Thuyết bốN ÐẾ Gs. Minh Chi Chủ nhiệm bộ môn tôn giáo học và Phật giáo sử Việt Nam Trường Phật học Cao Cấp Thành phố Hồ Chí Minh 1996



tải về 468.78 Kb.
trang5/7
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích468.78 Kb.
#19777
1   2   3   4   5   6   7

Phụ lục của phần B:


B.1 Kinh hạt muối:

Phật nói:


– Ví như này, hỡi các Tỳ Kheo có người bỏ một nhúm muối vào một chén nước nhỏ, này các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào, nước trong chén nhỏ có vì nhúm muối nhỏ này mà trở thành mặn và không uống được hay không?

– Thưa có vậy, Bạch Thế Tôn!

– Vì cớ sao?

– Bạch Thế Tôn, vì nước trong chén quá ít, nhúm muối làm cho nó trở thành mặn, không uống được.

– Này các Tỳ Kheo, ví như có một người bỏ một nhúm muối như vậy vào sông Hằng, hỡi các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào? Nước sông Hằng có vì nhúm muối đó mà trở thành không uống được hay không?

– Thưa không, Bạch Thế Tôn.

– Vì cớ sao?

– Bạch Thế Tôn vì lượng nước sông Hằng lớn, cho nên không bị mặn và vẫn có thể uống được.


Cũng vậy, này các Tỳ Kheo! Ở đây có người làm việc ác nhỏ mọn, khiến người ấy chịu khổ não. Lại này nữa các Tỳ Kheo, có người cũng làm một việc nhỏ như vậy, nhưng ngay trong đời sống hiện tại, cũng đền bù hết rồi, ngay một ít quả báo nhỏ cũng không còn lại ở đời sau, hà huống là quả báo lớn...
Như vậy, này các Tỳ Kheo! Có người không tu tập thân, không giữ giới luật, không tu tập tâm, không tu tập huệ, ít thiện, ít đức, hằng ngày sống khổ, người như thế, dù phạm một tội ác nhỏ cũng làm nó khổ sở vô cùng.
Như vậy, này các Tỳ Kheo! Lại như có người có tu tập thân, giữ gìn giới luật, có tu tập tâm, tu tập tuệ, làm nhiều điều thiện, sinh hoạt thoải mái, người ấy dù có phạm một tội ác nhỏ, thì ngay trong cuộc sống hiện tại, cũng đủ đền bù hết, dù một quả báo nhỏ cũng không phải chịu trong đời sống sau, huống hồ là quả báo lớn.
Này các Tỳ Kheo! Ví như có người vì bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà phải vào tù. Lại có một người cũng bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, hay 100 đồng tiền nhưng không phải vào tù.
Này các Tỳ Kheo! Bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà phải vào tù là ai đó?
Này các Tỳ Kheo! Người nào bần cùng, người đó không đủ sống, cho nên chỉ vì bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà phải vào tù. 
Này các Tỳ Kheo! Bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà không phải vào tù, là ai vậy? Này các Tỳ Kheo! Người giàu có, tiền của dư dật, thì dù bị phạt nửa đồng tiền, một đồng đến 100 đồng tiền (anh ta nộp phạt dễ dàng), cũng không phải vào tù. 

Như vậy, này các Tỳ Kheo, có một người phạm một chút ác nhỏ mà khỗ não. Lại nữa, này các Tỳ Kheo, có một người cũng phạm một chút ác nhỏ như vậy, nhưng trong cuộc sống hiện tại cũng đủ đền bù rồi, không còn chịu quả báo ở đời sau, dù là nhỏ, chứ đừng nói gì một quả báo lớn.

(Tăng Nhứt A Hàm–bản Hán)
(Tham khảo thêm bản dịch từ Pàli trong Tăng Chi I, Kinh Pàli,
trang 284-290)
 

B.2 Hoặc duyên với nghiệp mà tạo ra sanh tử, sầu, bi khổ não

DUYÊN KHỞI


Từ Pàli là Pratiya-samutpada, từ Sanskrit là paticca-samuppada. Nghĩa là y duyên mà sanh khởi lên. Duyên là nhân duyên, cũng như hiện nay nói điều kiện. Theo đạo Phật, tất cả mọi hiện tượng, sự vật ở thế gian này sở dĩ tồn tại như vậy diễn biến như vậy là do có những điều kiện nhứt định.
Trong sách Phật, thường có những câu hay đoạn câu: mọi pháp đều nhơn duyên sanh, đều có tính duyên khởi, đều là y tha khởi; ý nói, mọi pháp (tức mọi sự vật, mọi hiện tượng và quá trình) trong thế gian này không thể tự mình tồn tại được mà dựa vào nhiều nhơn, nhiều duyên để tồn tại. Từ y tha nghĩa là dựa vào y vào nhân duyên.

Mọi sự vật ở thế gian này đều biến động vô thường, nhưng sự biến động vô thường ấy không phải là tự nhiên, hay ngẫu nhiên mà theo quy luật, tức là quy luật nhơn duyên sinh. Đó là một sự biến động có điều kiện (nhơn duyên).

 Bậc Thánh giác ngộ là giác ngộ về những điều kiện diễn biến của sự vật, hiện tượng và quá trình trên thế gian này. Bậc Thánh chỉ bày cho chúng ta thấy rõ những điều kiện ấy, để chúng ta có thể chủ động đối với chúng, chi phối chúng, thay vì để chúng chi phối ta, sai sử chúng ta.

Ý nghĩa cơ bản của duyên khởi:


Ý nghĩa cơ bản của duyên khởi ở trong câu:
“Cái này có cho nên cái kia có,
Cái nàysinh, cho nên cái kia sinh,
Cái này không có cho nên cái kia không có,
Cái này diệt cho nên cái kia diệt”.
Hay là trong câu:
“Các pháp do nhơn duyên sinh mà sinh, cũng do nhơn duyên diệt mà diệt”.
Thuyết duyên khởi có tầm quan trọng hàng đầu đối với Phật Pháp cho nên có đoạn kinh đồng nhứt thuyết duyên khởi với Phật Pháp:
“Thấy Phật Pháp tức là thấy duyên khởi, thấy duyên khởi tức là thấy Phật Pháp”.

Thuyết duyên khởi dù là Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Ấn Độ hay Phật Giáo Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, được xem như tư tưởng cơ bản của Phật giáo, là chủ thuyết khu biệt Phật giáo với các tín ngưỡng khác, hệ tư tưởng khác.

Thuyết duyên khởi nói chung và thuyết duyên khởi giá trị:
Quan hệ duyên khởi là quan hệ thời gian, không gian và quan hệ logic của mọi hiện tượng, sự vật trong thế giới, vũ trụ. Phật giáo, khi khảo sát những mối quan hệ đó, không ở ngoài mục đích tìm hiểu ý nghĩa cứu kính của nhơn sinh, nhằm trả lời câu hỏi: “Vì sao con người lại tồn tại trên thế gian này, vì sao con người phải già, bịnh và chết, chịu nhiều đau khổ? Khi nói thuyết duyên khởi giá trị là nói thuyết Duyên khởi nhằm tìm hiểu giá trị của nhân sanh, cũng gọi là thuyết Nội duyên khởi.

Còn thuyết Duyên khởi nói chung có tính chất bao trùm hơn, phổ quát hơn. Nó không những áp dụngcho vấn đề nhân sinh, mà cả cho toàn bộ hiện tượng, sự vật và quá trình xảy ra trên thế gian và trong vũ trụ này. Định đề cơ bản của nó, như đã nói trên là:


Cái này có thì cái kia có,
Cái này sinh thì cái kia sinh,
Cái này không có thì cái kia không có,
Cái này diệt thì cái kia diệt...
Tính phức tạp của thuyết duyên khởi (giá trị)
Quan hệ duyên khởi vô cùng phức tạp. Theo quan điểm Phật giáo, mỗi con người, ngay sau khi lọt lòng mẹ, đã là một tổng hòa của toàn bộ kinh nghiệm quá khứ mà con người đã trải qua trong nhiều cuộc sống trước. Những kinh nghiệm đó không có mất đi với thời gian, mà lưu lại dấu vết trong thức A lại gia của con người đó, từ đời này sang đời khác. Rồi sau khi lọt lòng mẹ, con người chịu sự tác động của gia đình, trường học, xã hội... Tất cả những kinh nghiệm tiếp xúc đó cũng không mất đi, mà vẫn tích lủy tiếp tục trong thức A lại gia của con người đó, tạo ra cái gọi là nhân cách của con người đó.

Con người sống trong một hoàn cảnh, một môi trường nhứt định, con người chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, đồng thời cũng ảnh hưởng trở lại hoàn cảnh. Điều này đúng không những đối với mặt đạo đức, mà cả về các mặt như thức ăn, đồ uống, đồ mặc, nơi ở... Qua phân tích kinh tế, chúng ta thấy rất rõ, cuộc sống dù là rất bình thường của một cá nhân chỉ có thể tồn tại và tiếp tục, với sự hỗ trợ của biết bao điều kiện, nào nguyên liệu, nhiên liệu, công lao động, vận tải, không những trong nước mà cả ngoài nước nữa. Để có một gói mì ăn liền, phải có nguyên liệu bột mì nhập, có cả một nhà máy kéo mì sợi, bột gia vị, giấy bao bì, phương tiện vận tải để chuyển những gói mì thành phẩm đến người tiêu thụ, thông qua một mạng lưới cửa hàng bán buôn, bán lẻ rải rác khắp cả nước, không kể chi phí quảng cáo và một loạt các chi phí khác có liên quan. Đó là nói chuyện một gói mì ăn buổi sáng, giá bán không tới một nghìn. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta còn cần bao nhiêu thứ khác còn phức tạp hơn.

 Trong lãnh vực văn hóa giáo dục, các mối quan hệ chằng chịt, đan chen lại càng phức tạp hơn: quan hệ truyền thống văn hóa quá khứ ở trong nước và quốc tế, quan hệ với các ngành giáo dục, in ấn, tuyên truyền, xuất bản...

 Có thể nói sự tồn tại và phát triển của bản thân chúng ta có liên quan mật thiết và phức tạp với quá khứ , với xã hội và thế giới. Đó chính là chủ thuyết pháp giới trùng trùng duyên khởi của Tôn Hoa Nghiêm nổi tiếng. Nó cụ thể hóa quan điểm Phật giáo: “Một là tất cả, tất cả là một” (nhứt túc nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt).

Biểu minh họa thuyết duyên khởi nói chung và thuyết duyên khởi giá trị
Thuyết duyên khởi nói chung:
Cái này sinh thì cái kia sinh: quan hệ thời gian
Cái này diệt thì cái kia diệt (các hạnh vô thường)
Cái này có thì cái kia có: quan hệ không gian logic
Cái này không có thì cái kia không có

Thuyết duyên khởi giá trị: Cũng gọi là nội duyên khởi.


(12 nhơn duyên và bốn đế)
Duyên vô minh, có hành (khổ quả)
Duyên hành có thức lưu chuyển (tất cả các hành là khổ (nhân) tập)
Duyên sanh có già chết... với tất cả mọi khổ não kèm theo.
Vô minh diệt cho nên hành diệt
Hành diệt nên thức diệt (Diệt (quả) Niết bàn vắng lặng)
Sanh bị diệt cho nên già chết cũng diệt: (Đạo (nhân))

Qua biểu trên, thấy: Vế “cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt”... nói lên quan hệ thời gian trước sau. Còn, vế : “cái này có thì cái kia có, cái này khỏng có thì cái kia không có", nói lên quan hệ không gian và quan hệ logic. 

“Các hành đều là khổ” nói lên mặt trái của giá trị, mặt mê vọng luân hồi. “Niết bàn vắng lặng”, nói lên mặt phải, mặt chính diện của giá trị, mặt giác ngộ và an lạc. 

Các câu duyên vô minh có hành, duyên hành có thức... duyên sanh, có già chết... đó là chuỗi duyên khởi của mê vọng luân hồi. 

Các câu vô minh diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt... là chuỗi duyên khởi của giác ngộ và giải thoát. 

Trong bốn đế thì hai đế khổ và tập là quan hệ nhơn quả dẫn tới lưu chuyển trong vòng mê vọng luân hồi. Hai đế diệt và đạo là quan hệ nhơn quả dẫn tới giác ngộ và giải thoát. Do dó, bốn đế eũng thuộc phạm vi thuyết duyên khởi: lưu chuyển duyên khởi và giải thoát duyên khởi. 

Thuyết 12 nhơn duyên: 
Trong kinh Nguyên thủy thuộc văn hệ Pàli, có đoạn văn giới thiệu 12 nhơn duyên như sau : “Này các tỷ kheo! Thế nào là duyên khởi ? Này các tỷ kheo! Duyên vô minh mà có hành, duyên hành mà có thức, duyên thức mà có danh sắc, duyên danh sảc mà có sáu xứ, duyên sáu xứ mà có xác, duyên xúc mà có thọ, duyên thọ mà có ai, duyên ái mà có thủ, duyên thủ mà có hữu, duyên hữu mà có sinh, duyên sinh mà có già chết, sầu bi khổ não sinh ra. Như vậy, là duyên khởi của tất cả mọi đau khổ. 
Ngược lại, vô minh diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt, thức diệt cho nên danh sắc diệt... sáu xứ... xác... thọ.. ái... thủ... hữu... Hữu diệt nên sinh diệt sinh diệt nên già chết, và mọi sầu bi khổ não đều diệt. Như vậy, tất cả mọi đau khổ đều diệt.” 

Trong 12 chi nhơn duyên, hai chi đầu vô minh và hành thuộc về nhân của thời quá khứ, năm chi thức danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, là năm quả thuộc thời hiện đại. Ðó là lớp nhơn quả quá khứ và hiện tại (hai nhơn quả quá khứ và năm quả hiện tại). 

Ái, thủ, hữu là ba nhân thuộc thời hiện tại. Sinh và già chết là hai quả thuộc thời vị lai. Ðó là một lớp nhân quả nữa : ba nhân hiện tai và hai quả vị lai. Ðó là lớp nhân quả thứ hai hiện tại và vị lai. 

Biểu sau đây minh họa hai lớp nhân quả quá khứ hiện tại và hiện tại vị lai như sau : 

Mười hai duyên khởi 
Vô minh tức là hoặc 
hai nhân thời quá khứ 
Hành tức là nghiệp 
Thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ....  năm quả thời hiện tại. 

Trên đây là lớp nhân quả quá khứ hiện tại. 


Ái thủ, hữu... Ba nhân thời hiện tại. 
Sinh, già, chết... hai quả thời vị lai. 
Là lớp nhân quả thứ hai : nhơn hiện tại quả vị lai. 

Cho nên gọi thuyết 12 nhơn duyên gồm hai lớp nhơn quả, thuộc ba đời. Trong biểu, 


1) Vô minh tức là phiền não thuộc đời trước; 
2) Hành là các nghiệp thiện ác tạo ra trong thời quá khứ.
3) Thức: Là dạng đầu tiên nhứt (sát na dầu tiên) của thân năm uẩn trong thai mẹ. 
4) Danh sắc: là tổ hợp thân tâm bắt đầu hình thành trong thai mẹ, trong bốn tuần dầu tiên. 
5) Sáu xứ (cũng gọi là lục nhập) là sáu căn năng. Ðến tuần thứ năm thì bào thai đã có sáu căn đầy đủ.
6) Xúc : thai nhi lọt lòng mẹ, bắt đầu tiếp xúc với ngoại cảnh. 
7) Thọ : là cảm xúc, vui, không vui... 
8) Ái : thích thú đồ vật hoặc người thuộc giới tính khác. 
9) Thủ : là vơ lấy nắm lấy làm của mình. 
10) Hữu : cũng gỉống nghĩa chữ Hành, tứe là tạo ra các nghiệp thiện hay ác, dẫn tới quả vị lai. 
11) và 12) Sinh và Già chết : do tạo nghiệp ở đời trước mà sinh ra ở đời này, với cái thân sẽ già, bịnh, chết với mọi khổ não kèm theo. 
 

Quan niệm của phái Du Già tức học phái Duy Thức: 


Phái Du Già xem 10 chi từ vô minh cho đến hữu là thuộc đời hiện tại. Hai chi sau, sinh và già chết là thuộc đời vị lai. Ðó là thuyết một lớp nhân quả trải qua hai đời. 

Quan niệm của Hữu bộ: 


Phái Hữu bộ (sarvastivada) quan sát lý 12 nhơn duyên theo 4 loại duyên khởi : 
1/ Sát na duyên khởi : tức trong một sát na (đơn vị thời gian ngắn nhứt có thể tưởng tượng được) cả 12 chi nhơn duyên cùng tồn tạỉ một cách logic.
2/ Liên phược duyên khởi : khi quan sát 12 nhơn duyên được thể hiện cụ thể trong thân tâm con người, hàng giờ phút biến đổi, và cả hoạt động bình thường của con người hằng ngày cũng dựa vào 12 nhơn duyên đó. 
3/ Phân vị duyên khởi: tức là 12 nhơn duyên chia thành hai lớp nhơn quả trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. 
4/ Viên tục duyên khởi : viễn tức là tiếp tục mãi, cho tới khi con người chứng được Niết bàn. Chuỗi 12 nhơn duyên này nối tiếp mãi không ngừng đời này sang đời khác cho tới khi đương sự chứng Niết bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa. 

Giải thích các chi trong 12 nhơn duyên, theo kinh Nikàya Pàli và A Hàm: 


1/ Vô minh : S.Avidya P.Avijja, tức là không biết, không hiểu đối với nhân sinh quan và thế giới quan đúng đắn, đối với thuyết bốn đế. Trái với vô minh là mục chánh kiến trong Bát chánh đạo. 

2/ Hành: S.samskara P.sankhara, tức ba hành nghiệp ý, lời nói, thân. Do vô minh mà có hành động tạo nghiệp thiện, ác nơi ý nghĩ, lời nói và thân. Những nghiệp thiện ác này đều lưu lại dấu vết trong con người dưới dạng hạt giống, hình thành nhân cách, tập quán của con người đó. 

3/ Thức: S.vijinana, P.Vinnana, thức là tâm thức phân biệt. Kinh A Hàm khi nói về “duyên thức mà có danh sắc”, phân biệt có: 1. Thức nhập thai; 2. Thức trong bào thai; 3. Thức sau khi lọt thai. Thức nhập thai kinh Pàli gọi là : Kiết sanh thứe. 

4/ Danh sắc: S. và P. manarupa, danh là các hành tướng của tâm như thọ, tưỏng, hành... sắc chỉ sắc thân. Cũng có sách giải thích sắc là năm ngoại trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nhưng có thể giải thích sắc là sắc thân thì đúng lý hơn. 

5/ Sáu xứ: S. sad-ayatana P.salayatana, cũng gọi theo chữ Hán là lục nhập hay lục nhập xứ: Tức là sáu căn năng, qua đó, thân tâm tiếp xúc với ngoại cảnh. 

6/ Xúc: S.aparsa P.phassa, tức là sự tiếp xúc của ba yếu tố căn, cảnh, và thức. 

7/ Thọ: S. và P.vedana, tức là cảm thọ vui, buồn hay không vui, không buồn. 

8/ Ái: S.trsna P.tanha, tức là sự thèm khát, cũng như khát thèm nước vậy. Như thấy cảnh vui, thì thèm muốn, gặp cảnh nghịch thì xa tránh. 

9/ Thủ: S. và P. upadana, sau khi trong tâm khởi lên lòng thèm khát, thì ở nơi ý, lời nói và thân, cũng khởi lên hành vi cụ thể bám lấy, vơ lấy, và đó chính là tạo nghiệp. 

Có thể phân biệt có: 


- Dục thủ: là thèm muốn, bám vào năm đối tượng của dục vọng như sắc đẹp, của cải, danh vọng, ăn, ngủ. 
- Kiến thủ: tức là bám lấy kiến giải mà mình vốn thích thú, dù là kiến giải sai. 
- Giới cấm thủ: Tức là bám vào những giới diều vô lý, sai trái, như một số ngoại đạo cho rằng tắm nước sông Hằng thì được xóa sạch mọi tội lỗi, sống ép xác khổ hạnh cũng xóa bỏ được mọi tội lỗi quá khứ. 

10/ Hữu: S. và P.bhava, tức là sự tồn tại. Vì tạo nghiệp trong quá khứ cho nên con người mới tồn tại, mới có thân năm uẩn, trong các cõi sống khác nhau. Nếu ở cõi Dục giới thì gọi là Dục hữu. Nếu là ở cõi Sắc giới thì gọi là Sắc Hữu, và nếu ở cõi Vô sắc thì gọi là Vô Sắc hữu. 


11/ Sinh: S. và P. Jati, tức là loài hữu tình, do nghiệp tạo ra trong quá khứ mà sanh trong các cõi sống khác nhau, thành các loại chúng sinh khác nhau. 

12/ Già chết: S. và P.Jara-marana. Trong kinh nguyên thủy, sau già, chết còn thêm sầu  P.soka, bi  P. parideva, Khổ P.dukkha, não P.upayasa, ưu P.domanassa. 


 
 

B.3 CÁC ĐOẠN TRÍCH DẪN KINH ĐIỂN VỀ BỐN ĐẾ
(liên hệ tới chân lý về sự khổ)

Khi Phật sắp nhập Niết bàn, Phật đã nhắc lại thuyết bốn đế: 


“Này các Tỷ Kheo, đối với thuyết bốn đế, có điều gì nghi hoặc thì mau mau hỏi đi, đừng để còn nghi hoặc mà không gạn hỏi... Lúc bấy giờ Thế Tôn hỏi lại ba lần mà không ai nói cả. Vì sao như vậy? Là vì trong Tăng chúng không còn ai nghi hoặc về thuyết bốn đề nữa. Khi ấy, Tôn giả A nâu Lâu Ðà (Anurrudha), quan sát tâm tư trong chúng, thấy như vậy bèn bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, mặt trăng có thể nóng lên, mặt trời có thể lạnh đi,  còn Thế Tôn giảng bốn Chân lý thì không bao giờ đổi khác được, Thế Tôn nói chơn lý về sự khổ thì thực là khổ, khổ không thể biến thành vui được. Tập đế là nhân của khổ, không thể có nhân khác. Nếu khổ diệt tức là nhân diệt. Nhân diệt cho nên quả diệt. Ðạo diệt khổ là đạo chân chính. Không còn có đạo khác. Bạch Thế Tôn, trong Tăng chúng, tâm tư đối với bốn đế đã quyết định, không còn nghi hoặc điều gì nữa.” 
(Kinh Di giáo bản dịch của Cưu Ma La Thập) 

Trích kinh Hỏa Dụ: 


(Phật nói mọi sự vật trong thế gian đều như bốc lửa). 

“Thời bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi ở lại Uruvela một thời gian đủ thỏa thích bèn lên dường đi Gaya (Già da). Ði theo Phật, có một nghìn Tỷ Kheo, trước đây vốn là du sĩ ngoại đạo bện tóc, theo Kỳ Na giáo. Sau khi đến Tinh Xá Tượng Ðầu (Gaya head), Phật nói với đại chúng Tỷ Kheo rằng: Này các Tỷ Kheo! Tất cả trong thế gian đều đang bốc cháy! Này các Tỷ Kheo, con mắt đang bốc cháy, nhãn thức đang bốc cháy, sắc cảnh mà nhãn thức nắm bắt đang bốc cháy, tất cả mọi cảm thọ do thấy sắc khởi lên, dù vui hay buồn, hay không vui không buồn, đều đang bốc cháy. Chúng bốc cháy như thế nào? Chúng bốc cháy do lửa tham, lửa sân, lửa si và cùng với sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổ, não, đồng thời bốc cháy... 

(Ðối với tai, mũi, lưỡi, thân, Phật cũng phân tích như vậy và Phật tiếp lời)... 

Và vị đệ tử có chánh kiến như vậy, bèn sanh tâm nhàm chán đối với mắt, sắc pháp, nhãn thức, mọi cảm thọ sanh ra từ nhãn thức, sanh tâm nhàm chán đối với tai, âm thanh, nhĩ thức, với mũi, mùi vị, tị thức... nhờ nhàm chán mà vị đệ tử đoạn trừ được tham dục, đạt được tự do và giải thoát...”

Trích kinh Lăng Nghiêm: 
Một đoạn trong kinh Lăng Nghiêm, dẫn lời của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi): 
“Bạch Thế Tôn, con xưa còn nhỏ, da dẻ mượt mà, lúc lớn lên huyết khí sung mãn, mà nay đã già trở thành suy yếu, thân hình khô héo tiều tụy, tinh thần u ám, tóc bạc da nhăn, chắc là... không còn thọ được bao lâu nữa. Làm sao có thể so sánh dược với thời trai tráng? Sự thay đổi là dần dần, thực ra con không thể nào cảm giác được, mùa qua tháng lại, dẫn tới tình trạng ngày nay. Cớ vì sao? Năm con hai mươi tuổi, tuy gọi là còn nhỏ, nhưng dung nhan đã có già đi so với hồi 10 tuổi, đến năm 30 tuổi lại già đi so với tuổi 20. Năm nay, con sáu mươi tuổi, nếu ngó lại cách đây 10 năm thì lúc đó con còn cường tráng. Bạch Thế Tôn, con thấy sự thay đổi không chỉ hạn chế trong 10 năm. Nếu suy nghĩ kỹ, thì sự thay đổi không phải hạn chế trong một kỷ hay hai kỷ, mà sự thay đổi đó diễn ra hàng năm, mà không phải từng năm mà từng tháng đã có thay đổi. Mà không phải từng tháng có thay đổi, mà là từng ngày. Thậm chí nếu xét kỹ, thì sự thay đổi đó chưa từng nghỉ dừng, dù là trong từng sát na, trong từng niệm. Vì vậy con biết thân của con, cuối cùng sẽ phải biến diệt !...” 

Trích Kinh Niết Bàn: 


Kinh Niết Bàn có đoạn nói lên đặc điểm của nhân sanh, vui và buồn, lạc và khổ đi kèm với nhau như bóng với hình: 
“Có hai chị em, người chị cực kỳ xinh đẹp, dễ thương, đi dến đâu cũng đem lại sự phát đạt, phồn vinh giàu có, và được mọi người hoan nghinh, tiếp đón, giữ lại không cho đi nơi khác. Nhưng người em, thì trái lại cực kỳ xấu xí, đi đến đâu cũng gieo rắc tai họa, sự phá sản và tử vong, cho nên mọi người đều ghét bỏ, cự tuyệt không cho đến. Nhưng người chị nói : “Tôi và em tôi, đi đâu cùng đi với nhau, không bao giờ rời xa nhau”..... 
Ở đâu tôi cũng làm diều lành, em tôi thì làm điều ác, tôi đem lại niềm vui, em tôi thì gây đau khổ. Mọi người nếu yêu tôi, thì cũng phải đừng ghét em tôi.... 

Nhân sinh là như vậy. Có vui có buồn, có sướng có khổ, có vinh có nhục. Cho nên, Phật dạy rằng, trong thế gian này, con người không thể hưởng được niềm vui thường tại, không thể có tự ngã biệt lập không thể có dung sắc đẹp mãi mãi không bị tàn phai. Vì chúng sinh si mê cho nên lấy buồn làm vui, lấy cái vô ngã làm ngã, lấy vô thường làm thường, lấy cái không thanh tịnh làm thanh tịnh, Phật gọi đó là thấy điên đảo.” 

Có lần, Phật dạy các đệ tử: 
“Này các Tỷ Kheo! Các người hãy nghĩ xem, nước trong bốn biển là nhiều, hay là từ vô thỉ đến nay, lăn lộn mãi trong vòng sanh tử, nước mắt của các người đổ xuống trong ngày tháng đêm dài là nhiều? Này các Tỷ Kheo! Các người trong một thời gian dài, đã biết bao lần, các người chịu đựng nỗi thống khổ mất cha, mất mẹ, đã bao lần các người chịu nỗi thống khổ mất con, mất anh em, mất chị em. Ðã biết bao lần, chịu nỗi thống khổ mất tài sản, nỗi thống khổ bịnh tật triền miên. Biết bao lần, các người phải chịu nỗi thống khổ xa người mình yêu, gần người mình ghét. Ðúng như vậy một điểm cũng không sai, đã bao nhiêu lần, các người đã chịu những nổi thống khổ như vậy mà phải khóc và chảy nước mắt. Lượng nước mắt đổ ra thực là nhiều hơn nước của bốn biển cộng lại. Này các Tỷ Kheo trong một thời gian dài, các người đã chịu đựng những nỗi thống khổ, sầu bi, khổ não, như vậy, chịu đựng bao nhiêu bất hạnh, bao nhiêu đã kích, bao nhiêu dày vò... thây xác, xương cốt các người lấp đầy mồ mả. Các người chịu khổ như vậy đã đủ lắm rồi. Ðã đến lúc, các người nhàm chán thế gian này, đã đến lúc các người phải nổ lực thoát khỏi nỗi khổ của sanh tử.... 
 

III. Diệt Thánh Ðế, tức Niết Bàn :

Diệt thánh đế, từ Sanskrit là Dukkhamrodha ariyasacca, nghĩa là cảnh giới đã diệt trừ mọi khổ não. Một tên gọi khác là Niết Bàn. Từ Sanskrit là Nirvana. Từ Pàli là Nibbana, với các nghĩa dập tắt, thổi tắt. (Thổi tắt, dập tắt ngọn lửa phiền não). 

Kinh Tăng Nhứt A Hàm viết: “nếu có vị đệ tử được chơn chánh giải thoát, tâm vị ấy vắng lặng (không thể xao động), việc làm, đã làm, không còn việc gì để làm nữa; nhiệm vụ cần làm đã làm, không còn nhiệm vụ gì phải làm nữa. Giống như tảng đá lớn gió thổi không động, sắc, thanh, hương, vị mọi cảm xúc đẹp đẽ cho đến mọi chuyện thích thú hay không thích thú đều không làm cho dao động. Vị ấy, có nội tâm kiên cố, thường trụ, giải thoát”. (Tăng nhất A Hàm 3-378-9) 

Niết Bàn là mục tiêu tối hậu của đạo Phật. Nhưng Niết Bàn là gì? Không thể lấy tư duy và ngôn ngữ bình thường để mô tả trực tiếp được. Do đó mà sách Phật thường dùng các từ ngữ phủ định hay phản diện để nói về Niết Bàn như: Diệt tham, vô vị tịch diệt, vô tử... Niết Bàn đã là cảnh giới siêu thời gian và không gian, còn chúng ta thì dùng tư duy và ngôn ngữ thế gian, tất nhiên không thể nào dùng tư duy và ngôn ngữ đó để trực tiếp miêu tả Niết Bàn được. 

Sau đây, trích một đoạn văn trong “Tương Ưng bộ Kinh” ghi lại lời Phật trả lời du sĩ Vaccha1  .
Vaccha hỏi Phật : 
“Hi hữu Tôn giả, Ðức Thích Ca vĩ đại. Biển sanh tử kia, mênh mang không bờ, muốn vượt khỏi biển đó, phải dựa vào pháp môn của Phật.” 
Con nay mong cầu, Bậc Nhất Thiết Trí, chỉ bày cho con, con đường giải thoát, để con hành trì và y chỉ, cầu vượt biển sanh tử. 

Phật trả lời : “Luôn luôn giữ chánh niệm, quan sát rõ ràng, (thấy) bất cứ lúc nào, các pháp đều là không, nếu có quyết tâm, dựa vào (quan điểm) các pháp đều là không, thì có thể vượt qua biển lớn sanh tử. 


Ðoạn trừ mọi dục lạc, không nói như câm, ngày đêm sáu thời, yên lặng nội quán, phát tâm dũng mãnh, đoạn trừ tham dục, công phu như vậy, tất yếu sẽ thoát khỏi sanh tử.” 

Vaccha hỏi : 


Nếu có bậc Thánh, đã đoạn trừ dục vọng, không thích dục lạc, tâm không còn ỷ lại, đã xả bỏ hết,  đối với trần và cảnh, đã dược giải thoát, làm bậc tôn quý trong thế gian; bậc Thánh như vậy, còn thoái chuyển nữa hay không? Bậc ấy thường trú ở cảnh giới Thánh, còn có thể mất cảnh giới Thánh đó hay không ? ... 
Bậc Thánh như vậy, trú ở cảnh giới Thánh, mắt mẻ giải thoát trải qua nhiều năm tháng, không có thối thất. Bậc Thánh như vậy, có thần thức hay không? (chúng con) biết cảnh giới đó được hay không? 

Phật trả lời : 


“Như ngọn lửa kia, được gió thổi tắt, không còn thấy đâu nữa, bậc Thánh đắc đạo, thân tâm giải thoát, lặng lẽ vô vi, cũng không thể thấy được”. 

Vaccha hỏi : 


“Bậc Thánh đắc đạo, tịnh lặng vô vi, là không ư? là diệt ư?  Hay là thường trú, không khổ, không tịch?” 
Hy hữu Tôn giả, hãy chỉ bày cho con, cởi mở sự bế tắc, đoạn trừ mê lầm cho con. Pháp đó phải chăng là cảnh giới của chư Phật tự thân chứng nghiệm... 

Phật trả lời : 


“Các bậc Thánh ngộ đạo, vô vi tịch chỉ, khó mà nghĩ bàn, đó là cảnh siêu việt ý thức. Không có pháp nào thuộc về danh từ ngôn thuyết. Sau khi đã xả bỏ tất cả các pháp, thì cũng đoạn trừ ngôn ngữ, và mọi hành tướng của tâm, xa lìa mọi cảnh giới hý luận và phân biệt” 
 

Trong đoạn văn trên, có thể nói, cái gì có thể nói được về Niết Bàn thì Phật đã nói đầy đủ rồi. Dưới dây, chỉ nêu lên vài điểm chủ yếu: 

1/ Niết Bàn không phải là hư vô, mà là một sụ tồn tại tích cục, siêu việt mọi nghĩ bàn: Về sự tồn tại của Niết Bàn, Phật đã nhiều lần khẳng dịnh Phật nói: “Này các Tỷ Kheo, có pháp vô vi, bất sanh bất biến; nếu như không có pháp vô vi bất sanh bất biến này, thời các pháp có sanh có biến đổi và nhơn duyên sanh không thể nào giải thoát được”. 

Ðó là những lời khẳng định tích cực và chánh diện đối với Niết Bàn. Trong các kinh điển Phật giáo khác, Niết Bàn thường được gọi là bất tử (amrta). Bất tử không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một sự thực sống động. Cũng không phải là một ý niệm chủ quan mà là một sự thực tồn tại khách quan. Trong kinh Phật, Ma Vương (Mara - Ba tuần) biểu trưng cho sự chết. Còn Niết Bàn là không chết, là bất tử, là sự chiến thắng và chinh phục cái chết. Trong các sách sanskrit, amrta còn có nghĩa là thuốc tiên, với nghĩa Niết Bàn là thuốc tiên, đem lại sự bất tử cho người nào có được thuốc tiên ấy. Niết Bàn là sự tồn tại vĩnh hằng. Người tu đạo, sau khi chứng ngộ Niết Bàn, trong sanh lý eủa họ, cũng có một sự thay đổi nhứt định. Trong kinh Phật bổn dưyên (Mahavastu), ghi lại sự kiện tôn giả Xá Lợi Phất, sau khi ngộ đạo, gặp tôn giả Mụe Kiền Liên trên đưòng đi. Tôn giả Mục Kiền Liên thấy ngài Xá Lợi Phất dung mạo khác thường, bèn hỏi : 


“Này tôn giả Xá Lợi Phất ! Người bạn của tôi ! Dung mạo ông thanh tịnh, thần thái ông trang nghiêm, an ổn, khiến mọi người đều tôn kính. Này tôn giả Xá Lợi Phất! Phải chăng tôn giả đã uống được nước cam lồ bất tử (amrta), đã tìm được con đường lớn dẫn tới sự bất tử? Dung mạo tôn giả giống như là bậc đắc dạo, nó trong sáng như hoa sen nở, thần thái của tôn giả an tường và trang trọng. Tôn giả tìm dược ở đâu đạo bất tử khiến cho thần thái của tôn giả trong sáng như thế này?” 
Ngài Xá Lợi Phất trả lời : “Này tôn giả Mục Kiền Liên, đúng vậy, tôi đã có được nước cam lồ bất tử, đã tìm ra đường lớn dẫn tới bất tử. (Mahavastu, 3,68 “Buddhist thought in India” ) 

2/ Bất tử : Vì là một thuộc tính quan trọng của Niết bàn, cho nên có đến 15 hình dung từ, có ý nghĩa tương tợ, cũng dùng cho Niết Bàn như : 


(1) Vĩnh hằng. 
(2) Kiên cố. 
(3) Bất biến. 
(4) Vô hoại (A-cyuta) 
(5) Không biên giới (vô tế-an-anta) 
(6) Vô chỉ (aty-antam) 
(7) Vô sanh. 
(8) Vô diệt . 
(9) Vô khởi.
(10) Bát dị hoại diệt, không dễ bị hoại diệt. 
(11) Phi sanh pháp, Apalokina-a-bhutam- không phải là pháp có sanh. 
(12) Vô hành - không có tác nghiệp, 
(13) Vô bịnh - không bịnh, 
(14) Vô lão - không già. 
(15) Vô tử (a-maranam) không chết. 
 

3/ Niết Bàn là an toàn và không có điều ác 


Niết Bàn là cảnh giới an toàn và không có điều ác. Có thể kể những hình dung từ có ý tứ an toàn như : 
(1) An toàn (A secure) 
(2) Nơi trở về để tránh khổ (A refugee) - quy cứu.
(3) Nơi ẩn náu (A shelter) tị sở.
(4) Nơi tránh nạn (A. asylum) tỵ nạn xứ, 
(5) Hòn đảo (A. island) 
Các hình dung từ khác có ý từ bỏ điều ác gồm có : 
(1) Ðoạn diệt khổ (khổ chi chỉ diệt), 
(2) Dập tắt khổ (khổ chi chỉ tức), 
(3) Không thể gây thương hại,
(4) Không có tai họa (an-itikam) 
(5) An thích, an toàn thích thú (sukha) 
(6) Cát tường - tốt lành (sivan) 
(7) Vô ưu 
(8) Tịch an (santi), yên lặng, vắng lặng. 
(9) Thanh tịnh, trong sạch, 
(10) Vô nhiễm (asankihttha) không bị nhơ bẩn, 
(11) Vô nhiễu - không có phiền.nhiễu. 

4/ Niết Bàn là cảnh giới siêu việt


Sau đây là một số từ ngữ, nói lên tính siêu việt của Niết Bàn, phủ định mọi thuộc tính thế gian này của Niết Bàn, đồng thời khẳng định Niết Bàn là chơn lý tối hậu, là mục đích tối cao: 
(1) Giải thoát
(2) Xuất ly, 
(3) Vứt bỏ (khí xả) 
(4) Không chấp thủ (vô thủ) 
(5) Không rơi vào ba hữu 
(6) Siêu thế, 
(7) Siêu tuyệt, 
(8) An tức (an nghỉ) 
(9) Duy nhứt, 
(10) Thế gian tận, 
(11) Tham diệt. 
(12) Phiền não diệt, 
(13) Vô lậu, 
(14) Vô vi, 
(15) Phi sở tác, không phải do làm ra, 
(16) Không thể thấy - bất khả kiến, 
(17) Kinh lạ (ascaryam) 
(18) Kỳ diệu (adbhutam) 
(19) Vi tế, nhỏ nhiệm, 
(20) Bất khả thuyết , 
(21) Bất khả lường, 
(22) Không có gì sánh bằng (vô khả luân tỉ) 
(23) Chân đế, 
(24) Chân như Bhutta-tathata. 
(25) Thắng nghĩa Paramarttha. 
(26) Tối thượng, 
(27) Chí thiện (seyyo) 
(28) Vô thưọng (an-uttaram) 
(29) Duy nhứt viên mãn ekamttha (cái hoàn thiện duy nhứt). 
(30) Giải thoát tối hậu (apa-vagga). 

5/ 66 từ ngữ định nghĩa Niết Bàn theo cuốn “Bàn về Bốn Đế”


Sau đây chúng tôi liệt kê có 66 tên gọi khác của Niết Bàn kèm theo giải thích gọn : 
(1) Vô vi: Vì Niết Bàn là không sanh, không diệt, không phải là nhơn duyên sanh. Mọi pháp “bị làm ra”, không thể so với Niết Bàn được. 
Nguyên văn : Niết Bàn là vô sanh, không lớn lên, không diệt, không do nhơn duyên làm ra, trái ngược với hữu vi, cho nên gọi là vô vi. 

(2) Vô hạ: 


Niết Bàn siêu việt ba giới, không có gì so sánh với Niết Bàn được, cho nên gọi là Vô hạ. 
Nguyên văn : Cao vượt ba giới? xa lìa mọi thấp hèn, không có gì so sánh được cho nên gọi là vô hạ. 

(3) Vô lưu: 


Niết Bàn vĩnh viễn xa lìa mọi dòng sanh tử, không còn thuộc phạm vi sanh tử luân hồi, nên gọi là Vô lưu.
Nguyên văn: Vĩnh viễn xa lìa mọi dòng chảy, các dòng (sanh tử) không còn sinh ra nữa, không phải là nơi có vết tích dòng chảy, cho nên gọi là Vô lưu 

(4) Chân đế: 


Niết Bàn không phải là hư vọng, không phải là điên đảo, sai lầm, cũng không trái ngược chơn lý, cho nên gọi là Chơn đế.
Nguyên văn : Không hư vọng, không điên dảo, không tương vi, cho nên gọi là chân đế. 

(5) Bỉ ngạn: Bờ bên kia. 


Niết Bàn là cảnh giới không còn nghi hoặc và sợ hãi nữa, siêu việt 3 hữu 2, xa lìa mọi công dụng, vượt qua biển lớn sanh tử, vì vậy gọi là bỉ ngạn. 
Nguyên văn : Không bị rắn độc của ba giới làm cho sợ hãi, vượt qua ba hữu, bỏ mọi công dụng, vượt biển sanh tử, cho nên gọi là bỉ ngạn. 

(6) Thính tế : (nghe được cái nhỏ nhiệm) 


Niết Bàn là cảnh giới chỉ có thể đạt tới với trí tuệ cao nhứt, vì vậy mà gọi là thính tế, tức là nắm bắt được cảnh giới của diệu lý, cực kỳ thâm sâu. 
Nguyên văn: là chỗ hiểu biết của trí tuệ cao tột, cho nên gọi là thính tế. 

(7) Khó thấy: (Nan kiến)


Niết Bàn không khác gì hoa ưu đàm, rất khó gặp. 
Nguyên văn : Như hoa Ưu đàm, thế gian khó gặp vì vậy gọi Nan kiến. 

(8) Vô hoại : 


Nguyên văn: không già, không bị phá hoại do đó gọi là vô hoại. 

(9) Hàng tại vô tranh: 


Không tranh giành (với ai) thường hằng như vậy:
Nguyên văn : Vốn là không giao động, cho nên gọi là hằng tại vô tranh. 

(10) Vô thất: không mất. 


Niết Bàn không phải vì đối trị và đoạn trừ các phiền não, mà bản thân bị suy giảm, cho nên gọi là vô thất. 
Nguyên văn : Ðối trị, đoạn trừ các pháp, mà thể không bị suy giảm, cho nên gọi là vô thất. 

(11) Vô thí (dụ) 


Niết Bàn vượt tất cả những gì chúng ta thấy được trên thế gian này, không có cái gì ngang bằng với nó được, không thể dùng ví dụ dể hình dung ra Niết Bàn, cho nên gọi là vô thí (dụ). 
Nguyên văn : Niết Bàn vượt quá cảnh giới của mắt thấy, không có cái gì ngang bằng được, cho nên gọi là vô thí (dụ). 

(12) Không có hý luận: 


Niết Bàn không có các kiến giải sai lầm, nảy sinh từ tham ái, cũng không có kiêu mạn và chấp thủ, vì vậy gọi là không hý luận. 
Nguyên văn: không có các kiến giải nảy sinh từ tham ái, không có kiêu mạn và chấp thủ, cho nên gọi là không có hý luận. 

(13) Tịch tịnh : vắng lặng. 


Nguyên văn : lửa si hoặc bị dập tắt, cho nên gọi là tịch tịnh vắng lặng. 

(14) Cam lộ : 


Niết Bàn là cảnh giới bất tử mà chư thiên không thể chi phối được, cho nên gọi là cam lộ. 
Nguyên văn:  Vượt qua cõi chết và thiên giới, cho nên gọi là cam lộ. 

(15) Cực diệu : 


Nguyên văn : rất là đẹp đẽ vắng lặng, đáng thích thú, cho nên gọi cực diệu. 

(16) Chỉ : là ngưng chỉ. 


Nguyên văn : vắng lặng, không khổ cho nên gọi là ngưng chỉ. 

(17) An: 


Nguyên văn: Pháp thiện chân thực cho nên gọi là An. 

(18) Ái tận: hết ái dục. 


Không còn bị sự thèm khát thiêu cháy, cho nên gọỉ là ái tận. 

(19) Hy hữu: Niết Bàn khiến cho nhiều người phải kinh ngạc ngợi 


khen, cho nên gọi là hy hữu. 
Nguyên văn : Làm cho người khác kinh lạ, cho nên gọi là hy hữu. 

(20) Chưa từng được như vậy: Vị tằng đắc. 


Trên con đường sanh tử, không thể đạt tới Niết Bàn, vì vậy nói chưa từng được như vậy. 
Nguyên văn : trong sanh tử, chưa từng được công đức ấy, cho nên gọi là vị tằng đắc. 

(21) Vô uổng : 


Người (được Niết Bàn), không còn bị hại, cho nên gọi là vô uổng. 

(22) Vô tai : 


Không còn tai nạn, trong thì không thiếu gì, ngoài thì không bị ác chướng, cho nên gọi là vô tai. 

(23) Niết Bàn : 


Sau khi chứng Niết Bàn, từ nay về sau không còn bị nỗi thống khổ của sanh tử nữa, được sự an lạc cứu kính, đó là ý nghĩa chơn chính của Niết Bàn. 
Nguyên văn : không còn phải tái sinh và chịu khổ nữa, được an lạc cứu kính, cho nên gọi là Niết Bàn. 

(24) Nan tư : 


nghĩa là khó suy nghĩ tới. Niết Bàn không thể nói là có, không thể nói là không, khó suy nghĩ tới được, cho nên gọi là nan tư. 
Nguyên văn : khác với tướng có, không cho nên gọi là nan tư. 

(25) Bất sanh: 


Ðã có sanh thì có tử, già, lo buồn... Niết Bàn siêu việt mọi khuyết điểm liên quan đến sinh tử, và đem lại niềm vui kỳ diệu của giải thoát, cho nên gọi là bất sanh. 
Nguyên văn : lìa khuyết điểm của tái sinh và hưởng niềm vui tương ứng cho nên gọi là bất sinh. 

(26) Không dấu tích : 


Các loại ma như phiền não ma, tử ma, ngũ ấm ma, tự tại thiên ma, bốn loại ma này đều không quấy nhiễu được cảnh giới Niết Bàn, cho nên gọi là Vô tích, Niết Bàn không có dấu vết để cho các loại ma có thể theo dõi được. 
Nguyên văn: Tứ ma bất chí, cố thuyết vô tích. 
Nghĩa : bốn loại ma không đến được cho nên gọi là vô tích. 

(27) Phi tác: 


Bản thân Niết Bàn không thể do nhơn duyên nào làm ra được cho nên gọi là phi tác. 
Nguyên văn : không do nhơn nào tạo ra, cho nên gọi là phi tác. 

(28) Vô ưu : 


Không còn lo phiền, người chứng được Niết Bàn, không còn bị lo phiền, cho nên gọi là Vô ưu. 

Nguyên văn: Không còn bị khổ, nên gọi là Vô ưu. 

(29) Trú : 
Người chứng Niết Bàn an trú ở cảnh giới Niết Bàn không còn thoái chuyển. 
Nguyên văn : Người chứng Niết Bàn, vĩnh viễn không còn thối lui, cảnh giới chứng ngộ là kiên cố, vững chắc. 

(30) Vô đẳng:


Không có pháp nào có thể so sánh được với Niết Bàn. 
Nguyên văn : vô pháp năng tợ, cố thuyết vô đẳng (không có pháp nào có thể giống như Niết Bàn). 

(31) Vô cầu : 


Người chứng Niết Bàn không còn ham muốn cầu mong gì nữa. Nguyên văn : Vĩnh ly thủ dục, cố thuyết vô cầu. 
Nghĩa là : Vĩnh viễn xa lìa mọi ham muốn về chấp thủ, cho nên gọi là vô cầu. 

(32) Vô biên: 


Cảnh giới Niết Bàn siêu việt thời gian, không biến động, không còn có trước và sau. 
Nguyên văn: Vô tiền hậu tế, cố thuyết vô biên. 
Nghĩa là : Không còn có trước và sau, cho nên gọi là vô biên. 

(33) Vi tế: 


Không thể dùng tri thức thế tục để tìm hiểu Niết Bàn. 
Nguyên văn: Nan khả thông đạt cố thuyết vi tế. 
Nghĩa là: khó chứng đạt tới cho nên gọi là vi tế. 

(34) Vô tổn:


Không tổn hại. 
Nguyên văn : Vô hữu bức cố thuyết vô tổn. 
Nghĩa là : không còn bị bức bách cho nên gọi là vô tổn. 

(35) Ly dục: 


xa lìa dục vọng. 
Nguyên văn : Không còn bị ô nhiễm bởi mê hoặc, cho nên gọi ly dục. 

(36) Tịnh: trong sạch. 


Nguyên văn : Vô chư quá thất, cố thuyết danh tịnh. 
Nghĩa là: không còn có lỗi lầm khuyết điểm, cho nên gọi là tịnh. 

(37) Giải thoát: 


Nguyên văn : kết phước giai đoạn, cố danh giải thoát. 
Nghĩa là : mọi ràng buộc đều đoạn trừ, cho nên gọi là giải thoát. 

(38) Phi trú : 


cảnh giới Niết Bàn không còn nương tựa vào một pháp nào hết. 
Nguyên văn: Ly y chỉ cố thuyết phi trú. 

(39) Phi đối : 


Niết Bàn là cảnh giới chơn thực duy nhứt, thoát khỏi vòng đối đãi. Nguyên văn: Vô hữu nhị pháp, cố thuyết phi đối. 

(40) Ðẳng :


Niết Bàn ngang bằng với cái tuyệt đối vô thượng. 
Nguyên văn : Vô đẳng đẳng cố thuyết vi đẳng. 
Nghĩa là: vì là ngang bằng với cái vô đẳng cho nên gọi là đẳng. 

(41) Vô hại : 


Niết Bàn siêu việt mọi cảm quan và tri giác. 
Nguyên văn : Chư nhập một xứ, cố thuyết vô hại. 
Nghĩa là : vì các cảm quan (chư nhập) không còn nữa cho nên gọi là vô hại. 

(42) Thậm thâm : rất sâu sắc. 


Nguyên văn: Ngoại nhân bất đắc, cố danh thậm thâm, người ở bên ngoài không thể có được, cho nên gọi rất sâu sẩc. 

(43) Nan giải: khó lý giải. 


Nguyên văn: tách khỏi chánh giáo của Phật thì khó hiểu biết được cho nên gọi là nan giải. 

(44) Năng độ : 


Nguyên văn: nhờ quán công đức (của Niết Bàn) mà khiến cho có thể vượt qua sanh tử, cho nên gọi là năng độ. 

(45) Vô thượng : 


Nguyên văn : là vô thưọng pháp không có gì ở trên nữa cho nên gọi là vô thượng. 
Nghĩa câu này không được rõ. Có thể có nghĩa: Niết Bàn đứng đầu hết thảy các pháp thù thắng, cho nên gọi là vô thượng. 

(46) Thắng : 


Nguyên văn: tìm trong biển pháp, nắm bắt được cái chân thực nhứt, là sở đắc của thưọng nhân cho nên gọi là vô thắng. 

(47) Thánh quả : 


Nguyên văn : nhờ tu vạn hạnh mới có được, là cái tối thượng vô giá cho nên gọi là thánh quả. 

(48) Vô úy : không sợ hãi. 


Nguyên văn : lìa các nhân làm cho sợ hãi cho nên gọi là vô úy. 

(49) Bất xá : 


Nguyên văn : sự yêu chuộng đối với quả thánh kiên cố, cho nên gọi là bất xả. 

(50) Biến mãn : khắp cả. 


Nguyên văn : Phàm Thánh đều vốn có (khả năng đạt Niết Bàn) như nhau. 

(51) Vô lượng : 


Nguyên văn . Công đức của Niết Bàn không thể tán thán hết được. 

(52) Vô số :


Nguyên văn : không thuộc về sáu cõi, cho nên gọi là vô số. 

(53) Bất phá: 


Nguyên văn : Thể của Niết Bàn hết sức kiên cố cho nên gọi là bất phá. 

(54) Tôn : 


Nguyên văn:  không có pháp nào tôn quý hơn. 

(55) Ứng thán : 


Xứng đáng được tán thán. 
Nguyên văn : Trong sạch hết sức, xứng đáng nhứt được ca ngợi. 

(55) Xá : nơi ở. 


Nguyên văn : là nơi ở của các bậc Thánh. 

(56) Quy y: 


Nguvên văn : có thể cứu mọi khổ nạn, cho nên gọi là quy y. 

(57) Vô tranh : 


Nguyên văn : gọi là vô tranh vì mọi đấu tranh mâu thuẫn đều ngưng chỉ. 

(58) Vô cấu : không cấu bẩn. 


Nguyên văn : xa lìa tham, sân, si cho nên gọi là vô cấu. 

(59) Vô giả : 


Nguyên văn : vốn có, không bị làm ra cho nên gọi là vô giả. 

(60) Ðăng : đèn. 


Nguyên văn : trừ bóng tối vô minh, cho nên gọi là đèn. 

(62) Lạc : Các cảm thọ đều vắng lặng, cho nên gọi là lạc 

(63) Vô đọa : không đọa. 
Nguyên văn : không đọa vào các cảnh sắc... 

(64) Châu : hòn đảo. 


Nguyên văn : bốn dòng chảy (sinh, lão, bịnh, tử) không nhận chìm được. 

(65) Bất động : Không thể chứng đạt Niết Bàn với tâm tán loạn được. 


Nguyên văn : tán tâm bất chứng, cố thuyết bất động. 

(66) Vô sở hữu : không có gì riêng tây. 


 

Qua 66 tên gọi khác nhau của Niết Bàn, chúng ta thấy rõ, ngay trong kinh sách Phật giáo Nguyên thủy, Niết Bàn không phải là cảnh giới hư vô, mà là một cảnh giới thực tại, bao hàm vô lượng công đức. Ðến kinh sách Phật giáo Ðại thừa, tính tích cực của Niết Bàn càng được bộc lộ rõ hơn nữa. (66 thuộc tính Niết Bàn rút trong Ðại Chính 1647- P. 390, 391 “Tứ Ðế Luận”). 


 

6/ Niết Bàn của Ðại Thừa:


Ðối với Ðại thừa, Niết Bàn chính là Chân Như, là Thực tướng, là Pháp thân. Luận khởi tín viết : “Thể bổn giác của Chân Như toàn hiện tức là Niết Bàn. Thể bổn giác đó chính là trí tuệ sáng suốt. Theo Ðại Thừa, thể bổn giác đó chính là trí tuệ Bát nhã, hay trí tuệ Ba La Mật. Thể bổn giác đó có hai tướng : 
1. là trí tịnh tướng, là tướng trí tuệ thanh tịnh. 
2. Là bất tư nghì nghiệp tướng, tức là thể bổn giác đó hàm chứa vô vàn công đức không thể bàn xiết, phục vụ cho sự nghiệp độ sanh của chư Phật Bồ Tát. 

Kinh Luận Ðại Thừa thường nói tới bốn loại Niết Bàn là : (trích dịch Thành Duy Thức Luận): 

1. Bổn lai tự tánh thanh tịnh Niết Bàn: 
Tức lý chơn như của tất cả mọi pháp tướng, tuy về khách quan có bị nhiễm ô, nhưng tự tánh của nó vẫn thanh tịnh, có đầy đủ vô lượng công đức, vi diệu, không sanh không diệt, trong suốt như hư không, là sỡ hữu bình đẳng và vốn có của tất cả mọi loài hữu tình, cùng với tất cả các pháp không phải một, không phải khác, xa lìa mọi tướng, mọi phân biệt, mọi tư duy, mọi ngôn ngữ, chỉ có bậc Thánh chơn chính mới chứng được từ nội tâm, tự tánh nó vốn vắng lặng cho nên gọi là Niết Bàn. 

2. Hữu dư y Niết Bàn : 


Là Chân Như đã thoát lìa phiền não, nhưng sở y còn có đôi chút khổ vi tế, tuy là mọi chuớng ngại đã đoạn tận cho nên gọi là Niết Bàn.

3. Vô dư y Niết Bàn : 


Tức là Chân Như đã thoát lìa mọi nỗi khổ sanh tử, không còn phiền não nữa, mọi dư y cũng không còn, mọi khổ đau đều chấm dứt, cho nên gọi là Niết Bàn. 

4. Vô trụ xứ Niết Bàn : 


Tức là Chân Như đã thoát khỏi sở tri chướng, có đầy đủ lòng đại bi và trí tuệ lớn, phát huy tác dụng hóa độ chúng sanh với số lượng không kể xiết tuy phát huy tác dụng như vậy nhưng vẫn vắng lặng, cho nên gọi là Niết Bàn. 
 

Trong bốn loại Niết Bàn nói trên, thì Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo bộ phái đã từng nói đến Hữu dư y Niết Bàn và Vô dư y Niết Bàn rồi. Nhưng tự tính Niết Bàn và Vô trụ xứ Niết Bàn thì chưa nói tới. 

Một trong những điểm mới của các bộ kinh Bát Nhã, xuất hiện trong thời kỳ hưng khởi của Phật giáo Ðại Thừa là tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tính, là cái mầm giác ngộ sẵn có trong tất cả mọi chúng sanh, là cái khả năng thành Phật của tất cả mọi loài hữu tình. Phật tính đó chính là Bổn lai tự tính Niết Bàn được nói tới trong Thành Duy Thức Luận, cũng chính là trí tuệ Bát Nhã vậy. 

Nhân vật tiêu biểu của Ðại Thùa giáo là Bồ tát mà nhân cách phi thường được thể hiện trong lời nguyện của Bồ tát Ðịa Tạng “Ðịa ngục bất không, thệ bất thành Phật...”. Ý nói, nếu trong địa ngục còn có chúng sanh, thì thề không thành Phật. Hạnh Bồ tát là hạnh lợi tha triệt để. Vị Bồ tát cho rằng, còn một chúng sanh chưa được giải thoát thì bản thân mình cũng chưa được thực sự giải thoát, còn một chúng sanh còn đau khổ, chưa được an lạc thì bản thân mình cũng đau khổ chưa được thực sự an lạc. Vì có trí tuệ Bát Nhã cho nên vị Bồ Tát không trụ ở sinh tử, vì có lòng đại bi cho nên vị Bồ tát cũng không trụ ở Niết Bàn, vì vậy mà gọi là Vô trụ xứ Niết Bàn. 


 

Chú thích:


1. Samyutta Nikàya - 1069 - 76, chuyển dịch từ Conze - Buddhist Thought in India. p.77 - 79.
2. Tam hữu : có hai nghĩa, 
A. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới. 
B. Sanh hữu, tử hữu, trung hữu, sanh hữu là sự tồn tại của sự sống, tử hữu là sự tồn tại của sự chết, trung hữu là sự tồn tại giữa thời điểm chết và thời điểm tái sinh. 


tải về 468.78 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương