2.1.3 So sánh giữ kế toán quản trị và kế toán tài chính
2.1.3.1 Mối liên hệ giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính
- Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều
nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm
đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn.
- Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số
liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ chứng từ
13
gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát, một bên phản ánh thông tin chi tiết.
- Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.
2.1.3.2 Sự khác nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính
a. Mục đích
- Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh. - Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ
cho việc lập các báo cáo tài chính.
b. Đối tượng phục vụ:
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh
nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc)
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh
nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ
quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)
c. Đặc điểm của thông tin:
- Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu,
thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít
chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động,
có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và
xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá
trị và hình thái hiện vật. Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của
vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư.
- Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính
khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình
thái giá trị.
14
d. Nguyên tắc cung cấp thông tin:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền
quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.
- Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và
được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính
thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người
có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và
kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt
là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc
công bố những số liệu mang tính bắt buộc.
e. Phạm vi của thông tin:
- Phạm vi thông tin của kế toán quản trị liên quan đến việc quản lý trên từng
bộ phận (phân xưởng, phòng ban) cho đến từng cá nhân có liên quan.
- Phạm vi thông tin của kế toán tài chính liên quan đến việc quản lý tài chính
trên quy mô toàn doanh nghiệp.
f. Kỳ báo cáo:
- Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày. -
Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm
g. Quan hệ với các môn khoa học khác:
Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác. Do thông tin
kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài
việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản
trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như:
Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư
để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.
15
h. Tính bắt buộc theo luật định:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.
- Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định. Kế toán tài chính có tính
bắt buộc theo luật định có nghĩa là sổ sách báo cáo của kế toán tài chính ở
mọi doanh nghiệp đều phải bắt buộc thống nhất, nếu không đúng hoặc không
hạch toán đúng chế độ thì báo cáo đó sẽ không được chấp nhận (tham khảo
thêm về luật kế toán vừa ban hành).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |