Phật giáo đồ như con sư tử vậy, khi kẻ đi săn nhắm bắn vào con sư tử, thì con sư tử dũng mãnh xông vào kẻ đi săn : Người Phật tử nỗ lực diệt khổ não, biết rõ phưong pháp diệt khổ não là diệt trừ căn nguyên của khổ não (chứ không phải diệt trừ cái ở bên ngoài căn nguyên đó). Còn ngoại dạo Kỳ Na giáo, thì giống như con chó vậy. Khi con chó bị người ta đánh thì nó không xông lại cắn người đánh mà lại cắn cái gậy. Người Phật tử nói : phương pháp loay hoay trong quả báo, chứ không phải trực tiếp đối trị nguyên nhân tạo thành quả báo”. Nghiệp của Phật Giáo không có tính cơ giới, và định mạng. Do đó, nó coi trọng ý chí tự do của con người, nó đề cao nỗ lực đạo đức. 

Nghiệp lực, theo quan điểm Phật giáo là một sức mạnh lớn lao, nó không những chi phối sự diễn biến của đời sống con người, mà còn thông qua con người, chi phối sự diễn biến của vũ trụ nữa. Nghiệp lực chính là cốt lõi của quy luật nhân quả báo ứng; quy luật đạo đức. Vì sự vận hành của nghiệp lực quan hệ với nhiều điều kiện, nhiều nhân, nhiều duyên lý tri con người khó lường hết quan hệ của nghiệp lực. Thậm chí có tác giả viết : Nghiệp lực là một cái gì huyền bí ! 


 

2. NGHIỆP LỰC LÀ MỘT SỨC MẠNH 


Nghiệp là hành dộng, và hành động nào cũng tự nhiên tạo ra một sức mạnh, sức mạnh đó lại thúc đẩy con người có hành động mới, như vậy cứ xoay vòng mãi. 
 
 

Nghiệp lực từ đời sống    Giáo dục hiện tại 


trước         nỗ lực hiện tại 
 
 

Nhân cách

Thế nhưng, hành động không những tạo ra sức mạnh, thúc đẩy con người có hành động mới, mà đồng thời cũng thúc ép con người phải chịu hậu quả của hành động của mình, ràng buộc con người với hậu quả đó. Thí dụ, kết hôn là một loại hành động, nó thúc đẩy người đàn ông, người đàn bà phải có quan hệ tình dục với nhau, dẫn tới sinh con, đẻ cái, và quy dịnh trách vụ của cha và mẹ đối với việc nuôi nấng, giáo dục con cái nên người... 

Nghiệp là hành động, nó tạo ra sức mạnh thúc đẩy con người có hành động mới, mặt khác cũng tạo ra một sự ràng buộc đối với con người. Ðó là ý nghĩa cơ bản của nghiệp. 

Một người có hành động tạo thành một sức mạnh. Hàng trăm ngàn vạn người hành động, phối hợp tạo thành sức mạnh vĩ đại. Ðó là sức mạnh của cộng nghiệp, lớn hơn nhiều sức mạnh của riêng từng người, biệt nghiệp.

Một ví dụ sống động của cộng nghiệp là chiến tranh. Chính cộng nghiệp thúc đẩy hàng trăm nghìn vạn thanh niên rời bỏ quê hương, đến chiến trường sát hại những thanh niên khác, làm cái việc mà thực ra họ không muốn làm. 

Nghiệp là nguyên động lực thúc đẩy, sáng tạo và hủy diệt các loài hữu tình cũng như thế giới, thì một câu hỏi đặt ra : Do đâu mà có nghiệp? 

Phật giáo trả lời : “Do vô minh và Hành. Vô minh chữ Sanskrit là Avidya nghĩa là không biết, ngu si. Hành, chữ Sanskrit là sankara là một loại xung động bản năng (A. impulse)”. 

Triết gia Ðức Schopenhouer gọi đó là một loại ý dục (will), nếu phân tích cụ thể thì có hai loại: ý dục sinh tồn (will to live), và ý dục hoạt dộng (will to act). Schopenhouer gọi cái ý dục dó là cái Ta thực của con người. 

Theo đạo Phật, vô mỉnh chính là phiền não tham, sân, si v.v...  Phiền não thúc đẩy con người tạo ra các nghiệp thiện, ác, gọi chung là hành, do đó mà có từ hành nghiệp, và nghiệp lôi kéo chúng sanh vào cõi luân hồi sanh tử. 


 

3. NGHIỆP LỰC LÀ SỨC MẠNH BỒI DƯỠNG NHÂN CÁCH 


Ðại sư Tây Tạng Tkongsapa viết : “Nếu một người ở đời sống trước thích thú sát sanh, đời sống này cũng thích thú sát sanh; đời sống trước thích thú ăn cắp, đời sống này cũng thích thú ăn cắp, do đó chúng ta thấy, có người từ nhỏ tuổi đến lớn tuổi lấy sát sinh làm vui, nhưng lại có người không nở sát hại con kiến và côn trùng”.
(Bồ đề thứ đệ luận) 

Ðó là cái mà đạo Phật gọi là “đẳng lưu quả” (S. Nisyandaphala). 


Cho nên, có thể nói một người thường làm một việc gì đó thì sẽ biến thành một loại người tương tự. Một người ba mươi năm làm cảnh sát thì tư tưởng, hành động, cách nói chuyện của anh ta sẽ mang dấu ấn của người cảnh sát. Nếu anh ta làm nghề thợ mộc ba mươi năm, thì tư tưởng, hành động, cách nói chuyện của anh ta sẽ là của anh thợ mộc. Nhà kinh doanh gặp gỡ, thấy gì cũng tính chuyện làm ăn lổ lãi. 

Nhân cách con người là do tập quán hun đúc thành. Nếu không có sự huân tập của tập quán thì không thể thành nhân cách được, nó là một sự huân tập nhiều khi bắt đầu từ nhiều cuộc sống trước, cho nên mới có những hiện tượng thiên tài hay thần đồng kỳ lạ mà các thuyết về di truyền học không thể giải thích một cách thỏa mãn được. Trong khi đó thì thuyết nhơn quả ba dời của Phật giáo có thể cung cấp một lý giải thỏa đáng nhứt. Tuy rằng sự huân tập của đời trước ảnh hưởng lớn đến sự hình thành nhân cách, nhưng hoàn cảnh hiện tại, nền giáo dục và nỗ lực trong đời sống hiện tại cũng đều là nhân tố quan trọng, ảnh hưỏng tới sự hình thành nhân cách của con người hiện tại. 

Có thể thấy qua biểu đồ nhân cách được tạo thành bởi hai loại nhân tố: Nghiệp lực của đời sống trước, giáo dục và nỗ lực trong hiện tại. 
 

4. NGHIỆP LỰC LÀ MỘT QUY LUẬT ÐẠO ÐỨC CÔNG BẰNG 


Bài kệ “Thập lai” sau đây cũng đồng một tư tưởng như vậy : 

(Dạng mạo) đoan chính từ ở nhẫn nhục mà đến 


Nghèo khố từ ở keo kiệt đến 
Cao sang từ ở lễ bái đến 
Bần tiện từ ở kiêu mạn đến 
Ngọng câm từ ở phỉ báng lại 
Ðui mù từ ở bất tín lại 
Sống lâu từ ở từ bi lại 
Sống yểu từ ở sát sanh lại. 
Các căn không đầy đủ từ ở phá giới lại 
Sáu căn đầy đủ từ ở giữ giới lại. 

Trong kinh “Na tiên Tỷ kheo” (cũng gọi là Di Lan Ðà Vấn đạo kinh), cũng có một đoạn nói về nghiệp: 


 Vua Milinda hỏi: “Thưa trưởng lão, vì duyên cớ gì mà người đời khác nhau: người sống lâu, người chết yểu, người nhiều bịnh, người xấu xí, người mạnh khỏe, ngưòi yếu ớt, người giàu có, người nghèo khổ, người phú quý, người bần tiện, người thông minh, người ngu độn? 
Tỷ kheo Na Tiên trả lời: Thưa Ðại vưong, vì sao lại có các loại quả khác nhau? Quả chua, quả mạn, quả đắng, quả cay, quả nhạt, quả ngọt? 
Vua trả lời : Tôi cho rằng đó là tự giống của các quả ấy khác nhau. 
Tỷ kheo Na Tiên trả lời: Thưa Ðại vương, cũng như vậy, người đời sở dĩ khác nhau, là vì nghiệp lực của họ khác nhau. Do đó mà có người sống thọ, ngườl chết yểu, người mạnh khỏe người nhiều bịnh, người đẹp đẽ, người xấu xí, người cường tráng, người yếu đuối, người giàu có, người nghèo khổ người phú quý, người bần tiện, người thông minh, người ngu độn. Tâu Ðại vương, ngoài ra Phật còn nói: Hỡi người thanh niên, tất cả chúng sinh đều thừa hưởng di sản do nghiệp đời trước truyền lại. Chúng đều là kẻ thừa kế của nghiệp, từ nghiệp mà sanh ra, là quyền thuộc của nghiệp. Nghiệp che chở cho chúng và quyết định chúng là bần tiện hay phú quý. (X. Buddhism in Translation by henry Warren p.215). 

Ðại sư Tây Tạng Tsongkapa, viết trong cuốn “Bồ đề thứ đệ luận” : 


Ðời trước, nghiệp sát quá nặng, thì đời nay chịu quả báo chết yểu, và nhiều bịnh; trẻ con chết sớm là do dời trước tạo ra nghiệp sát sanh. Do nghiệp đời trước mà có người đời nay, mắc bịnh nan y, suốt đời không chữa khỏi. Có người làm việc cật lực nhưng vẫn không có tiền xài; có người không mệt nhọc gì lại có nhiều tiền của. Ðó là quả báo khác nhau của người ở đời trước keo kiệt hay là ưa bố thí... có những người nói rất nhiều nhưng chẳng ai tin, có người nói ít thôi mà lại được mọi người tin cậy, đó cũng là quả báo của hai loại người: một người thành thực, một người hay lừa dối. (X. H Guenther... “The Jewel ornament of liberation” - Chương 6 bàn về nghiệp quả). 

Tư tưởng “nhơn quả báo ứng” ăn sâu vào tâm lý của người phương Ðông có ảnh hưỏng thực lớn lao đến đời sống xã hội. Ở các nước Phật giáo Nam phương như: Miến Ðiện, Thái Lan, Tích Lan... tăng sĩ không có tài sản riêng, cũng không làm ruộng, hàng ngày cầm bát khất thực. Cả năm, ngày nào cũng vậy, nhân dân chuẩn bị thức ăn sẫn, với thái độ hết sức cung kính đem cúng dường chư Tăng. Còn ở phương Tây, khi một khách lạ đến nhà không báo trước, dù là ăn một bữa, cũng chịu đựng không nổi rồi. 

Nhân dân các nước Phật giáo Nam phương sở dĩ có tập tục tốt đẹp như vậy là vì trong kinh Phật thường dạy cúng dường Tăng chúng được phước đức rất lớn, tăng chúng là ruộng phước tối thượng. 

Nhưng nếu có người hỏi, vì sao quả lại tương ưng và đồng loại với nhân? Từ đâu lại có nguyên lý đồng loại tương ưng đó? Kinh Phật thường chỉ trả lời : “Pháp là vậy” (pháp nhĩ như thị). Nói một cách khác, tự nhiên là vậy. Nếu anh cười nhạo người ta thì người ta cười nhạo lại anh. Nếu anh giận dỗi đối với người ta, thì người ta cũng không vui vẻ đối với anh. Tự nhiên nó là như vậy, làm sao mà giải thích được. Hãy xem bản vẽ hai mặt người sau đây: 


 

Trong hai bản vẽ này, mắt, lông mi, mũi dều giống nhau, chỉ miệng là khác. Miệng nhếch xuống thì là dáng mặt lo buồn miệng nhếch lên thì là dáng mặt vui vẻ. Sao lại như vậy? Sao mà giải thíeh được? 

Ðối với tiền đề lớn quả báo thiện ác, các tôn giáo lón nói chung nhứt trí như trong sách Tân ước (Galatian 6 : 07) có câu: 
“Chỉ có tự lừa dối mình, không thể coi thường Thượng Ðế được đâu Người trồng gì thì thu hoạch nấy” 

Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu. (Lão tử)


Nghĩa: Lưới trời lồng lộng, sửa mà không bỏ sót.

Các tôn giáo Thần quyền (Tự nhiên thần luận Deism) hay là nhân cách thần luận (Theism) cũng vậy đều cho rằng Thượng Ðế sáng tạo ra vũ trụ, đồng thời cũng sáng tạo ra qui luật vận hành vũ trụ, đó là luật nhơn quả tương ưng. Thượng Ðế tất nhiên khen thưỏng người thiện lành, và xử phạt kẻ làm ác, đó là thần ý luận. Còn cách nhìn của Phật giáo đối với luật nhơn quả, là tự nhiên luận, không phải là thần ý luận. Giải thích bằng tự nhiên luận, thực ra không phải là giải thích. Giải thích bằng Thần ý luận là một lối giải thích, nhưng lối giải thích chưa hẳn là cao minh cho lắm. Nếu chúng ta hỏi thêm các nhà Thần học Thiên chúa giáo : “Vì sao Thượng đế lại khen thưởng người thiện và xử phạt người ác, mà không làm ngược lại?” Lại hỏi Thượng Ðế từ ở đâu đến? Nhà Thần học Thiên chúa giáo sẽ không thể trả lời được. Lối giải thích mọi hiện tưọng tự nhiên, khó hiểu bằng thần thánh an bài gọi là “Luận thuyết lấy Thần thay người” (Anthropomorphism). 


 

5. NGHIỆP LỰC LÀ MỘT LOẠI QUAN HỆ 


Quan hệ nghiệp lực khá phức tạp, tạm minh họa bằng biểu đồ sau đây: 
 

Biểu đồ có bảy vòng, mỗi vòng đại diện cho một phạm vi nghiệp lực. Vòng ngoài nhứt cũng là vòng lớn nhứt, phổ biến nhứt. phạm vi cọng nghiệp lớn nhứt. Tạm gọi tất là vòng cực cọng nghiệp. 

Vòng thứ hai, so với vòng thứ nhứt có một phạm vi nghiệp lực hẹp hơn, tạm gọi là vòng đại cọng nghiệp. Như vậy, phạm vi cọng nghiệp thu nhỏ dần cho tới vòng bảy, là vòng cuối cùng, vòng bất cọng nghiệp của cá nhân. Ðó là nghiệp do cá nhân tạo ra, và một mình cá nhân chịu quả báo mà thôi. 
Vòng 1, vòng cực cọng nghiệp là phạm vi của con người được nhận thức như là một sinh vật. Người cùng với bất cứ một sinh vật nào khác có cọng nghíệp đều cần có ánh sáng mặt trời, không khí và nước để mà sinh tồn. Ðó là cọng nghiệp của tất cả mọi sinh vật sống trên trái đất này. Vòng cọng nghiệp này bao gồm cả sinh vật và loài người ở trong đó. Phạm vi cọng nghiệp càng lớn, tính bắt buộc của nghiệp càng chặt. Thí dụ: người có thể không mặc quần áo, không có nhà ở vẫn sống được, nhưng không thể nào thoát ly ánh sáng mặt trờí, không khí và nước mà có thể sống được. 
Vòng hai, là vòng đại cọng nghiệp, của riêng loài người. Ở vòng nghiệp lực này, chỉ có người, loài người mới được hưởng thụ và chịu hạn chế bởi cọng nghiệp này mà thôi. Thí dụ: chỉ có loài người mới dùng ngôn ngữ và chữ viết để thông tin cho nhau. Các động, thực vật khác không biết dùng ngôn ngữ và chữ viết. Việc dùng ngôn ngữ và chữ viết để thông tin có mặt hạn chế của nó. Thí dụ : những người không cùng một ngôn ngữ, khó nói chuyện với nhau được. Người không biết đọc, biết viết được cung cấp một lượng thông tin ít hơn, so với nguời biết đọc biết viết. 
Một đặc sắc thứ hai của loài người là có ý thức dạo đức. Tuy rằng, một số động vật cao cấp khác cũng có ý thức đạo đức nhưng tình hình này ít phổ biến hơn, chỉ là cá biệt. 
Một đặc sắc nữa của loài người, so với các loài vật khác là người có lý trí, có năng lực tự giác (self conscious) còn các loài vật khác thì thường là hành động theo bản năng, theo phản xạ. Con người không những có thể quan sát sự vật bên ngoài, tìm ra chân tướng của sự vật bên ngoài, mà người còn có khả năng siêu việt tự ngã (self transcendance), lấy tự ngã làm đối tượng khách quan để quan sát và tự hoàn thiện mình. 
Nói tóm lại loài người có ba năng lực: dùng ngôn ngữ, có ý thức đạo đức, có năng lực tự giác khiến con người thành một sinh vật có lý tánh, có cảm tình (đạo dức), và sống, hành động có mục đích. 

Vòng nghiệp thứ ba là vòng cọng nghiêp của quốc gia dân tộc. Vì con người là một động vật xã hội, cho nên cuộc sống và hoạt động của nó không thể không bị chủng tộc dân tộc và quốc gia chi phối và ảnh hưỏng. Kỹ thuật rất tiên tiến của giao thông liên lạc hiện đại cũng không làm giảm sút vai trò của chủng tộc, dân tộc và quốc gia. Hiện nay các quốc gia vẫn là những đơn vị, những chủ thể chi phối cục thế chính trị quốc tế, quyết dịnh hòa bình và chiến tranh. Trong mỗi quốc gia, mỗi người đều có quyền lợi và trách nhiệm là phần cọng nghiệp của người đó trong quốc gia đó. 


Thí dụ : nhân dân Việt Nam trong lịch sử của mình, có thể nói là liên tiếp bị ngoại xâm, đồng thời cũng chủ động gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, đó là cọng nghiệp của nhân dân Việt Nam. 
Theo báo chí cho biết, thì ở ChiLê, có thời gian quân dịch tương dối dài hơn, so với các nước khác. Ở Anh, nhân dân dóng thuế thu nhập cao hơn hết. Ở Koet, một nước xuất cảng dầu hỏa giàu có, tỷ lệ nhà nước chi phí phúc lợi cho nhân dân cao hơn hết, so với các nước khác. Còn ở vương Quốc Brunei ( Ðông Nam Á) vì quá giàu về dầu hỏa nên nhân dân không phải đóng một khoản thuế nào hết, lại được hưởng rất nhiều phúc lợi. 

Vòng cọng nghiệp thứ tư, thuộc những tập đoàn hay cộng đồng nhỏ hơn quốc gia. Một thí dụ: cọng nghiệp của người Việt Nam sống ở thành phố Hồ Chí Minh khác với cọng nghiệp của người Việt Nam sống ở nông thôn lục tỉnh. Học sinh Anh Văn ở thành phố Hồ Chí Minh thường có trình độ Anh ngữ giỏi hơn học sinh Anh Văn ở những nơi khác, do các điều kiện như thầy giỏi hon học cụ tốt hơn v.v. Tất nhiên đây là nói chung, còn số người học Anh Văn kém ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng không ít, số người học Anh văn khá ở lục tỉnh cũng không ít. 

Vòng cọng nghiệp thứ năm là vòng cọng nghiệp của gia dình, các thành viên trong gia đình đều chịu (hay là hưởng) cọng nghiệp của gia đình đó. Nếu đó là gia đình giàu có, sung túc, chủ gia đình là nguời giỏi, có trình độ nghề nghiệp cao thì cả gia đình đều được lợi. Trái lại, nếu chủ gia đình là người sống bừa bãi, đã không làm ra tiền lại còn ăn chơi tiêu xài, thì cả gia đình phải chịu khổ lây. 

Vòng cọng nghiệp thứ sáu, tạm gọi là vòng cực bất cọng nghiệp, có một phạm vi còn nhỏ hơn gia đình nữa. Một thí dụ: là quan hệ vợ chồng, rõ ràng đó là quan hệ riêng có giữa hai vợ chồng, không thể có người thứ ba nào xen vào được, dù là cha mẹ, anh em. Các vòng quan hệ thầy trò, người yêu, anh em đều thuộc loại vòng cọng nghiệp thứ sáu. Vì chỉ là cọng nghiệp giữa hai người mà thôi, cho nên gọi là cực bất cọng nghiệp. 

Cuối cùng là vòng nghiệp thứ bảy, là của riêng từng người, chỉ có cá nhân người ấy biết, chịu đựng hay hưỏng thụ mà thôi. Chỉ riêng người ấy cảm nhận, lạnh, nóng, khát, đói, buồn rầu hay vui vẻ... Ðấy là vòng có thể gọi là tối cực bất cọng nghiệp. 
 
 

6. NGHIỆP LỰC LÀ MỘT CÁI GÌ KHÓ HIỂU : 


Khi nói thần bí là nói trí tuệ hạn chế của con người, không thể hiểu nổi không thể lường được. Trước loại sự kiện như vậy, người theo đạo Gia Tô nói: Ðó là ý Chúa. Còn người theo đạo phật thì nói: “Ðó là do nghiệp”. Thế nhưng, cơ chế của nghiệp dẫn tới sự kiện đó thì Phật giáo cũng khó nói ra một cách rành mạch, vì vậy mà có sách Phật nói: Nghiệp lực là một cái gì thần bí. 

Sau đây là một đoạn đàm thoại giữa vua Di Lan Ðà (MilinDa) và tỷ kheo Na Tiên Nagasena, có liên quan dến tính chất thần bí của nghiệp.


Vua hỏi: “Phật giáo đồ thường nói: Lửa địa ngục nóng hơn nhiều so với lửa bình thường. Nếu ném một hòn đá nhỏ vào ngọn lửa bình thường thì cả ngày cũng không cháy hết. Nhưng nếu đem một tảng đá lớn ném vào lửa địa ngục, thì trong khoảnh khắc tảng đá bị cháy rụi. Tôi không thể tin điều đó. Các người lại nói, chúng sinh đọa địa nguc, tuy thân bị đốt cháy liên tục trong nhiều năm, nhưng chúng sinh đó cũng không bị cháy hết. Tôi cũng không thể tin điều đó”. 
Tỷ kheo Na Tlên trả lời : “Tâu dại vương, Ngài có thấy con cá mập, con rùa, con vịt, con khổng tước ăn sỏi, ăn đá hay không?.” 
Vua trả lời: thường có thấy. 
Tỷ kheo Na Tiên: khi sỏi đá vào ruột những con vật lớn, phải chăng không bao lâu chúng cũng được tiêu hóa? 
Vua nói : đúng như vậy. 
Tỷ kheo Na Tiên : Vì sao bào thai ở trong bụng người mẹ lại không bị tiêu hóa ? 
Vua : Tất nhiên là không bị tiêu hóa. 
Tỷ kheo Na Tiên hỏi: Vì sao lại không bị tiêu hóa? 
Vua : Tôi cho rằng đó là do nghiệp lực của thai nhi. 
Tỷ kheo Na Tiên: Cũng như vậy, thưa Ðại vương do nghiệp lực của chúng sinh đọa địa ngục, cho nên dù chúng có bị đốt cháy trong nhiều năm tháng, chúng cũng không bị thiêu cháy hết. Cho nên Ðức Phật nói: chỉ khi nào toàn bộ nghiêp lực của chúng sinh đó đã tiêu diệt hết rồi, thì chúng sinh mới chết được ở chỗ ấy. 

Cách trả lời của Tỷ Kheo Na Tiên tuy không phải là thực hoàn hảo, không thể bắt bẻ lại được, nhưng nó cũng cho chúng ta thấy tính bất khả tư nghì của nghiệp. Cũng do nghiệp lực mà chim Khổng Tước ăn dồ độc, đã không chết, lại còn khỏe ra, còn người trúng độc thì chết ngay, nếu không kịp chữa chạy. 


 

7. LƯỚI NGHIỆP VÀ 12 NHƠN DUYÊN : 


Chúng sinh vùng vẫy trong lưới nghiệp, hết đời sống này qua đời sống khác, không thoát ra được lưới nghiệp đó chính là 12 nhơn duyên: 

1. Vô minh: ( Các phiền não tham , sân , si . . ) 


2. Hành: tạo các nghiệp tức là nghiệp nhân quá khứ 
3. Thức : Kiết sanh thức tức là thức nhập thai. 
4. Danh sắc: Bào thai hình thành trong bụng mẹ.
5. Lục nhập : sáu căn hình thành đầy đủ. 
6. Xúc : sau khi lọt lòng mẹ, sáu căn tiếp xúc với sáu trần. 
7. Thọ : Cảm thọ vui, khổ. 
8. Ái : đam mê năm món dục. 
9. Thủ : bám cảnh năm dục. 
10. Hữu : tạo ra nhơn hữu lậu và chịu quả báo tái sanh. 
11. Sanh : tái sanh với thân năm uẩn. 
12. Lão tử : (già chết). 

Xúc thọ, ái, thủ, hữu là năm chi thuộc nghiệp nhân của đời sống hiện tại. 


Sanh, già, chết là quả vị lai. 
12 nhơn duyên là nguyên động lực, lôi kéo chúng sanh ra vào ba cõi, tạo ra các nghiệp. 
 

Muốn thoát khỏi lưới nghiệp phải dùng gươm trí tuệ đoạn trừ vô minh, phiền não (phiền não chướng), không còn tạo nghiệp và tái sinh nữa: đó là giải thoát. Giá trị và ý nghĩa của nhân sinh đối với đạo Phật như vậy là khá rõ. Con dường thoát khổ cũng được Ðức Phật vạch ra minh bạch. Nhưng ngoại đạo lại bị tà kiến che mờ, cho nên họ không hiểu được ý nghĩa của nhân sinh và con đưòng thoát khổ. Kinh Tăng Chi của Phật giáo Nam phương có trích lời Phật như sau: “Này, các tỷ kheo, các ngoại dạo có ba loại tà kiến, nếu tin theo thì phước đức sẽ bị tiêu tan, bại hoại. Ba tà kiến dó là gì ?” 

Thứ nhất là tà kiến về mạng vận. Ðời này được vui hay chịu khổ là do mạng vận quyết dịnh trước. Thứ hai là tà kiến về Thần. Mọi việc đều do ý chí của Thần, Thượng đế an bài, con người không thể làm gì để tránh khỏi được. Thứ ba là cho rằng, mọi việc xảy ra ở đời này đều là ngẫu nhiên, tình cờ, do đó mà con người sống rồi thác đi buông trôi. Ta gặp nhĩmg người đó và hỏi : “những diều ấy đáng tin chăng ?”. Họ đáp : “đáng tin”. Ta bèn hỏi : “thế thì các tội sát, đạo, dâm, vọng... cũng đều do thần an bày cả chăng? Ðều do mạng vận sắp đặt cả chăng? Hay đều là do ngẫu nhiên chăng?” Thế nhưng hành vi của mình sai thì tự mình phải sửa chữa, theo thiện, bỏ ác. Con người phạm sai lầm thì phải trách mình, và tự hối, đoạn trừ lỗi lầm cũ thì mới tạo ra được mạng vận mới cho mình. Ngoại đạo nghe lời dạy bảo cu 3a Phật, không trả lời được câu nào bèn bỏ đi nơi khác.

8. PHÂN LOẠI NGHIỆP


Có nhiều cách phân loại:
I. Một cách là phân loại theo thân, khẩu, ý:
– Thân: thân nghiệp gồm có thân biểu nghiệp và thân vô biểu nghiệp.
Biểu nghiệp là nghiệp biểu hiện thành hành vi cụ thể, nhưng có dấu vết lưu lại của nó trong nội tâm. 
Vô biểu nghiệp là nghiệp tiềm ẩn sẽ sinh quả trong tương lai, khi có đủ nhơn duyên chín mùi.

– Khẩu: ngữ nghiệp  gồm có ngữ biểu nghiệp và ngữ vô biểu nghiệp.

– Ý: ý nghiệp gồm mọi ý nghĩ có tạo nghiệp.

II. Cách thứ hai là phân loại theo thiện, ác, vô ký (3 tánh)
A/ Thiện nghiệp: (cũng gọi là an ổn nghiệp)
 Phóng sanh, không sát sanh.
 Bố thí, không lấy của không cho.
– Thân thiện nghiệp:
Sống trong sạch, không tà dâm.
Nói thực, không nói dối.
Nói lời có ích, không nói lời uế tạp, vô nghĩa.
– Ngữ thiện nghiệp:
Nói lời dịu hiền, không nói lời cay độc
Nói lời đoàn kết, hòa hợp, không nói lời chia rẽ, ly tán.
Giữ tâm xả, không tham.
Giữ tâm từ bi, không giận.
– Ý thiện nghiệp:
Giữ vững niềm tin nhơn quả, không có tà kiến.



tải về 468.78 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương