TỨ diệU ĐẾ NỀn tảng những lời phật dạY



tải về 0.78 Mb.
trang25/25
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.78 Mb.
#19379
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25
). (ND)
 
[49] Thuật ngữ “karma” xuất phát từ chữ Phạn “karman”, nghĩa là “hành vi”. Nó có ba ý nghĩa chính trong triết học Ấn Độ. Thứ nhất karma là hành động nghi lễ, đúng hơn là tế thần, trong buổi đầu của triết lý Vedas (Phệ-đà) và Mimasa (Di-mạn-sai). Thứ nhì, karma được hiểu như là một phạm trù đặc biệt của hành vi người, đó là hành vi ô uế và bị giới hạn, nghĩa này tìm thấy trong Samkhya Yoga (một trường phái tiền Yoga), Advaita (Bất nhị phái), Bhagavad Gita (một bản trường ca có tính triết lý cổ Ấn Độ) và Phật giáo. Ý nghĩa sau cùng, karma không là một hành vi mà là một lý thuyết về hành vi, đặc biệt lý thuyết về hành vi như là nguyên nhân quyết định. Ở đây đức Đạt-lai Lạt-ma đang nói đến ý nghĩa thứ ba này.
 
[50] Ba loại hành vi đề cập ở đây tạo thành ba loại nghiệp báo khác nhau, thường được kinh điển nhắc đến như là thiện nghiệp, bất thiện nghiệp và vô ký nghiệp. (ND)
 
[51] Loại hành vi tinh thần ở đây chỉ cho các ý tưởng, tư tưởng chưa biểu lộ ra hành động, chúng tạo thành ý nghiệp. Loại hành vi vật thể bao gồm các hành động cụ thể và lời nói, tạo thành thân nghiệp và khẩu nghiệp. (ND)
 
[52] Tức những hành vi được thực hiện không có tác ý, vì thế không tạo thành nghiệp. (ND)
 
[53] Tức các hành vi tinh thần như đã nói ở trước. (ND)
 
[54] Ở đây bao gồm cả thiện nghiệp và bất thiện nghiệp (ND).
 
[55] Tức các hành vi tinh thần (không được thực hiện) thuộc loại không tác ý, chẳng hạn như các ý tưởng không thuộc về thiện c?ng không phải bất thiện.
 
[56] Khái niệm “trộm cắp” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ chung tất cả mọi hình thức chiếm đoạt tài sản khi không được sự cho phép của chủ sở hữu. (ND)
 
[57] Khái niệm “tà dâm” chỉ chung cho mọi hành vi quan hệ tình dục bất chính, với những người không phải là vợ hay chồng mình. (ND)
 
[58] Để có sự giải thích chi tiết và trọn vẹn hơn, xin xem thêm “Con đường đến tự do vô thượng” chương 7 “Nghiệp”. Tác giả: Đạt-lai Lạt-ma. (http://www.thuvienhoasen.org/conduongdentudovothuong-07.htm).
 
[59] Nguyên bản Phạn ngữ Chatuhshatakashastrakarika (Trung đạo Tứ bách kệ tụng) chương 8, kệ số 15.
 
[60] Trong phần trước cũng có nhắc đến việc hư không được thêm vào với tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Như vậy, trong 5 yếu tố cấu thành vạn vật có cả yếu tố không gian. (ND)
 
[61] Theo vũ trụ quan Phật giáo, mọi thế giới đều trải qua các giai đoạn: thành, trụ, hoại, không (hay diệt). Vì các chu kỳ này xoay tròn nối tiếp không ngừng, nên giai đoạn “không” cũng chính là khởi điểm của giai đoạn “thành” tiếp theo sau đó. (ND)
 
[62] Mặc dù nhận thức những khổ đau trong kiếp người, Phật giáo vẫn cho rằng được sinh làm người là kết quả của các thiện nghiệp, vì đời sống con người có rất nhiều sự thuận lợi hơn cho việc tu tập Chánh pháp so với các loài hữu tình khác. (ND)
 
[63] Xem phần phụ lục 2 ở cuối sách, dịch từ luận văn “Buddhist Reflections” (http://www.alanwallace.org/BuddhistRefls.pdf) trích trong tác phẩm Consciousness at the Crossroads: Conversations with the Dalai Lama on Brain Science and Buddhism. Snow Lion, Ithaca, New York, 1999. của B Alan Wallace, Zara Houshmand, và Robert Livingston. Tứ diệu đế
 
[64] Về các nguyên lý lập luận được trình bày ở đây, có thể hiểu rằng: Nguyên lý phụ thuộc chỉ ra sự phụ thuộc của hiện tượng cấu hợp vào các nguyên nhân của chúng, chẳng hạn như sự phụ thuộc của thị giác vào thần kinh thị giác; nguyên lý này cũng gắn liền với sự phụ thuộc của kiểu hiện tượng bất kì vào chính các bộ phận và đặc tính của nó, hay vào các thực thể khác, như là trong sự phụ thuộc của “lên” với “xuống” và “cha mẹ” với “con cái”. Nguyên lý về năng lực liên hệ tới hiệu quả nguyên nhân của hiện tượng đặc trưng, như là khả năng của một hạt bắp tạo ra một cây bắp. Nguyên lý chứng minh hợp lý có ba ý nghĩa đối với việc xác lập sự tồn tại của bất kì vật nào - đó là: trực tiếp nhận thức, suy đoán vững chắc, và tri kiến dựa trên chứng cứ, mà tùy theo ba tầng phân lớp có tính tri thức học, ngoại trừ đặc tính bản thể. Nguyên lý về bản chất chỉ tới bản chất của hiện tượng, biểu thị các đặc tính riêng và chung. Chẳng hạn, một đặc tính riêng của sự nóng là tính chất nóng và một đặc tính chung của nó là không thường hằng. Đức Dalai Lama trích dẫn các thí dụ về nguyên lý này như sự thật cơ thể là sự kết hợp của các hạt tử vật chất và sự thật bản chất của tâm thức là sự sáng tỏ và nhận biết đơn thuần. Những sự thật này được chấp nhận một cách đơn giản ở mức giá trị bề mặt: chúng không được giải thích qua việc truy tìm các nguyên nhân của cơ thể và tâm thức hay hiệu quả nguyên nhân của chúng. (ND)
 
[65] Xem chi tiết trong chương 3 và 4, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận của Bồ Tát Thế Thân (Vasubandhu).
 
[66] Xem thảo luận chi tiết hơn về đề tài này của đức Dalai Lama trong cuộc đối thoại với David Bohm trong sách “Dialogues with Scientists and Sage: The search for Unity”, Renée Weber hiệu đính, Routledge and Kegan Paul, London, 1986.
 
[67] Trung quán Y tự khởi (Svat?ntrika) đôi khi cũng được dịch là Độc lập biện chứng phái hay Tự lập luận chứng phái. (ND)
 
[68] Mạn-đà-la: Xin xem thêm bài viết về Mandala (http://vietsciences.free.fr/timhieu/trietly-giaoduc/mandala800.htm).
 
[69] Tập khí, dịch từ Phạn ngữ là v?san?; chỉ những thói quen, cách ứng xử được huân tập từ lâu ngày, hoặc thậm chí là lâu đời, tạo thành những khuynh hướng nhất định thúc giục ta luôn hành động theo cách phù hợp với khuynh hướng đó. Tập khí được huân tập ngay trong đời sống hiện tại gọi là “biệt tập khí”, chẳng hạn như một người sống trong quyền thế lâu ngày dễ có thói quen xem thường người khác và tự cao, ngã mạn... Tập khí sâu xa và vi tế hơn, được huân tập từ nhiều kiếp sống trước đây được gọi là “thông tập khí”.
 
[70] Thường gọi là “khổ khổ”. Xem lại phần nói về ba loại khổ.
 
[71] Định: dịch từ nguyên ngữ samādhi trong tiếng Phạn. Cũng phiên âm là tam-muội hay tam-ma-đề. Ở đây chỉ trạng thái tập trung tâm ý. Khái niệm tam-muội hay định trong Phật giáo được hiểu rộng hơn vì hướng đến một trạng thái định có chủ đích, và thường được sử dụng như một phương tiện kết hợp với các pháp tu khác, nên gọi đủ là chánh định.
 
[72]Xem thêm tác phẩm A-tì-đạt-ma Câu-xá luận, bản dịch của Tuệ Sĩ (http://www.phatviet.com/dichtht/luan/ln01/cxl.htm).
 
[73] Tức là thân nghiệp. (ND)
 
[74] Tức là ý nghiệp. (ND)
 
[75] Thuật ngữ Niết-bàn (涅槃) được phiên âm từ Phạn ngữ, trong tiếng Sanskrit là nirvāṇa và tiếng Pāli laø nibbāna, nên cũng nói đủ là Niết-bàn-na (涅槃那), có thể dịch nghĩa là tịch diệt hay tịch tĩnh. Nhưng vì khái niệm Niết-bàn là rất rộng và được hiểu có phần khác nhau ở mỗi trường phái, nên hầu hết các kinh văn trong Hán tạng đều hạn chế việc dịch nghĩa từ này mà chỉ dùng trực tiếp cách phiên âm là Niết-bàn. (ND)
 
[76] Thuật ngữ giải thoát (解脫) được dịch nghĩa từ Phạn ngữ mok?a, phiên âm là mộc-xoa (木叉). Vì thế, trong nguyên tác dùng cả 2 cách viết mok?a và liberation (giải thoát) với nghĩa như nhau. (ND)
 
[77] Thuật ngữ diệt (滅) được dịch từ Phạn ngữ nirodha, phiên âm là ni-lâu-đà (尼樓陀). Vì thế, nguyên tác dùng cả 2 cách viết nirodha và cessation (diệt) với nghĩa như nhau. (ND)
 
[78] Một ý nghĩa tương tự có thể thấy trong Thiền tông.  Quan điểm chứng ngộ không dựa vào kinh điển được biết đến bởi bốn câu được xem là của Bồ-đề Đạt-ma, Sơ tổ Thiền tông Trung Hoa: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật.” (ND)
 
[79] Thuật ngữ Phật giáo gọi loại hiện tượng này là hiện lượng. (ND)
 
[80] Dạng thứ ba của hiện tượng là các « hiện tượng bí ẩn » , vượt quá tầm của nhận thức trực tiếp và suy luận logic thông thường. Nói chung, chúng chỉ có thể được thiết lập dựa trên sự xác quyết của một người khác hay thông qua sự tin cậy vào kinh điển
 
[81] Tên Phạn ngữ của bộ luận này là Abhisamayālaṃkāra-śāstra.
 
[82] Đây là quan điểm cụ thể của các trường phái Thanh văn, đặc biệt là của Tì-bà-sa luận bộ hay Nhất thiết hữu bộ, và Kinh lượng bộ.
 
[83] Ở đây chỉ thế giới được nhận thức theo tục đế, nghĩa là theo những quy ước được nhận biết trong đời sống thường ngày; phân biệt với thế giới được nhận thức theo chân đế, nghĩa là dựa trên bản chất tuyệt đối của hết thảy mọi sự vật, hiện tượng. (ND)
 
[84] Chương 24,bài kệ thứ 18.
 
[85] Tức là được sinh khởi một cách phụ thuộc vào các nhân duyên khác. (ND)
 
[86] Phật Hộ (Buddhapālita): luận sư danh tiếng người Ấn Độ, là người khai sáng Quy mậu luận chứng phái, niên đại được phỏng chừng trong khoảng năm 470 đến 540. Ngài là đệ tử của ngài Long Hữu, sau theo học giáo lý Trung quán của ngài Long Thụ đạt đến chỗ uyên áo. Ngài trước tác sách “Phật Hộ Căn bản Trung luận chú” (佛護根本中論注), cho đến gần đây vẫn còn thấy bản dịch tiếng Tây Tạng. (ND)
 
[87] Xem thêm chi tiết mô tả trong bài “Khoa Học và Phật Giáo: Trước Ngã Tư Đường”. GS. Trịnh Xuân Thuận . Thư Viện Hoa Sen http://www.thuvienhoasen.org/khoahocvaphatgiao-txthuan.htm. (ND)
 
[88] Tức là xét trong thế giới nhận thức theo tục đế.
 
[89] Ở đây chỉ học thuyết Trung quán được ngài Long Thụ trình bày trong bộ Trung luận.
 
[90] tự hữu: trong sách này dùng để chỉ bản chất tự tồn, không phụ thuộc hay có thuộc tính tự tồn không phụ thuộc
 
[91] Đức Dalai Lama muốn nói đến bài “Xưng tụng lưới duyên khởi” (sPal mar bstod pa), là bài kệ viết về tác phẩm nổi tiếng “Xưng tụng đức Phật và giáo pháp Duyên khởi (rTen 'brel bstod pa) của ngài Tsongkhapa. Ngài Lodr? Gyatso là một vị đại sư sống vào cuối thế kỷ 19 ở Amdo, thuộc phái Cách-lỗ, thường được biết đến nhiều hơn với danh xưng là Chone Lama Rinpoche.
 
[92] Thanh Biện (Bhāvaviveka), dịch âm là Bà-tỳ-phệ-già (婆毘吠伽) hay Bà-tỳ-tiết-ca (婆毘薛迦), dịch nghĩa là Thanh Biện hay Minh Biện, cũng dịch là Phân Biệt Minh . Ngài là một đại luận sư của phái Trung quán, sống vào khoảng thế kỷ 6, người miền Nam Ấn Độ. Các trước thuật của ngài chủ yếu có Đại thừa chưởng trân luận (2 quyển), Bát-nhã đăng luận thích (15 quyển). Ngoài ra còn có Trung quán tâm luận tụng được truyền vào Tây Tạng. (ND)
 
[93] Nguyên tác dùng chữ consequentialist, dùng chính lập luận của đối phương để chỉ ra chỗ không vững chắc của lập luận đó chỉ đến quan điểm cho rằng việc đánh giá một hành vi chỉ hoàn toàn dựa vào kết quả của hành vi đó. Quan điểm này cũng thường được diễn đạt là “mục đích biện minh cho phương tiện”, bởi vì những người theo quan điểm này cho rằng chỉ cần đạt đến một kết quả tốt đẹp thì cho dù có hành động theo cách nào cũng không quan trọng. Tất nhiên đây là một quan điểm có phần cực đoan, nên chỉ được đưa ra để so sánh phần tương đồng (sự nhấn mạnh vào kết quả) chứ hoàn toàn không có nghĩa cho rằng phương pháp luận của Cụ duyên phái thuộc loại này.
 
[94] Trong nguyên tác dùng thuật ngữ “reductio ad absurdum” để so sánh với phương pháp lập luận mang tên này. Trong kinh luận Hán văn dùng một từ có nghĩa tương đương là quy mậu (歸謬), nghĩa là hướng đến những điểm sai lầm, ở đây là sai lầm trong quan điểm của đối phương. Chính vì thế mà phái này thường được gọi là Quy mậu luận chứng phái (歸謬論證派). (ND)
 
[95] Tam đoạn luận: phương pháp biện luận bao gồm ba luận đề. Người lập luận căn cứ vào sự xác thật và tương đồng nhất định của hai luận đề đã có để đưa ra một kết luận bằng luận đề thứ ba. Ví dụ: 1. Con người ai cũng sẽ chết; 2. Ông B là con người; (2 luận đề xác thật và tương đồng) 3. Vậy ông B cũng sẽ chết. Cơ sở của phương pháp này là: Vì 2 luận đề đã nêu trước là xác thật nên kết luận được rút ra từ đó cũng xác thật.

[96] Phật giáo phân biệt hai cấp độ của sự hiểu biết. Sự hiểu biết dựa vào suy luận, so sánh và phân biệt các khái niệm (trí tuệ tương đối hay thế trí) và sự hiểu biết dựa vào trí tuệ giác ngộ hay trực giác giải thoát, không thông qua bất kỳ hình thức suy luận hay phán đoán, so sánh nào (trí tuệ tuyệt đối hay xuất thế trí). Cấp độ hiểu biết dựa vào lý trí có sự giới hạn nhất định của nó, bởi vì bản thân những tiền đề mà nó dựa vào đã không phải là những chân lý tuyệt đối. Mặc dù vậy, đây chính là phương tiện đầu tiên mà người tu học phải dựa vào để có thể bước đi trên con đường hướng đến sự giải thoát rốt ráo.


 
[97] Khả năng nhận biết đơn thuần: tức trí huệ vô phân biệt. (ND)
 
[98] Trong sách “Niệm ân Đức Phật” của Susanta Nguyễn () giải thích bốn đặc điểm của giải thoát như sau: 1. Có năng lực làm cho thoát khỏi phiền não (sự khổ) và ra khỏi tam giới (Nissaranattho); 2. Có trạng thái yên tĩnh lánh xa sự khổ (Vivekattho); 3.- Có trạng thái không cho nguyên nhân tạo thành được (vô sanh) (Asankhatattho); 4.  Có trạng thái không chết, bất diệt (Amatattho). (ND)
 
[99] Xem giải thích về các giai đoạn trên con đường tu tập của Bồ Tát trong kinh Thập địa (Dasabhumika Sutra). Nói chung, có 10 giai đoạn hay 10 địa vị lần lượt được đạt đến trên đường tu tập là: 1 Phát tâm trụ (發心住); 2. Trị địa trụ (治地住); 3. Tu hành trụ (修行住); 4. Sanh quý trụ (生貴住); 5. Phöông tieän cuï tuùc truï (方便具足住); 6. Chánh tâm trụ (正心住); 7. Bất thối trụ (不退住 ); 8. Đồng chân trụ (童眞住); 9. Pháp vương tử trụ (法王子住); 10. Quán đảnh trụ (灌頂住).
 
[100] Có 5 giai đọan tu tập theo Kim Cương thừa đó là : Tích lũy (accumulation), Chuẩn bị (preparation), Tri Kiến (seeing) , Thiền Định (meditation), và Vô học (No more learning). Có sách còn dịch là: Tích Lũy, Gia Hành, Kiến, Tu Tập, vô Lậu Học
 
[101] Sự phát khởi tâm nguyện chân thật hướng đến việc thành tựu quả Phật thường được biết đến hơn với thuật ngữ “phát tâm Bồ-đề”, và được xem là khởi điểm cũng như yêu cầu tất yếu của việc thực hành Bồ Tát đạo. (ND)
 
[102] Trong truyền thống Ấn, con đường tu tập theo đạo Phật được trình bày tổng quát trong Bát chánh đạo, bao gồm  chánh kiến,  chánh tư duy,  chánh ngữ,  chánh nghiệp,  chánh mạng,  chánh tinh tấn,  chánh niệm và chánh định. Truyền thống Tây Tạng mô tả con đường tu tập theo Phật gồm Năm giai đoạn:  giai đoạn tích lũy, giai đoạn nối kết, giai đoạn nhìn thấu, giai đoạn thiền định, và giai đoạn không còn gì để học. Theo cách phân chia này thì Bát chánh đạo được bao gồm trong giai đoạn thiền định.
 
[103] Tuệ giác hay trí tuệ, dịch từ Phạn ngữ là Prajñā, nhưng theo nguyên tắc “ngũ chủng bất phiên” (5 trường hợp không chuyển dịch) của ngài Huyền Trang thì nghĩa của từ này không thể chuyển dịch trọn vẹn (vì quá rộng), nên trong các kinh điển Đại thừa thường dùng cách phiên âm là Bát-nhã. Ba pháp tu tập trình bày ở đây thường được biết nhiều hơn với tên gọi là Tam vô lậu học, gồm có giới học, định học và tuệ học.
 
[104] Nguyên bản Phạn ngữ là Bodhicaryāvatāra, tác giả là ngài Śāntideva (Tịch Thiên), sống vào khoảng thế kỷ 7 - 8. Bản dịch Hán ngữ có tên là Bồ-đề hành kinh (菩提行經), do ngài Thiên Tức Tai dịch vào đời Tống (Đại chánh tạng quyển 32, kinh số 1662). Gần đây lại có bản dịch Hán ngữ của Trần Ngọc Giao và bản dịch Việt ngữ của Thích Nữ Trí Hải, đều lấy tựa đề là Nhập Bồ Tát hạnh. Bản dịch tiếng Tây Tạng có tựa đề Byaṅ-chub-sems-dpaḥispyod-pa-la ḥjug-pa. Ngoài ra, sách này còn được dịch sang các ngôn ngữ khác như Mông Cổ, Pháp, Đức, Nhật... (ND) 
 
[105] Tantra: với nghĩa của một bộ phái có thể dịch là Mật tông, nếu trong giáo nghĩa thì có sách dịch là Mật điển. (ND)
 
[106] Trong Kim Cương thừa các hình tượng này thường là những biểu tượng của các vi phật hay bồ tát như là A-di-đà, Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi, Đại Nhật, Bảo Sinh, ... (ND)
 
[107] Gelug, hay Gelugpa, một trong các tông phái chính của Phật giáo Tây Tạng, được phiên âm là Cách-lỗ. Phái này do chính ngài Tsongkhapa (1357-1419) sáng lập. Vị đại sư này thường được biết đến với tên phiên âm là Tông-khách-ba. (ND)
 
[108] Śākya, được phiên âm là Tát-ca. Tên gọi ??kya được đặt theo tên tự viện chính của phái này là Sakya, thành lập vào năm 1073. (ND)
 
[109] Kagyu, được phiên âm là Ca-nhĩ-cư, do ngài Marpa Lotsawa (1012-1097) sáng lập, và là một trong các tông phái lớn nổi tiếng của Tây Tạng, với sự truyền thừa qua hình thức tái sinh của các vị Karmapa (Cát-mã-ba). Vị Karmapa thứ nhất là Düsum Khyenpa (1110-1193) được tin là đã liên tục tái sinh qua 16 lần, nay là vị Karmapa thứ 17 mang tên Urgyen Trinley Dorje, sinh năm 1985 và hiện vẫn đang giữ cương vị đứng đầu phái này. (ND)
 
[110] Kriya tantra được dịch sang Anh ngữ là Action tantra, mang nghĩa là Mật điển Hành động. Carya tantra được dịch sang Anh ngữ là Performance tantra, theo Thích Trí Hải dịch là Mật điển thiên về tư duy. Chữ Yoga được phiên âm thành Du-già; và Highest Yoga tantra được dịch là Tối thượng Du-già tantra (Anuttarayogatantra). (ND)
 
[111] Nhập Bồ-đề hành luận của Tịch Thiên (Shantideva), chương X (Hồi hướng), thi kệ số 55.
 
[112] Nội dung cuộc hội thảo này được ghi lại trong tập sách Consciousness at the Crossroads, do Snow Lion Publications (Ithaca, New York) ấn hành. Phần phụ lục này là chương thứ 15, cũng là chương cuối cùng của tập sách, được chúng tôi chuyển dịch sang Việt ngữ với sự cho phép chính thức của Tiến sĩ B. Alan Wallace. (ND)
 
[113] Đây là một loạt hội thảo với cùng chủ đề chính là Tâm thức và đời sống (Mind and Life) và cùng có sự tham dự của các nhà khoa học hàng đầu thế giới về các chuyên ngành liên quan như Tâm lý học, Thần kinh học..., cùng với các nhà Phật học mà đại diện là đức Dalai Latma và các vị Lạt-ma cao cấp khác. Cuộc hội thảo đầu tiên trong loạt này được tổ chức vào tháng 10 năm 1987, lần thứ 2 vào tháng 10 năm 1989, lần thứ 3 vào năm 1991, lần thứ 4 vào năm 1993. Nội dung các cuộc hội thảo này được được ghi lại thành sách và đã phát hành vão những năm sau đó. Quý vị có thể tìm đọc các bản Anh ngữ với nhan đề: Gentle Bridges: Conversations with the Dalai Latma, Consciousness at the Crossroads, Healing Emotions, Sleeping, Dreaming and Dying. (ND)
 
[114] René Descartes (1596 - 1650), một triết gia và là nhà toán hocï lỗài lạc người Pháp. Ông được xem là cha đẻ của bộ môn Hình học giải tích hiện đại đoồng thời là người chủ trương quan điểm triết học nhi nguyên cho răng bên cạnh vật chất thì tâm thức là loại vật thể phi vật lý tự thấy biết (self awareness) (ND.
 
[115] Điều này không phủ nhận việc trên bình diện tương đối hay theo truyền thống Trung quán tông quả thật có thừa nhận sự phân cách giữa các hiện tượng tinh thần và vật chất. Tuy nhiên, theo quan điểm của Phật giáo Mật tông được chấp nhận bởi đức Đạt-lai Lạt-ma và hầu hết các nhà Phật học Tây Tạng khác, thì sự phân cách này không rõ rệt như sự phân cách giữa các thực thể hữu tình và vô tình. Điều này là do tất cả các sự kiện tinh thần về cơ bản đều sinh khởi từ “năng lượng cực vi tế của tâm thức” (tiếng Tây Tạng là shin tu phra ba'i rlung sems), vốn là một thực thể nguyên sơ gồm đủ các tính chất vật lý và nhận thức. Thế giới vật thể cũng được cho là sự biểu hiện sáng tạo (Tiếng Tây Tạng là rtsal or rol pa) của cùng một năng lượng tâm thức này. Vì thế, theo Kim cương thừa thì sự khác biệt ước lệ giữa tâm thức và vật chất chính là dựa trên một sự thống nhất về cơ bản.
 
[116] Richard P. Feynman (1918-1988), nhà vật lý người Mỹ, đoạt giải Nobel Vật lý vào năm 1965 Nobel cùng với một người Mỹ khác là Julian S. Schwinger và một người Nhật là Tomonaga Shin'ichiro. (ND)
 
[117] Xem The Feynman Lectures on Physics (Reading, Mass.: Addison-Wesley, 1963), trang 42, tác giả R. P. Feynman, R. B. Leighton và M. Sands.

[118] Sư chuyển hóa giữa khối lượng và năng lượng được nhà vật lý lỗi lạc Albert Einstein (1879 - 1955) mô tả trong thuyết tương đối hẹp của ông E = mc2. Trong đó, E là năng lượng m là khối lượng và c là hằng số vận tốc ánh sáng. Nguyên lý này là tiền đề cho việc tạo ra bom nguyên tử cũng như các nhà máy điện nguyên tử ngày nay.


 
[119] Xem Conscious Mind in the Physical World (Bristol: Adam Hilger, 1990), trang 22, tác giả Euan Squires.
 
[120] Isaac Newton (1642-1727), người Anh, là nhà vật lý, toán học và triết học tự nhiên, là một trong các nhà khoa học vĩ đại nhất.  Ông đặt nền tảng cho cơ học và giải tích toán học cổ điển. Định luật hấp dẫn được ông tìm ra vẩn có giá trị trong vật lý hiện đại cho rằng hai vật thể vất kì sẽ hút nhau 1 lực tỉ lệ thuận với khối lượng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng  (ND)
 
[121] Albert A. Michelson (1852-1931), nhà vật lý người Mỹ gốc Đức, đoạt giải Nobel Vật lý năm 1907. (ND)
 
[122] Tiến sĩ Alan Wallace đã khảo sát toàn diện chủ đề này từ quan điểm Phật giáo trong sách Choosing Reality: A Buddhist View of Physics and the Mind. (Ithaca, Snow Lion, 1996).
 
[123] Nhãn thức: năng lực nhận biết hình sắc. Phật giáo quan niệm có những năng lực nhận biết khác nhau đối với các đối tượng khách quan, như nhãn thức là năng lực nhận biết hình sắc, nhĩ thức là năng lực nhận biết âm thanh... cùng với tỉ thức (nhận biết mùi hương), thiệt thức (nhận biết vị nếm), thân thức (nhận biết sự xúc chạm) và ý thức (nhận biết các tư tưởng) tạo thành sáu thức (Lục thức), tương ứng với sáu trần (Lục trần) là 6 đối tượng khách quan vừa kể. (ND)
 
[124] Thời kỳ Cách mạng Khoa học (Scientific Revolution): giai đoạn được xác định vào khoảng năm 1500 đến 1700, là thời kỳ các nền tảng khoa học hiện đại được thiết lập ở Tây Âu. (ND)
 
[125] William James (1842-1910), triết gia người Mỹ và là nhà tâm lý học, người đã phát triển triết lý của chủ nghĩa thực nghiệm. (ND)
 
[126] Xem “The Perception of Reality” trong sách The Principles of Psychology (New York: Dover Publications, 1950) của William James, trang 290-291.
 
[127] Về cơ bản, Phật giáo không cho rằng “chết là hết”. Vì thế, cái chết mà chúng ta nhìn thấy được chỉ được xem là cái chết của thân xác, hay cái chết về mặt sinh học mà thôi. (ND)
 
[128] Các phương thức này được bàn đến một cách chi tiết trong tác phẩm The Bridge of Quiescense Experiencing Tibetan Buddhist Meditation (Chicago: Open Court, 1997) của B. Alan Wallace.
 
[129] Clifford Geertz, nhà nhân chủng học người Mỹ, sinh năm 1926 và mất năm 2006. Ông đã có những đóng góp quan trọng mang tính cách mạng về quan điểm trong ngành học này vào những năm 70 của thế kỷ trước. (ND)
 
[130] Robert Livingston: đồng tác giả của tác phẩm Consciousness at the Crossroads, biên soạn cùng với tiến sĩ B. Alan Wallace.
 
[131] Câu này thường được trích dẫn trong kinh văn Tây Tạng, được trích từ bản sớ giải Vimalaprabhā về Kālacakra, mặc dù nó cũng thấy xuất hiện trong Kinh tạng Pali. Phần tiếng Sanskrit được trích dẫn trong Tattvasaṃgraha, do D. Shastri biên tập (Vārāṇasī: Bauddhabharari, 1968), k. 3587.
 
[132] Xem lại phần Nghiệp và thế giới tự nhiên. (ND)

[133] Đức Dalai Latma đề cập đến 4 nguyên tắc này đầy đủ hơn trong tác phẩm The World of Tibetan Buddhism (Boston: Wisdom, 1995), trang 47-49, nhưng chúng còn được thảo luận chi tiết hơn nữa trong bài luận văn của Matthew Kapstein: “Mi-pham's Theory of Interpretation”, trong tác phẩm Buddhist Hermeneutics, được biên tập bởi Donald S. Lopez, Jr. (Honolulu: University of Hawaii Press, 1988), trang 152-161.


 
[134] Thuật ngữ Phật học gọi là các căn, bao gồm 6 căn (lục căn) là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý (nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn).
 
[135] Thuật ngữ Phật học gọi là các trần, bao gồm 6 trần (lục trần) là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm và các ý tưởng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
 
HẾT

tải về 0.78 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương