Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất Mở Rộng LÃnh đẠo theo phong cách thầy giê-su trong tin mừng gio-an giêrônimô Nguyễn Văn Nội


Thầy Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể như thế nào?



tải về 2.31 Mb.
trang6/12
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích2.31 Mb.
#38777
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

4.3 Thầy Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể như thế nào?

- Việc Thầy Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể được cả 3 Phúc Âm Nhất Lãm và Thư 1 Cr của Thánh Phao-lô tường thuật lại:



- «26 Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy." 27 Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy uống chén này, 28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội. 29 Thầy bảo cho anh em biết : từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy." (Mt 26,26-29).

- «22 Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." 23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. 24 Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. 25 Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa." (Mc 14,22 -25).

- «19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy." 20 Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em» (Lc 22 19 -20).

- «23 Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." 25 Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới ; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." (1 Cr 11, 23 -25).
4.4 Mạc khải Bánh Trường Sinh và lời hứa ban Nước Hằng Sống của Thầy Giê-su quan trọng như thế nào?

- Mạc khải Thầy Giê-su là Bánh Trường Sinh và lời Thầy hứa ban Nước Hằng Sống rất quan trọng đối với người và cộng đoàn Ki-tô hữu vì những ý nghĩa sau đây:

1°) Bánh và Nước nhắc đến cuộc Xuất Hành của dân Ít-ra-en: Trong hành trình qua sa mạc tiến về Ca-na-an là miền Đất Hứa, dân Ít-ra-en đã được Thiên Chúa nuôi bằng man-na, chim cút và nước chẩy ra từ tảng đá. Nay Thầy Giê-su mạc khải là Bánh Trường Sinh và hứa ban Nước Hằng Sống thì có nghĩa là trong hành trình thiêng liêng của các khách lữ hành tiến về Vương Quốc của Thiên Chúa là Đất Hứa thực thụ và vĩnh hằng, Thầy Giê-su sẽ là lương thực mà ai nấy đều cần đến để có đủ sức mà tiếp tục cuộc hành trình về Nhà Cha.
2°) Bánh Trường Sinh và Nước Hằng Sống gợi mở Bữa Tiệc Nước Trời mà Thiên Chúa thiết đãi mọi người không trừ ai. Trong Bữa Tiệc này, Con Một Thiên Chúa vừa là của lễ, vừa là chủ tế vừa là bàn thờ.
3°) Bánh Trường Sinh và Nước Hằng Sống gợi mở Tiệc Cưới mà Thiên Chúa tổ chức cho Con Một Người là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã trở thành Chàng Rể kết hôn với Cô Dâu là Dân riêng mới của Thiên Chúa là cộng đoàn các Ki-tô hữu.
4°) Bánh và Nước nhắc đến ông Mô-sê là người đã được Thiên Chúa dùng trong cuộc Xuất Hành của dân Ít-ra-en. Ông Mô-sê đã can thiệp để Thiên Chúa ban man-na, chim cút và nước mát. Nay dân riêng mới của Thiên Chúa có Mô-sê mới là chính Thầy Giê-su: Thầy sẽ là người lãnh đạo dẫn đưa dân Ít-ra-en mới trong hành trình tiến về Vương Quốc của Thiên Chúa và Thầy sẽ nuôi dân bằng chính Thịt Máu của Thầy là Thánh Thể để mọi người có đủ sức mạnh tiến về Nhà Cha.
5°) Bánh Trường Sinh và Nước Hằng Sống chính là Bí Tích Thánh Thể, một Mầu Nhiệm khôn lường, một sáng tạo tuyệt vời của Thiên Chúa yêu thương và quyền năng. Trong Cựu Ước xưa thì Hòm Bia trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là sự hiện diện “hữu hình” của Thiên Chúa vô hình và siêu việt giữa lòng dân riêng là Ít-ra-en thì trong Tân Ước ngày nay, Thánh Thể là sự hiện điện “bí tích” của chính Đấng Thiên Chúa vô hình và siêu việt ấy giữa lòng dân riêng mới là cộng đoàn các Ki-tô hữu.
4.5 Chúng ta rút ra được những gì từ Mạc Khải Bánh Trường Sinh và hứa ban Nước Hằng Sống của Thầy Giê-su?

[Xem phần ứng dụng]
V. ỨNG DỤNG [SỐNG LINH ĐẠO]

- Từ Đề Tài IV là “Thầy Giê-su mạc khải là Bánh Trường Sinh và hứa ban Nước Hằng Sống” chúng ta có thể rút ra được những điều sau đây cho bản thân và cộng đoàn:

5.1 Điều thứ nhất là man-na, chim cút và nước mát Thiên Chúa ban cho dân Ít-ra-en trong hoang địa là hình bóng và sự chuẩn bị cho Thánh Thể mà Thầy Đức Giê-su ban cho dân Ít-ra-en mới trong thời cứu độ.

 Ý thức về căn tính của mình là dân riêng của Thiên Chúa, là Ít-ra-en mới, được dưỡng nuôi và bồi dưỡng bằng lương thực bởi Trời. Nên sống tâm tình biết ơn và cảm tạ.


5.2 Điều thứ hai Thánh Thể (thịt máu Đức Giê-su) là lương thực thiêng liêng Thiên Chúa ban cho các khách lữ hành trần gian trên hành trình về Đất Hứa là Quê Trời.

Với tâm tình biết ơn và phó thác siêng năng đón rước Thánh Thể là Thịt Máu Thầy Giê-su Ki-tô để có đủ sức mạnh chống trả cám dỗ, vượt qua mọi trở ngại trong cuộc chiến trần gian.


5.3 Điều thứ ba Thánh Thể là Tiệc Cưới của Con Chiên Đấng từ Trời xuống làm phu quân của nhân loại mới là cộng đoàn các Ki-tô hữu.

 Với lòng chung thủy và biết ơn, siêng năng đón rước Thánh Thể để được tham dự vào cuộc kết ước giữa Thiên Chúa và nhân loại.


5.4 Điều thứ bốn khi ban cho chúng ta Thịt và Máu mà man-na là hình bóng, Thầy Giê-su trở thành Mô-sê mới của dân riêng mới của Chúa.

 Tiến bước dưới sự hướng dẫn của Thầy Giê-su Ki-tô là Vị Lãnh Đạo mà Thiên Chúa Cha đã ban cho chúng ta.




VI. CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI V: THÀY GIÊ-SU MẠC KHẢI LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN [Câu chuyện anh chàng mù từ thưở mới sinh được Thầy Giê-su chữa lành (Ga 9)]

6.1 Câu hỏi gợi ý chia sẻ

Liên quan tới Đề Tài IV là “Thầy Giê-su mạc khải là Bánh Trường Sinh và hứa ban Nước Hằng Sống” anh/chị có gì (cảm nghiệm, nhận thức, quyết tâm, hành động, thắc mắc) để chia sẻ với giảng viên và các bạn học cùng lớp không? Nếu có, xin mời chia sẻ.



6.2 Câu hỏi gợi ý tìm tòi học hỏi Đề Tài V:

1°) Thầy Giê-su gặp anh chàng mù từ thuở mới sinh trong hoàn cảnh nào?

2°) Thầy Giê-su đã nói và làm gì cho con mắt thể lý của anh mù từ thuở mới sinh được sáng?

3°) Thầy Giê-su đã nói và làm gì để con mắt tâm linh của anh mù từ thuở mới sinh được thấy tức nhận ra Thầy là Ai?

4°) Thầy Giê-su được anh chàng mù từ thuở mới sinh vừa được Thầy chữa lành (cả về mặt thể lý cả về mặt tâm linh) đáp lại như thế nào?

5°) Chúng ta rút ra được những điều quan trọng nào từ câu chuyện anh chàng mù từ thuở mới sinh được Thầy Giê-su chữa lành (cả về mặt thể lý cả về mặt tâm linh)?
6.3 Sách Thánh cần đọc: Ga 9,1-41; 8,12



VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC

7.1 Gợi ý của người hướng dẫn

Chúng ta vừa học Đề Tài IV là “Thầy Giê-su mạc khải là Bánh Trường Sinh và hứa ban Nước Hằng Sống” mở ra cho chúng ta một chiều kích mới của đời sống Ki-tô hữu. Đó là Thiên Chúa đã trở nên lương thực thiêng liêng cho chúng ta. Không những người tin hữu không còn cô đơn trên hành trình trần gian mà còn được nâng đỡ và bổ dưỡng bằng sức mạnh của chính Thiên Chúa trong Thánh Thể. Chúng ta thật sự vinh dự được ăn Thịt và uống Máu Chiên Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, để có đủ sức chống trả và chiến thắng ba thù (ma quỉ, thế gian và xác thịt) và tiến vào Miền Đất Hứa.


7.2 Cùng cầu nguyện

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban Con Yêu Dấu của Cha cho chúng con. Người đã tự hiến làm Của Ăn Của Uống cho chúng con. Chúng con thật hạnh phúc và vững lòng vững dạ tiến bước. Chúng con cảm tạ Cha, ngợi khen Cha và chúc tụng Cha, trong Danh Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng con và trong Thánh Thần của Cha. Amen.


7.3 Cùng hát 

ĐỂ CHÚA ĐẾN

1. Xin cho lòng chúng con luôn mở rộng chờ mong Chúa đến. Xin cho lòng chúng con luôn thắm nồng một tình yêu mến. Xin cho lòng chúng con luôn khát khao luôn ước ao: một thế giới sướng vui dạt dào, một thế giới không còn khổ đau.

ĐK: Để Chúa đến trong cuộc đời. Để Chúa đến mang ơn trời, nguồn hạnh phúc cho con người, mùa cứu rỗi cho mọi nơi.

2. Xin cho lòng chúng con không oán hờn và không ghen ghét. Xin cho lòng chúng con luôn quảng đại và luôn tha thứ. Xin cho lòng chúng con yêu mến người yêu suốt đời. Chỉ biết sống hiến dâng phục vụ. Và hướng đến ân tình trời cao.

3. Xin cho lòng chúng con như máng cỏ tỏa nồng hơi ấm. Nên nơi Ngài máu thân khi xuống trần một đêm đơn vắng. Cho con được ủi an ai khóc than ai khó khăn. Giọt nước mắt sẽ nên nụ cười. Và tiếng hát vang dậy trời cao.


ĐỀ TÀI V

THÀY GIÊ-SU MẠC KHẢI

LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN

[Câu chuyện anh chàng mù từ thuở mới sinh

được Thầy Giê-su chữa lành (Ga 9)]



I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU

1.1 Gợi ý của người hướng dẫn

Hôm nay chúng ta học Đề Tài V là «Thầy Giê-su mạc khải là ánh sáng thế gian» qua một dấu lạ hết sức đặc biệt là Thầy đã làm cho anh chàng mù từ thưở mới sinh được sáng mắt. Anh chàng mù từ thưở mói sinh được sáng mắt không chỉ là sáng mắt về mặt thể lý để nhìn thấy vạn vật chung quanh mà anh còn được Thầy khai sáng về mặt tâm linh để nhận ra Thầy Giê-su là Đấng Thiên Sai với danh xưng là Con Người.

Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Thần Khí tác động trên tâm trí chúng ta để chúng ta được khai sáng về mặt tâm linh.
1.2 Cùng hát 

GIÊ-SU ÁNH SÁNG

Giê-su ơi, Ngài là ánh sáng.

Xin cho con được tan cháy trong Ngài.

Giê-su ơi Ngài là đường đi.

Xin cho con đồng hành với Chúa.

Xin cho con với Chúa vào đời,

để trần gian tràn ngập tiếng cười.

Xin cho con với Chúa vào đời,



để trần gian chan hòa niềm vui.

1.3 Lắng nghe Lời Chúa

[Chỉ nên đọc một ít câu của đoạn văn Tin Mừng sau đây]

1 Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. 2 Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" 3 Đức Giê-su trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. 4 Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian."

6 Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, 7 rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa" (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.

8 Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?" 9 Có người nói: "Chính hắn đó!" Kẻ khác lại rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!" 10 Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?" 11 Anh ta trả lời: "Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: 'Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa.' Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy." 12 Họ lại hỏi anh: "Ông ấy ở đâu?" Anh ta đáp: "Tôi không biết."

13 Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. 14 Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. 15 Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy." 16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. 17 Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"

18 Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. 19 Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?" 20 Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. 21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó ; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được." 22 Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. 23 Vì thế, cha mẹ anh mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó."

24 Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi." 25 Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!" 26 Họ mới nói với anh "Ông ấy đã làm gì cho anh ? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?" 27 Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?" 28 Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. 29 Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến." 30 Anh đáp: "Kể cũng lạ thật ! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! 31 Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. 32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. 33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì." 34 Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh.

35 Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" 36 Anh đáp: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?" 37 Đức Giê-su trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây." 38 Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin." Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.

39 Đức Giê-su nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!"

40 Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?" 41 Đức Giê-su bảo họ: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'Chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn!" (Ga 9,1-41).
1.4 Thinh lặng một phút để Lời Chúa thấm sâu vào tâm trí chúng ta.
1.5 Cầu nguyện 

Người hướng dẫn: Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ Cha vì Cha đã ban Con Một yêu dấu của Cha cho chúng con để Người mạc khải cho chúng con biết Người là ánh sáng thế gian, ánh sáng soi đường mở lối cho tất cả mọi lữ khách trên hành trình về Nhà Cha. Chúng con cám ơn Cha ngợi khen Cha!

Cộng đoàn: Chúng con cám ơn Cha ngợi khen Cha!
II. CHIA SẺ

Liên quan tới Đề Tài IV là “Thầy Giê-su mạc khải là Bánh Trường Sinh và hứa ban Nước Hằng Sống” anh/chị có gì (cảm nghiệm, nhận thức, quyết tâm, hành động, thắc mắc) để chia sẻ với giảng viên và các bạn học cùng lớp không? Nếu có, xin mời chia sẻ.


III. ĐẶT VẤN ĐỀ hay CÂU HỎI GỢI Ý SUY NGHĨ, TÌM TÒI

3.1 Thầy Giê-su gặp anh chàng mù từ thuở mới sinh trong hoàn cảnh nào?

3.2 Thầy Giê-su đã nói và làm gì để con mắt thể lý của anh mù từ thuở mới sinh được sáng?

3.3 Thầy Giê-su đã nói và làm gì để con mắt tâm linh của anh mù từ thuở mới sinh được thấy tức nhận ra Thầy là Ai?

3.4 Thầy Giê-su được anh chàng mù từ thuở mới sinh vừa được Thầy chữa lành (cả về mặt thể lý cả về mặt tâm linh) đáp lại như thế nào?

3.5 Chúng ta rút ra được những điều quan trọng nào từ câu truyện anh chàng mù từ thuở mới sinh được Thầy Giê-su chữa lành (cả về mặt thể lý cả về mặt tâm linh)?
IV. HỌC HỎI
Sách Thánh cần đọc: Ga 9,1-41; 8,12


4.1 Thầy Giê-su gặp anh chàng mù từ thuở mới sinh trong hoàn cảnh nào?

- Tin Mừng Gio-an chỉ viết một cách quá đỗi đơn sơ và hồn nhiên về hoàn cảnh Thầy Giê-su gặp anh chàng mù từ thuở mới sinh: “Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh.” (Ga 9,1).

Thầy Giê-su đi ngang qua chỗ anh chàng mù từ thuở mới sinh ngồi ăn xin trong hành lang đền thờ Giê-ru-sa-lem. Thầy nhìn thấy anh và vì cảm thông nỗi khổ của anh nên tự động ra tay cứu chữa anh, dù không có ai,- kể cả chính bản thân anh - xin Người chữa lành anh.

Để hiểu rõ bối cảnh của câu chuyện Ga 9,1-41 chúng ta phải đặt đoạn văn Thánh Kinh này vào trong bối cảnh rộng lớn hơn của Tin Mừng Gio-an: Đoạn văn Ga 9,1-41 thuộc về phần “các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Đức Giê-su (dịp các đại lễ Do-thái)” từ Ga 5,1 đến 10,42 với bố cục như sau:

B (5,1-47): Công việc Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, chữa người nằm liệt (vào một ngày sa-bát)

C (6,1-71): Dấu lạ nuôi năm ngàn người ăn no do bánh hằng sống (trước lễ Vượt Qua)

D (7,1–8,59): Đức Giê-su, nguồn nước hằng sống và ánh sáng cho trần gian (dịp lễ Lều)

D’(9,1-41): Hành vi ban khả năng nhìn cho một người mù nhờ ánh sáng của trần gian (vào một ngày sa-bát)

C’ (10,1-21): Các dụ ngôn về đàn chiên, cửa, việc trao ban mạng sống và người mục tử nhân lành

B’(10,22-42): Các công việc và chân tính của Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa (dịp lễ Cung hiến)

Từ đó, chúng ta hiểu rằng việc Thầy Giê-su chữa lành anh chàng mù từ thưở mới sinh là một hành động, một dấu lạ mà Thầy Giê-su thực hiện để mạc khải về mình, như lời khẳng định của Thầy: “Thầy là ánh sáng thế gian”

Chúng ta có thể nhận ra bẩy cuộc gặp gỡ trong truyện này:

1- Thầy Giê-su và anh mù (chữa mắt: c. 6);

2- Anh mù và láng giềng (c. 8);

3- Anh mù và người Pha-ri-sêu (c. 13);

4- Anh mù và người Do-thái và cha mẹ (c. 18);

5- Anh mù và người Do-thái (c. 24);

6- Thầy Giê-su và anh mù (tin: c. 35);

7- Thầy Giê-su và người Pha-ri-sêu (c. 40).


4.2 Thầy Giê-su đã nói gì và làm gì để con mắt (thể lý) của anh mù từ thưở mới sinh được sáng?

- Khi nhìn thấy người mù từ thuở mới sinh, các môn đệ Thầy Giê-su liền nêu thắc mắc: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2). Các ông hỏi thế vì theo quan niệm thông thường của người Do-thái thời bấy giờ thì mọi bệnh hoạn, tật nguyền của con người đều do tội mà ra.

Trước hết Thầy Giê-su đã không tán thành quan điểm sai lầm của người Do-thái đương thời và mở ra một cơ hội cho việc làm hay hành động chữa lành của Thiên Chúa: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (Ga 9,3-5).

Nói xong lời ấy Thầy Giê-su làm một việc mà chúng ta thấy là khó hiểu: “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù” rồi Người bảo anh mù từ thuở mới sinh:



"Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa" (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được?" (Ga 9,6-7).

Đối với chúng ta sống trong thế giới văn minh hiện đại, việc làm của Thầy Giê-su xem ra không hợp vệ sinh cho lắm. Nhưng thực ra, ở thời xưa cũng như thời nay, người ta luôn xem nước bọt có tính năng chữa bệnh… [khi đứt tay người ta đưa ngón tay bị đứt vào miệng để cầm máu]. Còn việc Thầy Giê-su trộn nước bọt với đất thành bùn rồi xức vào mắt anh mù hình như chỉ là để tạo cớ cho những người Pha-ri-sêu bắt bẻ tra vấn anh mù từ thưở mới sinh và gây sự với Thẩy Giê-su, vì Thầy làm việc ấy trong ngày sa-bát.


4.3 Thầy Giê-su đã nói gì và làm gì để mắt (tâm linh) anh mù được sáng?

- Sau khi làm cho mắt anh chàng mù từ thuở mới sinh được sáng, Thầy Giê-su như biến khỏi sân khấu. Nhưng thực ra Thầy vẫn quanh quẩn trong khu vực Đền Thờ và vẫn chú ý theo dõi các sự việc xẩy ra cho người vừa được chữa lành, vì Tin Mừng Gio-an chép rằng: “Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" Anh đáp: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?" Đức Giê-su trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây." Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin." Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. Đức Giê-su nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!" (Ga 9,35-39). Qua cuộc đối thoại không thể vắn gọn hơn, anh chàng mù từ thưở mới sinh được ơn nhận ra Thầy Giê-su là Con Người. Con Người là danh xưng mà Thầy Giê-su rất thích dùng để chỉ về mình, có nghĩa là một người như bao người khác, nhưng cũng hàm ý là con người thần bí của Da-ni-en. Chắc trong đầu của anh mù từ thưở mới sinh thì khi nghe Thầy Giê-su khẳng định là Con Người thì anh hình dung ra con người kỳ bí của sách Đa-ni-en. Vì thế mà anh sấp mình xuống trước mặt Người khi nói “Thưa Ngài tôi tin”

Thế có nghĩa là Thầy Giê-su đã mạc khải cho anh nhận ra chân dung đích thực của Người.

4.4 Thầy Giê-su được anh chàng mù vừa được Thầy chữa lành (cả về mặt thể lý cả về mặt tâm linh) đáp lại như thế nào?

- Trước anh chàng mù được chữa lành gặp lại Thầy Giê-su và được Thầy cho biết Thầy là Con Người và anh đã khẳng định lòng tin của mình vào Thầy thì anh đã ba lần khẳng định quan điểm của mình về Thầy Giê-su với những người láng giềng và nhất là những người Pha-ri-sêu:



* Lần thứ nhất anh mù từ thuở mới sinh vừa được Thầy Giê-su làm cho sáng mắt quả quyết với những người láng giềng nghi ngờ không biết anh có phải anh chàng mù mà họ biết trước kia không: “Chính tôi đây!"

Rồi khi được hỏi: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?" thì anh liền trả lời: "Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: 'Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa.' Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy."



* Lần thứ hai, khi bị những người Pha-ri-sêu tra vấn về việc sáng mắt, anh trả lời một cách trung thực: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy." Và anh không ngại lớn tiếng tuyên bố: "Người là một vị ngôn sứ!" khi các người Pha-ri-sêu hỏi anh: “anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?”

* Lần thứ ba anh mù từ thuở mới sinh vừa được Thầy Giê-su làm cho sáng mắt bị những người Pha-ri-sêu yêu cầu xác định thái độ của anh đối với người chữa lành anh, anh thẳng thắn nói với họ: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!"

Và khi được hỏi một lần nữa: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?" thì anh trả lời:



"Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?"

Sau cùng khi bị những người Pha-ri-sêu mắng nhiếc về câu trả lời của mình, anh mỉa mai quật lại họ:



"Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì."

Kết quả là những người Pha-ri-sêu lên án anh: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?" và trục xuất anh ra khỏi cộng đoàn.



tải về 2.31 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương