TỪ chỉ VỊ trí trong tiếng nhật và tiếng việT



tải về 2.37 Mb.
trang19/19
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích2.37 Mb.
#25593
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19

Tất cả những trường hợp trong 2 bảng trên đều chỉ ghi một trong hai yếu tố trong tổ hợp phụ âm đầu tiếng Việt.

Có một số trường hợp như sông, trên, và tròn, thì trong ANDN chỉ dùng một loại chữ để phiên âm một hình vị, còn trong ANQDN tác giả dùng nhiều loại chữ để ghi cùng một hình vị. Đó là một trong những xu hướng chung giữa hai bản như Vương Lộc (1997) có nói. ở đây, quan trọng hơn là những trường hợp tác giả dùng 2 mã chữ để ghi tổ hợp phụ âm hoặc song âm tiết. Bảng 8 gồm 3 trường hợp như vậy:

Bảng 8. Tổ hợp phụ âm và song âm tiếng ghi bằng 2 mã chữ

Chữ Hán dịch nghĩa

ANDN

Âm hiện đại

Âm trong TĐ VBL

ANQDN

Âm hiện đại

黄牛

牛叫



革蔞

15 革蔞

革蔞 高


trâu

vàng trâu



trâu kêu

tlâu

跛 敺

跛 罔


跛 改

bò trâu

bò vàng


bò gọi

太陽

托爛

trán

tlán

太中

thái dương

大石

石路



石榴

王(玉)石


宝石

喇大

戞 喇大


喇大 党

喇大 溜


物 喇大

憂 喇大


đá

cả đá



đá đường

đá lựu

ngọc đá

dấu đá


là đá

刺大

喇大 戞


党 刺大 達

拝 十六


欲 食

刺 達


đá

đá cả

đường đá đắt

trái thạch lựu

ngọc thạch



đá? Đắt

Trong trường hợp này có hai cách phiên âm từ Việt hoàn toàn khác nhau giữa hai bản. Một hình vị có tổ hợp phụ âm đầu được ghi bằng hai mã chữ thì trong ANDN có hai trường hợp: 革蔞trâu và 托爛 trán. 革(kiến見 mẫu) và 蔞(lai來 mẫu) cho phép chúng tôi tái lập *kl-, còn 托(thấu透 mẫu) và 爛(lai來 mẫu) cho phép tái lập *tl-, như thấy trong Từ điển VBL16. Đối với hai trường hợp này, tác giả

Hiện đại ɓ ɗ t tʰ c s k

(b) (đ) (t) (th) (ch) (x) (k)

: : : : : : :

XVIIe ɓ ɗ t tʰ c ɕ k

(b) (đ) (t) (th) (ch) (x) (k)

: : : : : : :

XV-XVIe ɓ ɗ t ɕ /tɕ c tʃ k

(p) (t) (t) (sh-ss-ch’-ch) (ch) (ts’-ch’-sh) (k):Ferlus1982

: : : : : : :

vô thanh hoá p t s ɕ c tʃ k

: : : : : : :

PV p t s ɕ c tʃ k

b d Ɉ dʒ g

: : : : : : :

xát hoá ɸ θ ς ς ç ç χ

β δ ȷ ȷ ɣ

: : : : : : :

hữu thanh hoá β δ ɽ ɽ ȷ ȷ ɣ

: : :

: : : : :

XV-XVIe β δ ɽ ȷ ɣ

(p) (t) (sh-ch’-j) (ch) (k)

: : : : :

XVIIe β δ ɽ ȷ ɣ

((b-(bĕ) (d-dĕ) (r) (gi) (g-gh)

: : : : :

Hiện đại v z z z ɣ

v j r j ɣ

(v) (d) (r) (gi) (g)

nh 1. Quá trình xát hoá phụ âm đầu (Ferlus 1982, 1992)

ANDN dùng từ khác để dịch nghĩa chữ Hán hoặc chỉ ghi âm Hán Việt của chữ Hán đó. Còn trường hp ghi từ song âm tiết trong ANDN là 喇大. Đó là một từ Rhodes đã ghi bằng là đá trong TĐ VBL, và dịch giả Phật thuyết cũng ghi bằng 2 mã chữ Nôm “羅打, đúng là một từ tương đương với từ lata3 tiếng Rục17. Đối với trường hợp này, trong ANQDN cũng có 3 lần ghi bằng hai mã chữ 刺大 và 喇大, nhưng có một lần ghi bằng một mã chữ 刺 vốn biểu thị yếu tố thứ nhất trong song âm tiết. Điều này có thể chứng tỏ rằng tác giả ANQDN đã tham khảo cách phiên âm trong ANDN, rồi cố tìm cách nào đó để dịch một hình vị từ Hán bằng một mã chữ theo một phương pháp phổ biến trong ANQDN.

Tóm lại, tác giả của ANDN nếu có trường hợp có yếu tố nhận thức được như một âm tiết thì dùng một mã chữ ghi âm tiết đó, có khi đó là yếu tố thứ nhất trong tổ hợp phụ âm đầu hoặc song âm tiết. Ngược lại, tác giả ANQDN thì có một phương châm hoàn toàn khác là phiên âm một hình vị bằng một mã chữ như cấu trúc âm tiết tiếng Hán thời ấy, và nếu khó áp dụng phương châm này thì dùng từ khác hoặc chỉ ghi cách đọc Hán Việt của chữ Hán dịch nghĩa18.



4. Vị trí của ANQDN trong quá trình biến đổi phụ âm đầu

Trên cơ sở tìm hiểu hai văn bản một cách sơ lược như trên, chúng tôi tiếp tục phân tích đặc trưng ngữ âm cách phiên âm trong ANQDN. Trong khi đó, một trong những công trình nghiên cứu quan trọng nhất về ngữ âm lịch sử tiếng Việt đề cập đến ANDN hoặc ANQDN là của Ferlus (1982 và 1992). Trong đó, tác giả đặt tình hình ngữ âm phản ánh trong ANQDN vào quá trình biến đổi ngữ âm phụ âm đầu tiếng Việt. Dựa vào hai công trình này, quá trình xát hoá phụ âm tắc có thể minh hoạ như Hình 1.

Ferlus đã dựa vào kết quả của Davidson (1975) mà khảo sát về tình hình giai đoạn Hoa Di Dịch Ngữ. Chúng tôi cũng đối chiếu lại hệ thống phụ âm đầu tiếng Việt trong ANQDN với hệ thống ngữ âm tiếng Hán Trung đại, thì kết quả như Phụ lục 2.

Căn cứ vào kết quả đó với việc phân tích cách dùng chữ Hán trong yếu tố biểu âm chữ Nôm trong Phật Thuyết, chúng tôi xin bổ sung thêm một giai đoạn trước ANQDN như Hình 2.

5. Kết luận

Trong tiểu luận này, chúng tôi phân tích hai loại văn bản phiên âm từ Việt bằng chữ Hán được biên soạn vào đời Minh ở Trung Quốc, tức An Nam Dịch Ngữ và An Nam Quốc Dịch Ngữ. Thông qua việc so sánh tình hình ngữ âm được phản ánh trong hai bản, chúng tôi tạm kết luận như sau:

1) Tác giả của ANDN có xu hướng bị ảnh hưởng bởi cách dùng chữ Hán phiên

Hiện đại ɓ ɗ t tʰ c s k

(b) (đ) (t) (th) (ch) (x) (k)

: : : : : : :

TĐ VBL ɓ ɗ t tʰ c ɕ k

(b) (đ) (t) (th) (ch) (x) (k)

: : : : : : :

ANDN ɓ ɗ s/t ɕ /tɕ c ɕ/tʃ k

(幫並)   (端定)  (心生書/ (心生書章船/ (精章知從) (書/清昌) (見)

端定透) 透定端知澄)

: : : : : : :

PT ɓ ɗ s ɕ/tɕ c ɕ/tʃ k

(b-ph) (đ) (t) (s-th) (ch-tr-gi) (x-s-th-ch) (k): Shimizu 1996

: : : : : : :

vô thanh hoá p t s ɕ c tʃ k

: : : : : : :

PV p t s ɕ c tʃ k

b d Ɉ dʒ g

: : : : : : :

xát hoá ɸ θ ς ς ç ç χ

β δ ȷ ȷ ɣ

: : : : : : :

hữu thanh hoá β δ ɽ ɽ ȷ ȷ ɣ



: : :

PT β δ ɽ ȷ ɣ

(b-ph) (đ-d) (t) (ch-tr-d) (k-kh)

: : : : :

ANDN β δ(/ɲ) ɽ ȷ ɣ

   (幫並) (端定精/日影)   (生)  (章) (見)

: : : : :

TĐ VBL β δ ɽ ȷ ɣ

((b-(bĕ) (d-dĕ) (r) (gi) (g)

: : : : :

Hiện đại v z z z ɣ

v j r j ɣ

(v) (d) (r) (gi) (g)

nh 2. Quá trình biến đổi phụ âm đầu (Ferlus 1982, 1992, Shimizu 1996)

âm từ Việt ở nội địa Việt Nam, tức là chữ Nôm giả tá, đồng thời cũng bị ảnh hưởng bởi hệ thống âm vận tiếng Hán Trung đại, tức hệ thống ngữ âm phản ánh trong Thiết vận, khi tiến hành việc phiên âm từ Việt bằng chữ Hán.

2) Tác giả của ANQDN có tư tưởng tiến bộ và tự do hơn, ít chịu ảnh hưởng của truyền thống trong khi phiên âm từ Việt.

Vì lý do trên, chúng tôi dựa vào tình hình ngữ âm phản ánh trong ANQDN mà xem xét lại vị trí của nó trong quá trình biến đổi phụ âm đầu từ Proto Việt đến hiện đại trên cơ sở hai công trình của Ferlus (1982 và 1997). Đồng thời, chúng tôi cũng đề cập đến hệ thống ngữ âm được phản ánh trong cấu tạo chữ Nôm vào thế kỷ 15 để xem xét từng giai đoạn: Proto Việt → Tk.15 (Phật Thuyết) → Tk.16 (ANQDN) → Tk.17 (TĐ VBL) → hiện đại.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Davidson, J. H., A new version of the Chinese-Vietnamese vocabulary of the Ming dynasty – I. BSOAS. XXXVIII-2, 1975, pp.296-315.

[2] Davidson, J. H., A new version of the Chinese-Vietnamese vocabulary of the Ming dynasty – II. BSOAS. XXXVIII-3, 1975, pp.586-608.

[3] Ferlus, M., Spirantisation de obstruantes mediales et formation du systeme consonantique du vietnamien. CLAO. XI-1, 1982, pp.83-106.

[4] Ferlus, M., Histoire agrégée de l’évolution des consonnes initiales du vietnamien et du sino-vietnamien. MKS. 20, 1992, pp.111-125.

[5] Ferlus, M., Le maleng brô et le vietnamien. MKS. 27, 1997, pp.55-66.



[6] Furuya Akihiro,「官話」と「南京」についてのメモ (Ghi nhớ về hai từ Quan Thoại và Nam Kinh), Kaihen, 25, Đại học Waseda, 2006, pp.119-123.

[7] Gaspardon, E., Le lexique annamite des Ming. JA. CCXLI, 1953, pp.335-397.

[8] Hoàng Thị Ngọ, Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999.

[9] Maspéro, H., Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite. BEFEO. 12-1, 1912, pp.1-127.

[10] Mineya Toru, 越南漢字音の研究 (Nghiên cứu về cách đọc Hán Việt): Toyo Bunko Ronso số 53, Toyo Bunko, Tokyo, 1972.

[11] Mori Hiromichi, 古代の音韻と日本書紀の成立 (Ngữ âm xưa và sự thành lập Nhật Bản Thư Kỷ), Taishukan Shoten, Tokyo, 1991.

[12] Nguyễn Tài Cẩn, Một số vấn đề về chữ Nôm. Nhà xuất bản đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985.

[13] Nguyễn Văn Lợi, Tiếng Rục. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1993.

[14] Shimizu Masaaki, 漢文=字喃文対訳『佛説大報父母恩重經』に見る字喃について (Về những chữ Nôm trong bản giải âm Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh), Ningen Kankyo Gaku, 5, Đại học Kyoto, 1996, pp.83-104.

[15] Shimizu Masaaki, Sự ảnh hưởng của cấu trúc âm tiết từ Hán Việt đến sự biến đổi các tổ hợp phụ âm đầu trong tiếng Việt, bài đã đọc ở khoa Ngữ Văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ngày 22 tháng 3 năm 2006.

[16] Trần Kinh Hoà, 1969, 安南訳語の研究 (Nghiên cứu về An Nam Dịch Ngữ), (nguyên đăng trên Tạp chí Shigaku, 39-3,4, 40-1, 41-1,2,3, 1966-68), 1969.

[17] Vương Lộc, An Nam Dịch Ngữ – Giới thiệu và chú giải –. Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1997.



Phụ Lục 1. Hệ thống âm vị phụ âm đầu tiếng Hán Trung đại (Mori 1991)




Toàn thanh

Thứ thanh

Toàn trọc

Thứ trọc

Toàn thanh

Toàn trọc

Âm môi

Âm tắc

幫 p

滂 pʰ

並 b

明 m







Âm xát

非 f

敷 fʰ

奉 v

微 ɱ







Âm ngạc

見 k

溪 kʰ

群 ɡ

疑 ŋ







Âm họng

影 ʔ







云 φ

曉 h

匣 ɦ










以 j







Âm lưỡi

Âm đâu lưỡi

端 t

透 tʰ

定 d

泥 n







Âm uốn lưỡi

知 ʈ

徹 ʈʰ

澄 ɖ

娘 ɳ







Âm bên










來 l







Âm răng

Âm đầu răng

精 ts

清 tsʰ

從 dz




心 s

邪 z

Âm uốn lưỡi

莊 tʂ

初 tʂʰ

崇 dʐ




生 ʂ

俟 ʐ

Âm ngạc

章 tɕ

昌 tɕʰ

船 dʑ




書 ɕ

常 ʑ













日 ɲ







Phụ Lục 2. Đối chiếu phụ âm đầu ANQDN với thanh mẫu tiếng Hán Trung đại



* Khoa Nghiên cứu Xã hội và Nhân văn, Đại học Tokyo.

* Đại học Quốc gia Australia.

*


* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.

* Đại học Quốc gia Hà Nội.

* Viện Từ điển học.

* Đại học Đà Nẵng.

* Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

 Nghiên cứu này sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu sự ủng hộ của nhiều người. Nhân đây tôi xin được gửi lời cám ơn chân thành tới các đồng nghiệp ở Khoa Ngôn ngữ học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ tôi thu thập dữ liệu và 216 em sinh viên Việt Nam và Trung Quốc đã nhiệt tình cung cấp thông tin.

** Viện Ngôn ngữ học.



* Viện Ngôn ngữ học.

* Đại học Vinh.

* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN.

* Viện Ngôn ngữ học

* Viện Ngôn ngữ học.

* Viện Ngôn ngữ học

* Đại học Quốc gia Hà Nội.

* Viện Ngôn ngữ học.

* Trung tâm Nghiên cu Ngôn ng Quc tế, Đi hc Osaka, Nht Bn.

1CHÚ THÍCH
1 Tuy vậy, trong ví dụ (16)’, đây không thể chỉ được đối tượng chưa xác định. Vào thời điểm này, lý do tại sao như vậy chưa được giải thích.

2CHÚ THÍCH

 Về bản Kiều họ Đoàn và bản gọi là bản Minh Mạng lục niên này, chúng tôi đã có giới thiệu trong bài “Về hai bản Kiều ở Thái Bình”, ở tạp chí Hán Nôm số 6 (67) năm 2004.

3 Chữ THAO trong Huỳnh Tịnh Của nói rõ là chữ Nôm. Hai chữ THAO trong 2 cuốn Việt-La của Bá Đa Lộc và Taberd chắc cũng là chữ Nôm vì có tự dạng như ở Huỳnh Tịnh Của, lại chỉ giải nghĩa bình thường là “một loại tơ lụa“.

Còn chữ THAO trong A. D. Michels thì chúng tôi đang băn khoăn không biết có phải là chữ Nôm do người Việt tự đặt ra hay không?

- Vì với cách hiểu nghĩa là mousseline (tức “một thứ hàng mỏng, thưa, mềm và nhẹ... “ (theo cách dịch của Đào Văn Tập), nó rất gần với chữ TẢO trong tiếng Hán. Chữ TẢO Hán 繰 này cũng viết là MIÊN+TÁO và cũng chỉ “một loại lụa mỏng và mịn“ (=tissu de soie mince et serré, theo Couvreur).

- Nhưng chữ TẢO 繰 này, A.D.Michels đã đọc Hán Việt một cách bất thường thành THAO vì 2 lý do:

+ Lý do thứ nhất là vì trong Khang Hy Tự điển còn có cho thêm cả cách đọc là THIÊN DAO THIẾT;

+ Và vì có đọc THAO với thanh bằng thì mới có thể dùng ở cuối câu lục được.



1 Về các chức năng của lời phàn nàn, xin xem thêm Boxer D (1996).

2 Theo nguyên tắc thống kê, nếu ma trận có nhiều ô trống hoặc nhiều ô có tần số  5 thì các kết quả thống kê sẽ không chính xác.

3 “Không phàn nàn” ở đây tính gộp cả những người quyết định không nói gì.

1CHÚ THÍCH
1 Trường ngữ nghĩa là một khái niệm trong từ vựng học. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ thống trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng. Mỗi tiểu hệ thống là một trường ngữ nghĩa. Đó là một tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa. Các từ trong cùng một trường luôn có quan hệ ý nghĩa với nhau và quan hệ này vừa là cơ sở để xác lập trường vừa có tác dụng liên kết các đơn vị từ vựng trong một trường nghĩa (xem Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1999, tr.171).

1CHÚ THÍCH

1 Dĩ nhiên, cần phân biệt với những trường hợp không đảm bảo những điều kiện tối thiểu cho sự tồn tại cuộc thoại: những người điếc, người câm, người ở trạng thái thần kinh không bình thường. Hoặc ở những tình huống mà một người nào đó cố tình im lặng, giả vờ không nghe thấy (không tham thoại, bất hợp tác) hoặc là bắt buộc phải im lặng (làm theo mệnh lệnh). Những điều kiện như vậy không cho phép thực hiện cuộc giao tiếp.

1CHÚ THÍCH

1 Chúng tôi không tính tỷ lệ phần trăm vì trong mỗi câu đố, các đặc điểm được sử dụng, nhiều ít khác nhau nên nếu tính tỷ lệ phần trăm thì con số sẽ không chính xác.

4CHÚ THÍCH
1 Để cho gọn, chúng tôi viết tắt: Tên các phương ngữ Êđê: Kp: Kpă; Kr: Krung; Ad: Adham;
Kt: Ktul; Dr: Drao; Bl: Blô; Ep: Ê pan; Md: Mdhur; Tên các ngôn ngữ Nam Đảo và Nam Á khác: Gir: Gia Rai; Chr: Churu; Rag: Raglai; CĐ: Chăm Đông; CT: Chăm Tây; ChR: Chăm Hroi; Ml: Malaysia; In: Inđônêxia; Min: Minangkabau; Sw: Sarawak; Jav: Java; Sn: Sunđa; Bal: Bali; Mad: Madura; Sre: Cơho Srê; MR: Mnông Rơlăm; MB: Mnông Bù nông; Tên các ngôn ngữ Proto: PNĐ: Proto Nam Đảo; PMl: Proto Malayic; PC: Proto Chăm; PNA: Proto Nam Á; PBN: Proto Bana Nam.

5 Về khái niệm phụ âm tiền thanh hầu hóa của chúng tôi, xin xem Đoàn Văn Phúc, Mấy vấn đề âm vị học đồng đại các ngôn ngữ Chamic, (1992); Từ những phụ âm tiền thanh hầu hóa các ngôn ngữ Chamic, trở lại vấn đề thanh điệu trong tiếng Chàm, (1993), Ngữ âm tiếng Êđê (1996), Từ vựng các phương ngữ Êđê (1998).

6 Tháng 5/2008, chúng tôi đã có dịp di khảo sát lại 8 thổ ngữ Êđê Mdhur, 4 thổ ngữ Giarai Chor, và 4 thổ ngữ Chăm Hroi ở các tỉnh Phú Yên, Gia Lai và Đắk Lắk. Chúng tôi sẽ trình bày sự tương đồng và khác biệt giữa các thổ ngữ này trong một dịp khác.

7 Thực chất các phụ âm tắc, hữu thanh ở các ngôn ngữ Indonesia, Malaysia, Bali, Java,… là các phụ âm tắc, hữu thanh, tiền thanh hầu hóa [b/ b]. Xem thêm Đoàn Văn Phúc, “So sánh từ vựng tiếng Mã Lai với các ngôn ngữ Chàm (trên cơ sở tư liệu tiếng Indonexia và tiếng Êđê)”, trong Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, Hà Nội, 1996.

8CHÚ THÍCH
 Tên kho sách của họ Hachisuka đời Edo Nhật. Hiện nay một phần kho sách được lưu trữ tại thư viện tỉnh Tokushima.

9 Trần Kinh Hoà, Sđd, tr.53-54; Davidson, Sđd, tr.301; Vương Lộc, Sđd, tr.6.

10 Trong bài này, chúng tôi sử dụng hai bản ANDN: bản chụp ảnh bản Awanokuni Bunko lưu trữ tại thư viện khoa ngữ văn Đại học Kyoto và bản sao lục trong Annankiryakuko藳, trong Q1 Toàn tập Kondo Shosai 近藤集 do Kokushokankokai行 chủ biên năm 1905, và một bản ANQDN trong Huyền Lãm Đường tùng thư 覧lưu trữ tại Toyo Bunko, Tokyo.

11 Chữ này phải được sửa là chữ 罔, vì chẳng hạn ở môn Thanh Sc 聲色có phần chữ 黄được dịch bằng罔 (vàng).

12 Xem Shimizu (2006).

13 Một bộ giải âm kinh phật Phật thuyết Đại báo Phụ̃u Ân trọng kinh (Hoàng Thị Ngọ 1999, Shimizu, Sđd)

14 Trong Pht Thuyết cũng thấy một trường hợp dịch từ thiết 鐵 bằng 可列 (Shimizu 1996). Đây cũng là một chứng cớ để tái lập * kʰr- vào thế kỷ 15.

15 Chữ này phải được sửa là chữ 罔, vì chẳng hạn ở môn Thanh Sắc 聲色có phần chữ 黄được dịch bằng罔 (vàng).

16 Alexandre de Rhodes, T đin Vit-B-La, Rome, 1651.

17 Xem Nguyễn Văn Lợi (1993).

18 Trường hợp dùng 2 mã chữ 麻兀 để dịch chữ 馬(mã) trong ANQDN có vẻ là ngoại lệ duy nhất. Vì trong tiếng Việt cổ có từ bà ngựa (thấy trong抑斎遺集巻之七, 国音詩集, 首尾吟, chẳng hạn), tương đương với từ məŋə̀ʔ trong tiếng maleng brô (Ferlus 1997). Tuy nhiên ở những mục khác dịch chữ 馬 trong ANQDN, thì chữ 麻khi nào cũng được dùng để phiên âm cách đọc Hán Việt của chữ 馬, còn chữ 兀 được dùng để ghi từ ngựa, nên đây là một trong những trường hợp tác giả ANQDN ghi âm từ Hán Việt và từ thuần Việt tương đương với nhau, như Trần Kinh Hoà phân tích (tr.54).






tải về 2.37 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương