TỪ chỉ VỊ trí trong tiếng nhật và tiếng việT


VÞ TRÝ CñA TIÕNG BIH TRONG C¸C NG¤N NG÷ NHãM CH¡M



tải về 2.37 Mb.
trang17/19
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích2.37 Mb.
#25593
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19



VÞ TRÝ CñA TIÕNG BIH
TRONG C¸C NG¤N NG÷ NHãM CH¡M

P



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIÓU BAN NG¤N NG÷ Vµ TIÕNG VIÖT






GS.TS Đoàn Văn Phúc*


1. Mở đầu

1.1. Từ trước đến nay, khi bàn về số lượng, thành phần các ngôn ngữ trong nhóm Chăm (Chamic group), cũng như việc phân chia, sắp xếp tiếng nói của những cộng đồng cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ này, thường có hai loại ý kiến:
1) Đa số các nhà nghiên cứu về cơ bản thống nhất với nhau rằng nhóm Chăm gồm có ít nhất 5 ngôn ngữ: Chăm, Raglai, Chru, Giarai, Êđê. 2) Tuy nhiên cũng có những người không đồng tình với ý kiến như vậy. Họ coi nhóm Chăm gồm ít nhất 6 ngôn ngữ: Chàm (Chăm), Raglai, Chru, Giarai, Êđê, và Bih (Rơmah Del, Trương Văn Sinh, 1974). Gorys Keraf - một nhà ngôn ngữ học Indonesia trong cuốn Linguistik Bandingan Historis (Ngôn ngữ học so sánh lịch sử, 1996) - đã đưa ra những quan niệm hơi khác lạ về số lượng, thành phần các ngôn ngữ Chăm. Ông cho rằng các ngôn ngữ Chăm ít nhất gồm 5 ngôn ngữ: 1- Cham (bao gồm Cham và Churu); 2- Raglai; 3- Jarai (bao gồm Giarai, Hơbau, Hơdrong, Arap); 4- Ngôn ngữ pha trộn Jarai-Rade (bao gồm các nhóm: Chur, Krung, Mdhur, Blao - Blô); 5 - Rade ('Ede) bao gồm ít nhất tiếng nói của 9 nhóm Kpa, Atham, Dle Rue, Ktul, Kadung, Drau, Mun, Bi (Pi), Relam (Rlam). Gần đây, Graham Thurgood (1998) cho rằng có lẽ cần phải coi tiếng Chăm Hroi là một ngôn ngữ riêng.

Tiếng Êđê hiện nay bao gồm tiếng nói của những cộng đồng người nào thì ý kiến của các nhà nghiên cứu cũng không giống nhau, nhất là tiếng nói của cộng đồng người Bih và cộng đồng người Mdhur. Trong phạm vi bài này, chúng tôi sẽ chỉ rõ thêm vị trí của tiếng Bih trong các ngôn ngữ nhóm Chăm.



1.2. Để giải quyết vấn đề vị trí của tiếng Bih trong nhóm ngôn ngữ Chăm, điều cơ bản là phải chỉ cho ra được những tương đồng và dị biệt về vỏ ngữ âm - hình thái của một đơn vị ngữ nghĩa cơ bản, về vốn từ cơ bản có cùng gốc giữa tiếng Bih với các ngôn ngữ trong nhóm: Êđê, Giarai, Churu, Chăm, Raglai. Điều quan trọng nhất là chỉ ra được xu thế biến đổi (sự cách tân - innovation) từ một ngôn ngữ mẹ cổ xưa (Proto language) tới các ngôn ngữ Chăm đương đại. Chúng tôi tiến hành so sánh đặc điểm vỏ ngữ âm của đơn vị ngữ nghĩa cơ bản, vốn từ vựng trong ngôn ngữ của cộng đồng người Bih với các ngôn ngữ Chăm, mà đặc biệt so sánh vốn từ cơ bản nhất của tiếng Bih với các thổ ngữ, phương ngữ Êđê nhằm cố gắng chỉ ra những xu hướng biến đổi ngữ âm của chúng. Bảng từ được đưa ra so sánh cơ bản dựa trên bảng 100 từ của M. Swadesh, tuy có những từ cần được sửa đổi cho phù hợp với đặc trưng của các ngôn ngữ khu vực Đông Nam Á. Khi chỉ ra những sự cách tân, chúng tôi đã phải sử dụng một khối lượng tư liệu lớn hơn nhiều lần so với bảng 100 từ mà chúng tôi đối chiếu.

1.3. Tư liệu

a) Những tư liệu về các ngôn ngữ, phương ngữ, thổ ngữ của nhóm Chăm do chính chúng tôi thu thập sẽ được ghi theo phiên âm quốc tế (IPA).

b) Những tư liệu được rút ra từ các công trình của những người đi trước về các ngôn ngữ thuộc nhóm Chăm được chúng tôi để nguyên theo cách ghi âm của họ. Đặc biệt, chúng tôi sử dụng tư liệu phục nguyên các ngôn ngữ: Proto Malayo-Polynesia của I. Dyen (1953), Proto Cham của E. W. Lee (1966, 1974), Proto Malayic của K. A. Adelaar (1985),...

c) Trong một chừng mực nhất định, chúng tôi có sử dụng tư liệu về các ngôn ngữ Nam Đảo thuộc nhánh Indonesia phía tây.



d) Ngoài những tư liệu về các ngôn ngữ Nam Đảo, chúng tôi còn sử dụng tư liệu của một số ngôn ngữ Nam Á có quan hệ tiếp xúc trực tiếp với tiếng Bih, nhất là các ngôn ngữ nhánh Môn - Khmer thuộc ngữ hệ Nam Á4.

2. So sánh đặc điểm ngữ âm tiếng Việt Bih với các phương ngữ Êđê và ngôn ngữ nhóm Chăm

2.1. Các ngôn ngữ ở lục địa Đông Nam Á, trong đó có các ngôn ngữ Chăm, đã và đang biến đổi hình thái từ một ngôn ngữ đa tiết có phụ tố tới một ngôn ngữ đơn tiết không có phụ tố. Đó là sự giản lược các hình vị / từ song tiết (và đa tiết) để trở thành đơn tiết, hoặc một ít hình vị / từ ba âm tiết để trở thành song tiết. Quá trình đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự sắp xếp cấu trúc nội bộ của những âm tiết còn lại. Quá trình này đã và đang diễn ra rất khác nhau trong từng ngôn ngữ, phương ngữ. Cho dù đã bị đơn tiết hóa, song tiền âm tiết (presyllable) trong hầu hết các ngôn ngữ Chăm vẫn đang tồn tại. Tiền âm tiết ở đây thường được đọc lướt nhẹ, làm cho nguyên âm V của tiền âm tiết bị biến mất trong chuỗi lời nói, thậm chí ngay cả cấu trúc CV của tiền âm tiết cũng nhiều khi bị lược bỏ. Người ta có thể thấy rõ điều đó ở biến thể trong phong cách phát âm của phụ nữ Chăm. Đó là cách phát âm bỏ mất hoàn toàn tiền âm tiết trong từ đa tiết nguyên gốc, bất kể đến căn nguyên của từ này (David Blood, 1961; Bùi Khánh Thế, 1981). Ở tiếng Chăm và Raglai vẫn còn phân biệt ba nguyên âm của tiền âm tiết là://, /i ~ / và /u/
(E. W. Lee, 1974; Bùi Khánh Thế, 1981). Thế nhưng ở tiếng Giarai, Churu thì tiền âm tiết chỉ tồn tại một nguyên âm duy nhất // (Đoàn Văn Phúc, 1992, 1996, 1998). Trong một số trường hợp, tiền âm tiết có âm khởi đầu là âm thanh hầu // thì nguyên âm của nó lại là /a/. Riêng tiếng nói của cộng đồng cư dân Chăm Hroi (ở Bình Định và Phú Yên) thì đang diễn biến theo một chiều hướng khác. Ngôn ngữ này đang trên đường mất thế đối lập các phụ âm vô thanh với phụ âm hữu thanh, tiền thanh hầu hoá5 (mà nhiều người gọi là phụ âm tắc, hữu thanh, thở - (breathy voiced stops consonant - Ladefoget, 1992, 2000; Nguyễn Văn Lợi, 1998, 2002, 2004). Hiện các phụ âm này còn khá phổ biến, đồng thời âm vực của âm tiết đang hình thành để cân bằng thế đối lập âm vị học đó. Đi kèm theo điều này là hàng loạt hiện tượng ngữ âm: đôi hoá nguyên âm, mũi hoá ở nguyên âm, và thậm chí còn có thể đang trong quá trình hình thành thanh điệu. (Về điều này, chúng tôi sẽ có một bài riêng).

2.2. Do sự biến đổi hệ thống hình thái học, nên "cái gọi là tiền âm tiết" ở các ngôn ngữ Chăm nổi lên như một đặc trưng và dấu hiệu làm cơ sở để phân chia chúng thành hai tiểu nhóm khác nhau, trong đó:

- Tiểu nhóm 1: Các ngôn ngữ còn dấu vết của ngôn ngữ đa tiết, gồm: C (CĐ, CT), Hr, Gir, Chr, và Rag. Ngay ở tiểu nhóm 1 cũng có sự khác biệt về xu hướng biến đổi giữa các ngôn ngữ C, Hr, Chr với các ngôn ngữ Gir, Rag.

- Tiểu nhóm 2: Ngôn ngữ đơn tiết: Êđê.

Chính sự khác nhau giữa hai tiểu nhóm này có thể cho ta thấy được quá trình đơn tiết hóa, lược bỏ tiền âm tiết, hình thành các tổ hợp phụ âm hay một phụ âm mới (D. Blood, 1961; E. W. Lee, 1974; Bùi Khánh Thế, 1981, 1995, 1996; Đoàn Văn Phúc, 1983, 1985, 1988, 1992, 1993, 1996, 1998,…) để chúng dần dần trở thành những ngôn ngữ đơn tiết thực thụ. Song có điều đáng lưu ý, chính là ở tiếng nói của một số cộng đồng tộc người như Bih, Md dường như nằm ở vị trí trung gian giữa tiếng nói của một số cộng đồng cư dân Êđê với các cộng đồng tộc người khác thuộc nhóm Chăm. Vì vậy, có lẽ cần so sánh đặc điểm hình thái này của tiếng Bih với tiếng nói các ngôn ngữ Chăm để có thể làm sáng tỏ vị trí của ngôn ngữ này trong nhóm Chăm.

Về đặc điểm ngữ âm-hình thái của tiếng Bih, điều đáng lưu ý là vỏ ngữ âm của từ/hình vị còn mang dấu vết của một ngôn ngữ đa tiết. Chúng ta hãy so sánh một số từ tiếng Bih với một số phương ngữ Êđê và một vài ngôn ngữ nhóm Chăm như các từ dưới đây: Anh Phúc đã chú thích tất cả các chữ viết tắt

Bih Kp Kr Ep Bl Dr Đ Rag Nghĩa

hbw/bw hbw bw băw hbw hbw hbw havw tro

adu/mdu du du do/d du du du iduc mũi

ktu mtu mt mto mtu/mto mtu tu pitu sao

mne mnie mn mne mne mne kamăj kumj đàn bà

Ở tiếng Bih còn có một số ít từ mà vỏ ngữ âm của nó gần với vỏ ngữ âm của các từ trong tiếng Chăm Đông và Rag. Nhưng ở đa số các từ khác, thì vỏ ngữ âm tiếng Bih lại giống với các từ ở các phương ngữ Êđê. Đó là những từ kiểu như: máu, lửa, lạnh, nóng, gan, chấy, đàn ông, răng, đỏ, mưa,...

Bih Các thổ ngữ, phương ngữ Êđê khác Nghĩa

erăh erăh (Kp, Kt, Bl, DR, Ep, Md) máu

eăt eăt (KP, Kt, Ad, Dr, Bl, Ep, Kr) lạnh

ekj ekj (Kp, Ep), ekj (Dr, Bl) kăj (Kr) đàn ông

elan elan (Kp, Kr, Kt, Dr, Bl, ...) đường đi

Như vậy, về phương diện ngữ âm, vỏ ngữ âm của từ tiếng Bih về cơ bản giống với các phương ngữ Êđê mặc dù vẫn còn có một số ít những từ/hình vị lại có vỏ ngữ âm giống với các ngôn ngữ Chăm.



3. Kết quả thống kê từ vựng

Trong các công trình trước đây, dựa trên kết quả thống kê, so sánh 2200 từ thông dụng trong đời sống từ nhiều thổ ngữ tiếng Êđê, căn cứ vào những đặc điểm tương ứng ngữ âm giữa các thổ ngữ, chúng tôi đã chia tiếng Êđê thành hai vùng phương ngữ lớn. Ở mỗi vùng phương ngữ như vậy có thể chia thành nhiều phương ngữ Êđê trên cơ sở các tương ứng ngữ âm của âm đầu, phần vần cũng như tính đơn tiết của các vùng tiếng nói. Lần này, trên cơ sở thống kê từ vựng


(100 từ) của 18 phương ngữ, ngôn ngữ thuộc hai ngữ hệ Nam Đảo và Nam Á (trên cơ sở bảng từ của M. Swadesh), chúng tôi nhận thấy kết quả có khác hơn bởi số lượng từ được so sánh thay đổi. Qua kết quả thống kê từ vựng so sánh tiếng Bih với các phương ngữ Êđê (trang 5) và các ngôn ngữ Nam Đảo, Nam Á khác ở Việt Nam, ta có thể nhận thấy:

KẾT QUẢ SO SÁNH TỪ VỰNG TIẾNG BIH
VỚI CÁC NGÔN NGỮ NAM Á VÀ NAM ĐẢO Ở VIỆT NAM





Bih

Md

Kp

Kr

Ad

Kt

Dr

Bl

Ep

Gir

Chr

Rag

HrV

HrS

HrĐ



CT

MR

MB

Sre

9

6

5

5

7

5

6

5

6

5

8

7

7

7

6

7

7

57

58

MB

11

5

8

7

7

4

6

6

6

4

8

6

8

6

7

6

6

76




MR

10

7

7

6

7

5

5

7

8

6

9

8

10

6

8

8

6







CT

69

73

78

75

73

72

73

74

71

78

79

79

86

84

82

94












68

74

78

76

73

75

74

73

76

80

83

80

83

81

80













HrĐ

87

87

84

80

81

80

73

80

79

78

76

80

87

82
















HrS

82

85

78

79

76

75

82

76

73

78

75

79

85



















HrV

87

90

84

84

83

81

82

80

79

84

79

82






















Rag

68

75

76

72

72

73

74

74

75

78

83

























Chr

75

77

74

75

73

73

72

75

79

80




























Gir

81

82

81

85

82

82

80

83

81































Ep

97

92

99

97

95

96

98

99


































Bl

96

90

98

95

95

95

97





































Dr

95

89

98

97

96

99








































Kt

94

90

98

98

98











































Ad

95

88

98

97














































Kr

94

89

97

















































Kp

95

89




















































Md

88























































HrĐ: Chăm Hroi Đồng Xuân CĐ: Chăm Đông

HrS: Chăm Hroi Sơn Hoà MB: Mnông Bù Nông

MR: Mnông Rơlâm Ad: Êđê Adham

Kr: Êđê Krung Md: Êđê Mdhur

Ep: Êđê Êpan Kp: Êđê Kpă

Bl: Êđê Blô Kt: Êđê Ktul

Dr: Êđê Drao Bih: Êđê Bih

Gir: Giarai Rag: Raglai

Sre: Cơho Srê HrV: Chăm Hroi Vân Canh

3.1. Tính thống nhất của các ngôn ngữ nhóm Chăm

Các ngôn ngữ nhóm Chăm (ở Việt Nam) có tỷ lệ vốn từ chung rất cao, thể hiện tính thống nhất của chúng. Dựa vào kết quả thống kê, ta có thể thấy ranh giới giữa các ngôn ngữ trong nhóm. Chẳng hạn, các thứ tiếng CĐ, CT có tỷ lệ từ chung tới 85% trở lên, người ta khó có thể coi chúng là những ngôn ngữ khác nhau. Trên cơ sở vốn từ chung giữa các phương ngữ, ngôn ngữ, ta có thể vạch một đường ranh giới tạm thời: nếu giữa các ngôn ngữ, phương ngữ có tỷ lệ từ chung dưới 85% thì đó là những ngôn ngữ riêng. Tuy vậy, giữa tiếng Rag, tiếng Chr, và tiếng ChR có tỷ lệ từ chung khá cao: Chr - Rag: 83%, hay Chr - ChR và Rag - ChR cũng có tỷ lệ vốn từ cùng gốc lên tới 81%. Vậy các thứ tiếng này là những ngôn ngữ riêng biệt, hay những phương ngữ khác nhau của cùng một ngôn ngữ bởi cái tỷ lệ đó nhiều khi chỉ có tính chất tương đối mà thôi?



3.2. Ranh giới giữa các ngôn ngữ

Có một ranh giới rõ rệt phân biệt các ngôn ngữ Nam Đảo với các ngôn ngữ Nam Á. Tiếng Bih, một ngôn ngữ có tiếp xúc trực tiếp với một số ngôn ngữ Nam Á trên địa bàn sinh sống cũng chỉ có vốn từ chung gốc với tiếng MR rất thấp (10%), hoặc với tiếng MB cũng vậy (11%), còn với tiếng Cơho (phương ngữ Sr) lại thấp hơn (chỉ có 9%). Vì vậy giữa chúng có một vốn từ chung. Trong số này, có những từ gốc Nam Á, song cũng có những từ gốc Nam Đảo mà các ngôn ngữ Nam Á vay mượn, hoặc có những từ chung của khu vực. Điều này khẳng định rằng, tiếng Bih không có quan hệ dòng họ với các ngôn ngữ Nam Á mà chỉ có quan hệ tiếp xúc, trước hết là với ngôn ngữ tiểu nhóm Bana nam. So với các phương ngữ Êđê và những ngôn ngữ khác trong nhóm Chăm, tiếng Bih có tỷ lệ từ chung với các ngôn ngữ Mnông, Cơho là cao nhất (9% - 11%). Đây là kết quả của mối quan hệ tiếp xúc giữa các ngôn ngữ này trên địa bàn cư trú.



3.3. Về phương diện từ vựng, tiếng Bih sẽ được coi là một phương ngữ của tiếng Êđê. Và trong cái gọi là tiếng Êđê ấy, điều khiến ta băn khoăn chính là tiếng Krung. Đây là phương ngữ của tiếng Êđê hay phương ngữ của tiếng Giarai bởi tỷ lệ vốn từ chung giữa Kr - Gir là 85%. Giữa tiếng Bih với các phương ngữ Êđê có vốn từ chung từ 88% - 97%, trong đó thấp nhất là giữa Bih - Md: 88%, và cao nhất là giữa Bih - Ep: 97%, còn hầu hết từ 94 - 97%. Ngay tiếng Md, một phương ngữ đã từng được nhiều người coi là một phương ngữ của tiếng Gir, nhưng cũng chỉ có tỷ lệ từ chung Md - Gir là 82%, và Kr - Gir: 85%. Không biết tiếng Md ở Gia Lai có vốn từ chung với Gir như thế nào, song thực tế, tỷ lệ từ chung giữa các phương ngữ Êđê là rất cao (Md - Bih, Ad: 88%; Md - Kp, Kr, Dr: 89%; Md - Kt, Bl: 90%; Md - Ep: 92%)6. Nhưng giữa các phương ngữ Êđê và Gir có vốn từ chung khá cao (từ 80% - 85%). Do những người sử dụng tiếng Krung cư trú ở vùng giáp với người Giarai Chor (sinh sống chủ yếu tại thị xã Ayun Pa, các huyện Phú Thiện, Chư Sê, Ia Pa tỉnh Gia Lai và một số khá đông ở các xã Êa Sol, Êa Hleo, Êa Ral, thị trấn Êa Drăng thuộc huyện Êa Hleo tỉnh Đắk Lắk), nên sự vay mượn từ vựng lẫn nhau giữa chúng là một điều tất yếu. Điều này giúp ta lý giải cách nhìn nhận, phân chia các ngôn ngữ nhóm Chăm của Gorys Keraf khi ông cho tiếng nói của các cộng đồng cư dân Md, Bl, Kr là "ngôn ngữ pha trộn Jarai-Rade".

4. Sự cách tân trong các ngôn ngữ nhóm Chăm

4.1. Các ngôn ngữ Đông Nam Á (đặc biệt ở lục địa) đã và đang trải qua sự biến đổi và phát triển. Khi nói tới sự kiện này, các nhà ngôn ngữ học đều khẳng định: các ngôn ngữ trong khu vực đã và đang trải qua một sự thay đổi hệ thống hình thái học, từ một ngôn ngữ đa tiết do quá trình đơn tiết hóa đã rụng mất phụ tố, hay các phụ tố ở đa số các ngôn ngữ không còn khả năng phái sinh từ mạnh mẽ. Do vậy, các ngôn ngữ trong khu vực đã đơn tiết hóa ở những mức độ khác nhau. Có những ngôn ngữ đã đơn tiết hóa triệt để, vỏ ngữ âm của từ - căn tố (về cơ bản) đã trùng với âm tiết. Có thể nói, đơn tiết hóa là một xu hướng biến đổi tích cực diễn ra ở các ngôn ngữ, và các ngôn ngữ nhóm Chăm cũng không thể nằm ngoài xu hướng đó (E. W. Lee, 1974). Trong công trình của mình, E. W. Lee đã chỉ ra rõ hơn cái xu thế biến đổi này. Vì vậy, khi nghiên cứu các ngôn ngữ Chăm, nhiều người đã từng nói tới sự chuyển di loại hình, nhất là các ngôn ngữ Chăm, Êđê. Để thấy rõ hơn, chúng ta xem xét sự cách tân của các ngôn ngữ này từ ngôn ngữ PNĐ. So sánh các ngôn ngữ Chăm, và các phương ngữ Êđê, cũng như tiếng Bih với dạng phục nguyên PNĐ của I. Dyen (1953), Otto Dempwoft (1938), ta thấy có những sự tương ứng khá đều đặn giữa các ngôn ngữ, các phương ngữ của nhóm này:

4.2. Nguyên âm của tiền âm tiết CV ở ngôn ngữ TNĐ bị rụng đi ở tiếng Êđê, nhưng lại trở thành [] ở các ngôn ngữ còn lại trong nhóm, ví dụ:

PNĐ

Êđê

Gir

Chr

Rag



CT

ChR

Nghĩa

*/t/ulaN

kla

tla

tla2

tulac

tala

talang

tala

xương

*taNan

kan

tan

taan2

taan

tain

tan

tan

tay

Trong số này có rất nhiều tiền âm tiết (CV) của từ đa tiết nguyên gốc PNĐ đã bị rụng mất ở tiếng Êđê và các phương ngữ Chăm (đặc biệt là CĐ). Ví dụ:

*apuy

puj

apuj

apuj1

apuj

puj

puj

puj

lửa

*qatey

tie

htaj/taj

bh

hataj

hataj

taj

taj

gan

Nếu theo dõi loạt từ trên ở các phương ngữ Êđê và tiếng Bih thì thấy rõ ràng các từ PNĐ cổ xưa có dạng hơn một âm tiết đã bị đơn tiết hóa do rụng mất nguyên âm -V- trong âm tiết không có trọng âm, làm xuất hiện tổ hợp phụ âm trong tiếng Êđê. Và tiếng Bih cũng biến đổi theo xu hướng này, tuy rằng ở một số ít từ còn dấu vết của hiện tượng đa tiết (có thể là dạng song tiết, hoặc xuất hiện một nguyên âm chêm [] giữa tổ hợp phụ âm), kiểu như:

PNĐ TC Kp Kt Ad Dr Ep Bih Nghĩa

*buluh mlw ml ml ml ml mlw lông

*hiRa/q/ hrăh hrăh hrăh hrăh hrăh hrăh đỏ

*bi/t/uqen mtu mt mt mtu mto/ mtu ktu sao

*/t/ulaN kla tla tla2 (Chr) tala talang tala xương

*tikus kkuih kkuih kkui kuih chuột

*nipis *lupih epih epih epih upih mỏng

So sánh các phương ngữ Êđê thì thấy: PNĐ: */t/ulaN > [kla/ kla]; *taNan > [ kan/ kan ] ở tất cả các phương ngữ Êđê và tiếng Bih, tức là vừa có quá trình đơn tiết hóa nguyên âm V của tiền âm tiết, đồng thời PNĐ * t > k/k, trừ trường hợp là [tla ] ở Md, cũng như ở nhiều ngôn ngữ khác thuộc nhóm Chăm đều trở thành /tla/tala/ tulac/. Rõ ràng, xu hướng đơn tiết hóa và biến đổi âm tắc đầu lưỡi PNĐ > phụ âm tắc, gốc lưỡi ở Êđê và Bih là hết sức phổ biến và thống nhất. Trong khi đó các âm đầu lưỡi này vẫn được giữ nguyên ở các ngôn ngữ Chăm khác, cũng như nhiều ngôn ngữ ở hải đảo.



4.3. Xu hướng biến đổi phụ âm hữu thanh, lưỡi PNĐ > phụ âm hữu thanh trong các ngôn ngữ C

Nếu so sánh những từ có phụ âm hữu thanh lưỡi trên ở ngôn ngữ PNĐ với các ngôn ngữ C thì thấy:



TNĐ TC Kp Bih Gir Chr Hr CĐ CT Nghĩa

*/dD/aRaq erăh erăh drah drah darah arah daah máu

*dilaq elah elah/lah jlah dlah dilah dalah dulah lưỡi

*/n/ihaN *luwa ewa wa lwa gầy

Trường hợp những từ máu, kim, đường, lưỡi, răng, ... lại hoàn toàn khác với những trường hợp ở 4.2. Cái tổ hợp [ e/i ] ở một số phương ngữ Êđê và tiếng Bih chính là hiện thực hóa của phụ âm tắc, thanh hầu, hữu thanh / /. Chỉ có thể coi đây là một phụ âm tắc, thanh hầu, hữu thanh ở tiếng Êđê và các phương ngữ của nó thì chúng ta mới có thể giải thích được sự biến mất của các phụ âm hữu thanh trong PNĐ và trong PC. Tuy bị biến mất nhưng chúng còn để lại dấu vết về tính thanh ở phụ âm đầu của tổ hợp phụ âm trong tiếng Êđê và Bih. Phụ âm này, theo cách nói của A.G. Haudricour thì đó là những "âm dịu hữu thanh". Ví dụ:

TNĐ Kp Kt Ad Dr Ep Bih nghĩa

*/dD/aRaq erăh erăh răh erăh erăh erăh máu

*dilaq elah lah lah elah ilah elah/lah lưỡi

*gigih ej j  ej/ej j j răng

*zalan/dalan elan elan lan elan ilan elan đường

Ở các ngôn ngữ hải đảo cũng đã diễn ra xu hướng biến đổi giống các ngôn ngữ Chăm. Ta hãy xem một vài từ trong các ngôn ngữ Bal, Sn, Mad7:



PNĐ PMl Ed Bih CĐ Bal Sn Mad Nghĩa

*dilaq *dilah elah elah/lah dalah lidah ilat elat lưỡi

*Danaw *danaw enaw enaw dana dano danau ao, hồ

Rõ ràng, đối với những loạt từ kiểu này, tiếng Bih có xu hướng biến đổi giống với các phương ngữ Êđê, tuy rằng trên so sánh chi tiết với từng phương ngữ, thổ ngữ cũng có nét khác biệt nhất định. Sự rơi rụng phụ âm lưỡi, hữu thanh của ngôn ngữ PNĐ, PC và để lại âm tắc, thanh hầu, hữu thanh là phổ biến và thống nhất giữa Bih và các phương ngữ Êđê. Kiểu biến đổi này, ta có thể gặp hàng loạt những từ khác chỉ rõ tương đồng giữa các phương ngữ Êđê và tiếng Bih, như những từ được dẫn ra dưới đây:



PNĐ Kp Ad Bih CĐ CT Chr Nghĩa

*Ratus etuh satuh etuh rituh tuh ratuh2 trăm

*ribuh ebw sa b ebw ribaw baw rbw nghìn

*/dD/uRih erue eru turj drj dj drwj gai

*Danaw enau nau enau naw danaw dnaw ao, hồ

*DaRah era ra era dra (Gir) dra thiếu nữ

*limah ema ma uma m im lma số 5

*lakih ekj k ekj lakăj lakăj lkj đàn ông

*labuq ebuh ebuh ebuh tuh tuh lbuh rơi

*liyah eja eja eja laja laja lja gừng

*la/s/u/n/a/q esun tj esun tj rsun (Gir) lsun tỏi

Chính ở đây, trong các phương ngữ Êđê lại xuất hiện một sự đối lập giữa một phụ âm tắc, thanh hầu, vô thanh [] với một phụ âm tắc, thanh hầu, hữu thanh [/ ]. Nếu theo cách nói của E. W. Lee thì trong tiếng Êđê lại "có một sự đối lập giữa qa và qe như là một sự phát triển thứ cấp". Để minh chứng cho điều này, ta hãy xem những cặp đối lập âm vị học dưới đây trong tiếng Êđê:

ala /la / con rắn êla /la ~ la/ buổi chiều

alah /lah/ lười êlah /lah ~ lah/ lưỡi

ama /ma/ cha, bố êma /ma ~ ma/ 5

4.4. Nguồn gốc của phụ âm môi, hữu thanh PNĐ được phản ánh rõ rệt ở các ngôn ngữ Chăm. Chính các phụ âm môi, hữu thanh của PNĐ > âm tắc môi-mũi, hữu thanh của các phương ngữ Êđê và tiếng Bih chứ không phải là những âm môi bình thường như ở các ngôn ngữ khác của nhóm Chăm. Ví dụ:

PNĐ Kp Kt Dr Bl Bih Gir Chr CĐ Nghĩa

*bulan mlan mlan mlan mlan mlan blan blan2 blan trăng

hay như từ *baqeRu(h) mới thì tuy rằng ở Kp, Bl là: mrw, ở Kt là: mrw/mrw, ở Kr, Ad là mr, ở Dr là mrw/mrw, ở Bih cũng giống như ở Kp, Bl là mrw, song đó vẫn là một phụ âm môi, mũi, hữu thanh [m] chứ không phải là phụ âm môi, hữu thanh bình thường. Ở các ngôn ngữ khác của nhóm C vẫn là âm môi, hữu thanh, tiền thanh hầu hóa, chẳng hạn trong tiếng Chr: brhw, CĐ, ChR: birăw, CT: bahw, Gir: praw, nhưng ở Rag lại trở thành một âm xát, môi-răng, hữu thanh /v/: vahrw (trong khi nhiều ngôn ngữ Nam Đảo ở hải đảo, Ml: baharu; In: baru; Mad: buru; Bal: mara). Trường hợp từ *buluh lông ở trên của PNĐ thì ở các phương ngữ Êđê đều cho thấy có âm tắc môi, mũi [m], hoặc nghe như hiện tượng mũi của phụ âm đi sau, như: Kp: mlw, Kr, Ad, Kt, Dr, Bl, Ep, Md: ml, còn ở tiếng Bih lại vẫn còn giữ hình thái song tiết của PNĐ, nhưng phụ âm đầu từ đã biến thành âm môi, mũi [m] là: mlw. Còn từ này ở các ngôn ngữ nhóm C vẫn giữ nguyên dạng song tiết, và phụ âm đầu tắc môi, hữu thanh *b cổ xưa, như: CĐ, CT, ChR: bilăw, Gir, Chr: blw, Rag: vahrw. Nếu xem xét rộng hơn, ta có thể thấy phụ âm đầu của những từ này đều là các âm tắc (hoặc xát) môi (chứ không phải môi-mũi), hữu thanh trong các ngôn ngữ Nam Đảo khác ở hải đảo, như:

PMl Ml In Min Sw Bal Jav Sn Mad Nghĩa

*bulu bulu bulu bulu bulu bulu wulu bulu bulu lông

*bulan bulan bulan bulan bulan bulan wulan bulan bulen trăng

*basah basah basah basah basa (h) belus baseuh becca ướt

Còn ngay từ *bi/t/uqen (ngôi sao) thì ở hầu hết các ngôn ngữ hải đảo (Ml, IN, Min, Sw, Bal, Sn, Mad) đều cho phụ âm tắc, môi, hữu thanh /b/ là bintang; và chỉ riêng ở tiếng Jav cho âm bên /l/ là lintang.

Càng mở rộng sự so sánh tiếng Bih và các phương ngữ Êđê với các ngôn ngữ Chăm và hải đảo, chúng ta càng nhận được kết quả ủng hộ xu hướng biến đổi âm tắc, hữu thanh, môi PNĐ > âm môi, mũi ở Ê-đê.



5. Tương ứng ngữ âm giữa tiếng Bih với các phương ngữ Êđê

5.1. Như đã nói ở trên, ở tiếng Bih còn tồn tại vỏ ngữ âm của một đơn vị ngữ nghĩa cơ bản là dạng song tiết: tiền âm tiết + âm tiết. Các tiền âm tiết có mô hìng ngữ âm tối đa là CVC (trong đó C: phụ âm; V: nguyên âm), nhưng dạng phổ biến thường gặp là CV. Phụ âm C của tiền âm tiết ở Bih thường hay gặp nhất là / r /, lẻ tẻ có những phụ âm tắc, vô thanh như: p, t, k, . Chẳng hạn như những từ dưới đây:

Kp Kt Ad Bl Bih Nghĩa

ekut kut kt kut rkut vắng (nhà)

eka eka ka mka/eka rka bị thương

ej ej e ej trj kéo sợi

Trong một số trường hợp, trong khi hầu hết các phương ngữ Êđê đã biến đổi âm vô thanh của PNĐ thành âm môi, mũi, hữu thanh thì ở Bih lại vẫn còn dấu vết của âm vô thanh. Chẳng hạn:

mkă mkă mkă mkă pkă đo

ma ma ma ma pu/pa hoa

mkue mku ku mkue pkuec tấm (gạo)

mdie md mde mde pde lúa

mam mam mam mam pam đan

a ka ka ka pa vây

mtra mtra mtra/ma ma pcra soi

mdi mdi mdi mdi pdi làm cao lên

5.2. Những trường hợp hầu hết các phương ngữ Êđê đã biến đổi thành phụ âm tắc, vô thanh, gốc lưỡi /k-/ thì ở Bih vẫn còn giữ lại âm cổ hơn là /t-, c-/, rất gần với cách biến đổi ở tiếng Giarai. Chẳng hạn:

kpă kpă kpă kpă tpă thẳng

knap knap knap tnap (Md) tnap khổ

klj klj kl klj tlj dây

Hay có trường hợp trong khi âm cuối của âm tiết đã biến đổi thành /-/ ở các phương ngữ Êđê, thì ở Bih vẫn giữ hình thái cổ xưa hơn /-k/. Ví dụ:

mnu mnu mnu mn mnuk/mnuk

iă iă ia iă ik gặt

k k k k kk/akok đầu

Và có cả những trường hợp ở hầu hết các phương ngữ Êđê đã thay đổi và dùng từ mới, thì ở Bih và một vài phương ngữ Êđê lại giữ được hình thái cổ của ngôn ngữ gốc. Chẳng hạn từ sườn thì trong khi ở các phương ngữ Kp, Kr, Kt, Ad, Bl, dùng rh, thì ở Ep là suk, ở Bih là esuk, nhưng ở các ngôn ngữ Chăm khác thì Chr: rsu; CĐ: tuk; CT: lasuk.

6. Kết luận

Từ sự phân tích những đặc điểm ngữ âm, so sánh từ vựng, cũng như những biến chuyển ngữ âm giữa tiếng Bih với các ngôn ngữ Chăm, mà đặc biệt là với các phương ngữ Êđê, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng:



6.1. Về đặc điểm hình thái (vỏ ngữ âm từ) của tiếng Bih nằm trung gian giữa các ngôn ngữ Chăm và tiếng Êđê. Rất nhiều hình thái ngữ âm của từ gốc PNĐ đã đơn tiết trong tiếng Êđê, nhưng vẫn còn dấu vết đa tiết (hoặc có thể cụm tổ hợp phụ âm) trong tiếng Bih.

6.2. Về đặc điểm từ vựng, tiếng Bih thuộc các ngôn ngữ nhóm Chăm. Sự khác biệt từ vựng giữa các ngôn ngữ này được phân định khá rõ rệt. Cần nghiên cứu kỹ hơn mối quan hệ giữa tiếng Êđê Mdhur với tiếng Giarai và Êđê bởi giữa chúng vẫn còn có sự nhập nhằng nhất định.

6.3. Sự chuyển biến ngữ âm giữa tiếng Bih với các phương ngữ Êđê về cơ bản là đồng nhất, tuy rằng vẫn có một vài sự khác biệt nhất định.

6.4. Mặc dù có những đặc điểm hình thái học hơi khác biệt với các phương ngữ Êđê, nhưng căn cứ vào kết quả thống kê từ vựng và đặc biệt là xu hướng chuyển biến ngữ âm từ ngôn ngữ Proto Nam Đảo tới các ngôn ngữ Chăm đương đại, chúng tôi cho rằng: tiếng nói của cộng đồng người Bih (ở huyện Krông Ana và thị xã Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk) là một phương ngữ của tiếng Êđê.

6.5. Dựa vào tiêu chuẩn thuần tuý ngôn ngữ học, tức đặc trưng hình thái học, có thể phân chia tiếng Êđê thành hai vùng phương ngữ lớn là:

Vùng I: tiếng nói bao gồm tiếng nói của đa số các nhóm, ngành Êđê như: Kpă, Ktul, Krung, Adham, Drao, Blô, Êpan mang đặc trưng của một ngôn ngữ đơn lập-đơn tiết, thể hiện xu hướng đơn tiết hoá ngày càng triệt để hơn.

Vùng II: là tiếng nói của hai nhóm Mdhur và Bih còn mang những dấu vết đặc trưng của một ngôn ngữ đơn lập-đa tiết.

6.6. Ở mỗi vùng phương ngữ, nếu căn cứ vào sự giống nhau từ vựng cũng như những tương ứng ngữ âm của phần cuối âm tiết, thì ta còn có thể phân chia thành các phương ngữ nhỏ hơn.

Phân vùng I.1 bao gồm tiếng nói của các nhóm tộc người Krung, Adham, Kpă.

Phân vùng I.2. bao gồm tiếng nói của các nhóm tộc người Drao, Êpan, Ktul.

Ở vùng II sẽ có hai tiểu vùng là: phương ngữ Mdhur và Bih.

Còn riêng tiếng nói nhóm tộc người Blô (ở huyện M'Drắc) lại là một phương ngữ trung gian giữa phân vùng I.1 với phân vùng I.2. và phương ngữ Mdhur thuộc vùng II. Từ cách nhìn như vậy, ta có thể hình dung sự phân chia các phương ngữ Êđê một cách chi tiết như sơ đồ dưới đây:


Trong tình hình tiếp xúc ngôn ngữ và văn hoá đa chiều như hiện nay, ta có thể phân chia tiếng Êđê thành hai phương ngữ tương đương với hai vùng phương ngữ ở mục 6.5.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. K. A. Adalaar, Proto-Malayic, Alblasserdam, 1985.

  2. R. Aymonier – A. Cabaton, Dictionnaire Căm - Franais, Imprimerie Nationale, Paris, 1906.

  3. D. L. Blood, “Phonological Units in Cham”, trong Anthropological Linguistics, Vol. 9, 1967.

  4. D. W. Blood, “Womens Speech Charateristics in Cham”, trong Asian Culture, Vol. 3, 1961.

  5. D. W.Blood, “Reflexes of Proto-Malayo-Polynesian in Cham”, trong Anthropological Linguistics, Vol. 4, 1962.

  6. G. Bochet, J. Dournes, Lexique polyglotte Koho, Franxais, Vietnamien, Roglai, Saigon, France - Asie, 1953.

  7. Bế Viết Đẳng,..., Đại cương về các dân tộc Êđê và Mnông ở Đắk Lắk, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1982.

  8. Rơmah Del và Trương Văn Sinh, "Vài nét về các ngôn ngữ Malayo - Polynedia ở Việt Nam", tạp chí Ngôn ngữ, số, 1, 1974.

  9. Otto Dempwoft, Austronesisches Wortschatzeichnis, Berlin, 1938.

  10. Dorothy M. Thomas, “Proto-Malayo-Polynesian reflexes in Rade, Jarai, and Chru”, trong Studies in Lingusitics, Vol. 17, 1963.

  11. I. Dyen, The Proto-Malayo-Polynesian laryngeals, Baltimore: the Linguistic Society of America, 1953.

  12. A. Ju. Ephimốp, Âm vị học lịch sử các ngôn ngữ Bana nam, Khoa học, Maxcơva, 1990 (bản tiếng Nga).

  13. Gorys Keraf, Linguistik Bandingan Historis, Gramedia, Jakarta, 1996 (tiếng Indonesia).

  14. Hoàng Văn Hành, ..., Từ điển Việt - Kơho, Lâm Đồng, 1983.

  15. A.G. Haudricourt, Observation au sujet des consones A et Ê en Rhadé, BSLP, Vol. 46, fasc 1, 1950, pp. 172 - 176.

  16. Phú Văn Hẳn, Cơ cấu ngữ âm và chữ viết tiếng Chăm Việt Nam và tiếng Melayu Malaysia, Luận án Tiến sỹ Ngữ Văn, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.

  17. E. W. Lee, “Southeast Asian areal features in Austronesian strata of the Chamic languages”, Oceanic Linguistics, Vol. 13, No. 1 & 2, 1974.

  18. G. Moussay – Nại Thành Bô, ..., Dictionnaire Cam - Vietnamien - Franais, Trung tâm văn hoá Chàm, Phan Rang, 1971.

  19. Dominique Nguyen, Từ vựng Hroi - Việt, Paris, 2003.

  20. Đoàn Văn Phúc, "Mấy vấn đề âm vị học đồng đại các ngôn ngữ Chamic", trong Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, 1992.

  21. Đoàn Văn Phúc, "Những vấn đề về các phương ngữ Êđê", trong Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, Hà Nội, 1995.

  22. Doan Van Phuc, Perbandingan kosa kata bahasa Melayu dan bahasa-bahasa kelompok Cham, Konfrensi internasional keenam tentang dialek-dialek Austronessia di Nusantara, Brunei Darussalam, 8/1996.

  23. Đoàn Văn Phúc, "So sánh từ vựng tiếng Mã Lai với các ngôn ngữ Chàm (trên tư liƯu ting Inđônêxia và tiếng Êđê)", tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, 1996, tr.78 - 87.

  24. Đoàn Văn Phúc, Ngữ âm tiếng Êđê, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996.

  25. Đoàn Văn Phúc, Ede (= Rade) dialect, Hội nghị khoa học quốc tế lần thứ VIII về các ngôn ngữ Nam Đảo, Taipei, Taiwan, 28/12/1997 - 1/1/1998, 11 tr.(Tóm tắt in trong
    "8 - ICAL Handbook", tr.66).

  26. Đoàn Văn Phúc, Từ vựng các phương ngữ Êđê, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.

  27. Phan Văn Phức – Đoàn Văn Phúc..., Từ điển Việt - Êđê, NXB Giáo dục, 1993.

  28. L. A. Shintani Tadahiko, Boh blu klei Êđê - Yuan - Zapônê (Từ vựng Êđê - Việt - Nhật), Tokyo, 1981.

  29. G. Thurgood, From Ancient Cham to Modern Dialeks Two Thousand Years of Language Contact and Change, University of Hawaii Press, 1999.

  30. Y Cang Niê Siêng, Klei hriăm boh blu Êđê (Ngữ vựng Êđê, Rade vocabulary), California, Manila, 1979.

  31. Ir. Sugiarto, Kamus Indonesia - daerah, Gramedia, Jakarta, 1995.

  32. Bùi Khánh Thế (Chủ biên), Từ điển Mnông - Việt, Đắk Lắk, 1993.

  33. Bùi Khánh Thế (Chủ biên), Từ điển Chăm - Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995.

  34. Bùi Khánh Thế (Chủ biên), Từ điển Việt - Chăm, Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996.

  35. Đặng Nghiêm Vạn, ..., Các dân tộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum, NXB Khoa học Xã hội,
    Hà Nội, 1981.

  36. Ksor Yin – Trương Hải,…., Từ điển phương ngữ Jrai, Pleiku, 2007.



1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương