SÁch giáo lý CỦa giáo hội công giáo sách giáo lý CỦa giáo hộI



tải về 4.7 Mb.
trang33/68
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.7 Mb.
#11671
1   ...   29   30   31   32   33   34   35   36   ...   68

1406.

Chúa Giê-su nói: " Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời...Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống đời đời...người ấy luôn kết hợp với Tôi và Tôi luôn kết hợp với người ấy" (Ga 6,51.54.56).
1407.

Bí tích Thánh Thể là trung tâm và cao điểm của đời sống Hội Thánh. Trong bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô liên kết Hội Thánh và mọi chi thể của Người vào hy lễ chúc tụng và tạ ơn, hy lễ mà Người đã dâng lên Cha một lần dứt khoát trên thập giá. Qua hy lễ này, Người thông ban tràn đầy ân sủng cứu độ trên Thân Thể của mình là Hội Thánh.
1408.

Cử hành bí tích Thánh Thể bao gồm : công bố Lời Chúa; tạ ơn Thiên Chúa Cha vì mọi ơn lành, nhất là Người đã ban Con Chí Ái cho thế gian; truyền phép trên bánh rượu và chia sẻ bàn tiệc thánh bằng việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Các yếu tố này kết thành một tế tự duy nhất.
1409.

Thánh lễ là lễ tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Ki-tô, nghĩa là công trình cứu độ được thực hiện qua đời sống, cuộc khổ nạn và phục sinh của Người. Công trình này được hiện tại hóa trong cử hành phụng vụ.

1410.

Trong hy tế Thánh Thể, Đức Ki-tô vừa là chủ tế vừa là lễ vật. Người là vị thượng tế đời đời của Giao Ước Mới, dâng lễ vật qua thừa tác vụ của linh mục. Lễ vật cũng chính là Người đang thực sự hiện diện dưới hình bánh rượu.
1411.

Chỉ những linh mục đã lãnh nhận chức thánh thành sự mới có quyền chủ tọa thánh lễ và truyền phép để bánh rượu trở thành Mình Máu Chúa.
1412.

Dấu chỉ chính yếu của bí tích Thánh Thể là bánh miến và rượu nho. Trên bánh rượu này, chủ tế đọc lời cầu xin Thánh Thần và lời truyền phép, lời chính Chúa Giê-su đã nói tại bàn tiệc ly : " Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con... Này là Chén Máu Thầy..."
1413.

Nhờ lời truyền phép, bánh và rượu biến thể, trở thành Mình và Máu Chúa Ki-tô. Dưới hình bánh rượu đã được truyền phép, chính Chúa Ki-tô hằng sống và vinh quang hiện diện cách đích thực, thực sự và bản thể, với trọn thân xác, máu thịt, linh hồn và thiên tính ( x. CĐ Trentô: DS 1640,1651).
1414.

Bí tích Thánh Thể được dâng lên như hy tế đền tội cho người sống cũng như kẻ chết và xin Thiên Chúa ban ơn lành hồn xác.
1415.

Ai muốn đón nhận Chúa Ki-tô qua việc rước lễ, phải sống trong tình trạng ân sủng. Ai biết mình đang mắc tội trọng, phải lãnh nhận bí tích Giao Hòa trước khi đến rước lễ.
1416.

Khi rước Mình Máu Thánh, chúng ta được gắn bó chặt chẽ hơn với Đức Ki-tô, được tha thứ các tội nhẹ và bảo vệ khỏi những tội trọng. Nhờ rước lễ, tình yêu của chúng ta với Đức Ki-tô được mật thiết hơn, nên sự hiệp nhất trong Hội Thánh là nhiệm thể Người, được củng cố.
1417.

Hội Thánh khuyên tín hữu nên rước lễ khi tham dự thánh lễ. Hội Thánh buộc tín hữu rước lễ mỗi năm ít là một lần.
1418.

Vì Chúa Ki-tô hiện diện thực sự, chúng ta phải tôn thờ Thánh Thể. "Khi viếng Thánh Thể, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn, dấu chỉ tình yêu và bổn phận thờ lạy Đức Ki-tô, Chúa chúng ta" (MF).
1419.

Khi lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha, Chúa Ki-tô để lại bí tích Thánh Thể làm bảo chứng chúng ta sẽ được chung hưởng vinh quang với Người. Việc tham dự thánh lễ uốn lòng chúng ta nên giống trái tim Chúa, nâng đỡ sức lực chúng ta trên đường lữ hành tại thế, làm cho chúng ta khao khát cuộc sống vĩnh cửu và ngay từ bây giờ liên kết chúng ta với Hội Thánh trên trời, với Đức Thánh Trinh Nữ Ma-ri-a và chư thánh.

CHƯƠNG HAI
CÁC BÍ TÍCH CHỮA LÀNH
1420.

Chúng ta nhận được sự sống mới của Đức Ki-tô nhờ các bí tích khai tâm Ki-tô giáo. Nhưng sự sống này được chứa "trong những bình sành" (2Cr 4,7) và đang tiềm tàng với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa" (Cl 3,3). Chúng ta hiện sống trong "ngôi nhà dưới đất" (2Cr 5,1), phải chịu khổ đau, bệnh tật và phải chết. Đời sống mới, tức là đời sống của con cái Thiên Chúa, có thể bị tội lỗi làm suy giảm hoặc hủy diệt.


1421.

Chúa Giê-su Ki-tô là thầy thuốc chữa lành linh hồn và thể xác chúng ta. Người đã từng tha tội và phục hồi sức khoẻ thể xác cho người bại liệt (x. Mc 2,1-12). Người muốn Hội Thánh, nhờ quyền năng Thánh Thần, tiếp tục công cuộc chữa lành và cứu độ. Các chi thể của Hội Thánh rất cần điều này. Đó là mục đích của hai bí tích chữa lành : bí tích Thống Hối và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.



Mục 4
BÍ TÍCH SÁM HỐI VÀ GIAO HOÀ
1422 980.

"Những ai đến lãnh nhận bí tích Thống Hối đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Người. Đồng thời, họ được giao hòa với Hội Thánh đã bị tôẽi lỗi của họ làm tổn thương. Nhưng Hội Thánh hằng nỗ lực lấy đức mến, gương lành và kinh nguyện, để hoán cải họ" (x. LG 11).



I. TÊN GỌI CỦA BÍ TÍCH NÀY
1423 1989.

Bí tích này được gọi là bí tích Hoán Cải : Tội lỗi đã làm con người lìa xa Thiên Chúa, nhưng bí tích này thực hiện lời Chúa Giê-su kêu gọi tội nhân hoán cải (x. Mc 1,15) để trở về với Chúa Cha (x. Lc 15,18).


1440.

Bí tích này được gọi là bí tích Thống Hối, vì xác định một tiến trình cho tội nhân hoán cải, ăn năn và đền tội, cả về phương diện cá nhân lẫn phương diện Hội Thánh.


1424 1456.

Bí tích này được gọi là bí tích Thú Tội : Việc thú nhận xưng tội với linh mục là một yếu tố thiết yếu của bí tích này. Theo một nghĩa sâu xa hơn, bí tích này cũng là một việc "tuyên xưng", tức là nhìn nhận và ca ngợi Thiên Chúa thánh thiện và giàu lòng thương xót đối với tội nhân.


1449.

Bí tích này được gọi là bí tích Tha Tội, vì nhờ lời xá giải của linh mục, Thiên Chúa ban cho tội nhân ơn "tha thứ và bình an" (x. OP, công thức giải tội).


1442.

Bí tích này được gọi là bí tích Giao Hòa, vì ban cho tội nhân ơn giao hòa của Thiên Chúa "anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa" (2Cr 5,20). Ai cảm nhận được tình yêu thương xót của Thiên Chúa, sẽ sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi : "Hãy đi làm hòa với anh em ngươi đã" (Mt 5,24).



II. TẠI SAO CẦN BÍ TÍCH GIAO HÒA SAU KHI ĐÃ LÃNH NHẬN BÍ TÍCH THÁNH TẨY ?
1425 1263 2838.

"Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thánh Thần Thiên Chúa" (1Cr 6,11). Phải ý thức hồng ân Thiên Chúa ban trong các bí tích khai tâm Ki-tô giáo lớn lao thế nào, mới hiểu được tội lỗi không có chỗ đứng nơi người đã "mặc lấy Chúa Ki-tô" (Gl 3,27). Nhưng thánh Gio-an tông đồ đã nói : "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội thì chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1Ga 1,8). Chính Chúa Giê-su cũng dạy chúng ta cầu nguyện : "Xin tha tội chúng con" (Lc 11,4). Người liên kết việc chúng ta tha thứ cho nhau với việc Thiên Chúa tha tội cho chúng ta.


1426 405,978, 1264.

Khi hoán cải trở về với Đức Ki-tô, tái sinh trong bí tích Thánh Tẩy, nhận lãnh hồàng ân Thánh Thần, rước Mình và Máu Chúa Ki-tô làm của ăn của uống, chúng ta trở nên "tinh tuyền thánh thiện trước mặt Người" (Ep 1,4), như chính Hội Thánh, Hiền Thê của Người, cũng "thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Người" (Ep 5,27). Tuy nhiên, đời sống mới chúng ta nhận được trong các bí tích khai tâm không tiêu hủy sự mỏng dòn và yếu đuối của bản tính nhân loại, cũng như sự hướng chiều theo tội lỗi mà truyền thống vẫn gọi là vật dục. Thiên Chúa để cho xu hướng này tồn tại nơi người chịu bí tích Thánh Tẩy để với ơn Chúa giúp họ có cơ hội chiến đấu trong đời sống Ki-tô hữu ( x. DS 1515). Mục đích cuộc chiến đấu này là hoán cải để đạt tới sự thánh thiện và sự sống vĩnh cửu mà Chúa hằng mời gọi ( x. DS 1545; LG 40.).

III. SỰ HOÁN CẢI CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC THANH TẨY
1427 541.

Đức Giê-su mời gọi chúng ta hoán cải. Lời mời gọi này là một phần cốt yếu của việc loan báo Nước Trời : "Thời kỳ đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi. Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc1,15). Khi rao giảng, Hội Thánh chuyển lời mời gọi ấy, trước hết, đến những người chưa biết Đức Ki-tô và Tin Mừng. Vì thế, việc hoán cải đầu tiên và cơ bản là bí tích Thánh Tẩy. Chính nhờ tin vào Tin Mừng và nhờ bí tích Thánh Tẩy (x. Cv 2,38), chúng ta từ bỏ sự dữ và được ơn cứu độ, nghĩa là được tha thứ mọi tội lỗi và lãnh nhận hồng ân sự sống mới.


1428 1036 853 996.

Lời kêu gọi hoán cải của Đức Ki-tô vẫn tiếp tục vang lên trong đời sống người tín hữu. Cuộc hoán cải thứ nhì này là một nhiệm vụ liên tục của toàn thể Hội Thánh; vì "mang trong lòng mình những tội nhân" và "vừa thánh thiện vừa được kêu gọi thanh luyện, Hội Thánh nỗ lực không ngừng để thống hối và canh tân" (x. LG 8). Ra sức hoán cải không chỉ là công việc phàm nhân. Do ân sủng lôi kéo và thúc đẩy (x. Ga 6,44; 12,32), chúng ta sám hối với "tấm lòng tan nát" (Tv 50,19), để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Đấng đã yêu thương chúng ta trước (x. 1Ga 4,10).


1429.

Có thể lấy cuộc hoán cải của thánh Phê-rô, sau khi chối Thầy ba lần, làm bằng chứng. Chúa Giê-su nhìn thánh Phê-rô bằng ánh mắt vô cùng thương xót, làm cho Phê-rô khóc lóc vì hối hận (Lc 22,61) và ba lần khẳng định yêu mến Chúa, sau Phục sinh (x. Ga 21,15-17). Cuộc hoán cải thứ nhì cũng mang chiều kích cộng đoàn. Ta thấy rõ điều này khi Chúa kêu gọi cả một giáo đoàn : "Hãy hối cải" (Kh 2,5.16).


Thánh Am-rô-xi-ô nói về hai cuộc hoán cải : trong Hội Thánh, "có nước và nước mắt, nước trong bí tích Thánh Tẩy và nước mắt trong bí tích Thống Hối" (Thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô 41,12).
IV. THỐNG HỐI NỘI TÂM
1430 1098.

Như các ngôn sứ thuở trước, lời Chúa Giê-su kêu gọi hoán cải và thống hối trước hết không nhắm đến những việc bên ngoài, "mặc áo vải thô, rắc tro trên đầu", giữ chay và khổ chế, nhưng đến hoán cải trong lòng, thống hối nội tâm. Nếu không có thống hối nội tâm, các việc làm bên ngoài sẽ vô hiệu và dối trá. Tuy nhiên, việc hoán cải nội tâm thúc đẩy người ta diễn tả thái độ ấy bằng những dấu hiệu khả giác, những cử chỉ và những việc làm của người thống hối ( x. Ge 2,12-13; Is 1,16-17; Mt 6,1-6. 16-18).


1431 1451 368.

Thống hối nội tâm là chuyển hướng triệt để toàn bộ đời sống, hết lòng quay lại, trở về với Thiên Chúa, đoạn tuyệt với tội lỗi, từ bỏ sự dữ, ghê tởm những hành động xấu xa đã làm. Đồng thời thống hối nội tâm cũng bao hàm ước muốn và quyết tâm thay đổi đời sống, với hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa và tin tưởng vào sự trợ giúp của ân sủng. Cuôâềc hoán cải trong lòng này đi đôi với sự đau buồn có sức cứu độ mà các giáo phụ gọi là animi cruciatus (tâm trí đau đớn) và compunctio cordis (tâm hồn hối hận) ( x. CĐ Trentô : DS 1676-1678; 1705; Giáo lý Rô-ma 2,5,4.).



1432 1989.

Lòng người nặng nề và cứng cỏi, nên phải được Thiên Chúa ban cho một trái tim mới (Ed 36,26-27). Hoán cải trước hết là công việc của ân sủng, Thiên Chúa làm cho lòng chúng ta quay về với Người : "Lạy Chúa, xin đưa chúng con về và chúng con sẽ trở lại với Chúa" (Ac 5,21). Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để bắt đầu lại. Chính khi khám phá ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà lòng chúng ta bị chấn động vì thấy tội lỗi khủng khiếp và nặng nề, nên không dám phạm tội vì sợ xúc phạm đến Chúa và bị tách lìa khỏi Người. Lòng con người hoán cải khi hướng nhìn lên Đấng bị tội lỗi chúng ta đâm thâu ( x. Ga 19,37; Dcr 12,10).


Hãy chiêm ngắm máu Đức Ki-tô và nhận biết rằng máu ấy quý giá biết bao đối với Chúa Cha, vì khi đổ ra để chuộc tội chúng ta, máu ấy ban cho toàn thế giới ơn hoán cải ( Thánh Cơ-lê-măng-tê thành Rô-ma, thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô 7,4).

1433 729 692,1848.

Từ khi Đức Ki-tô phục sinh, chính Chúa Thánh Thần "tố cáo thế gian về vấn đề tội lỗi" (Ga 16,8-9), Người cho thấy thế gian đã không tin vào Đấng Chúa Cha cử đến. Cũng chính Chúa Thánh Thần, Đấng tố cáo tội lỗi, lại là Đấng Bảo Trợ ( x.Ga 15,26): Người ban cho lòng con người ân sủng để họ ăn năn và hoán cải ( x. Cv 2,36-38; x. Gio-an Phao-lô II, DV 27-48.).


V. NHỮNG HÌNH THỨC THỐNG HỐI TRONG ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
1434 1969.

Thống hối nội tâm của người Ki-tô hữu có thể được diễn tả bằng nhiều cách. Thánh Kinh và các giáo phụ nhấn mạnh nhất ba hình thức : giữ chay, cầu nguyện và bố thí ( x.Tb 12,8; Mt 6,1-18). Đây là những cách diễn tả sự hoán cải đối với bản thân, đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Bên cạnh sự hoán cải triệt để thực hiện qua bí tích Thánh Tẩy hoặc tử đạo, các ngài còn kể đến những phương thế để xin Chúa tha thứ tội lỗi : cố gắng giao hoà với anh em, nước mắt thống hối, lo lắng đến phần rỗi tha nhân (x. Gc 5,20), khẩn cầu các thánh và thực hành bác ái -"vì tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi" (1 Pr 4,8).


1435

Trong đời sống hằng ngày, việc hoán cải được thể hiện qua những hành vi giao hoà, lo lắng cho người nghèo, thực thi cũng như bảo vệ công lý và công bình (x. Am 5,24; Is 1,17) bằng việc thú tội, sửa lỗi cho nhau, xét lại cách sống, xét mình, linh hướng, chấp nhận đau khổ, kiên trì khi bị bách hại vì lẽ công chính. Vác thánh giá mỗi ngày và bước theo Chúa Giê-su là con đường thống hối chắc chắn nhất (x. Lc 9,23).


1436 1394

Bí tích Thánh Thể và bí tích Thống Hối. Chúng ta tìm được nguồn mạch và của nuôi dưỡng cho lòng hoán cải và thống hối hằng ngày nơi bí tích Thánh Thể, vì đây là hy tế của Đức Ki-tô, Đấng giao hoà chúng ta với Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng và tăng sức cho những người sống bằng sự sống của Đức Ki-tô : Bí tích này là "phương thuốc cứu chúng ta khỏi tội lỗi hằng ngày và gìn giữ chúng ta khỏi tội trọng" (x. CĐ Trentô: DS 1638).
1437.

Việc đọc Thánh Kinh, đọc kinh Thần Vụ và kinh Lạy Cha, mỗi hành vi phượng tự và đạo đức chân thành đều làm sống lại trong chúng ta tinh thần hoán cải và thống hối, đồng thời góp phần tha thứ tội lỗi chúng ta.


1438 540 2043.

Thời điểm và những ngày thống hối trong năm phụng vụ (mùa Chay, mỗi thứ sáu tưởng nhớ Chúa chịu chết), là những thời điểm đặc biệt để Hội Thánh thực hành thống hối (x SC 109-110; CIC, khoản 1249-1253; CCEO, khoản 880-883) Đây là thời gian đăềc biệt thích hợp để tĩnh tâm, cử hành phụng vụ thống hối, để hành hương thống hối, tự nguyện hãm mình như giữ chay và bố thí, chia sẻ huynh đệ (công tác từ thiện và truyền giáo).
1439 545.

Đức Giê-su đã diễn tả tiến trình hoán cải và thống hối cách tuyệt vời qua dụ ngôn "Người cha nhân hậu" (Lc 15,11-24). Bị ảo ảnh tự do mê hoặc, người con bỏ nhà Cha ra đi. Sau khi tiêu tán hết tài sản, nó rơi vào tình trạng khốn quẫn. Nó hết sức nhục nhã vì phải đi chăn heo, và tệ hơn nữa, ước muốn ăn cám heo mà không được. Nó nghĩ lại, hối hận và quyết định thú nhận có lỗi với cha. Nó lên đường trở về. Người cha bao dung và vui mừng đón con. Đó là những nét tiêu biểu của tiến trình hoán cải. Áo đẹp, nhẫn và tiệc mừng là những biểu hiệu của đời sống mới, trong sạch. xứng đáng, tràn ngập niềm vui: đó là cuộc sống của người trở về với Thiên Chúa và với Hội Thánh là gia đình mình. Chỉ trái tim Đức Ki-tô, Đấng thấu suốt tình yêu sâu thẳm của Chúa Cha, mới mặc khải được cho chúng ta đại dương từ ái của Thiên Chúa một cách đơn sơ và tươi đẹp đến thế.


VI. BÍ TÍCH THỐNG HỐI VÀ GIAO HOÀ
1440 1850.

Tội trước hết là xúc phạm đến Thiên Chúa, là đoạn tuyệt với Người, đồng thời cũng làm tổn thương sự hiệp thông với Hội Thánh. Vì thế, khi hoán cải chúng ta được Thiên Chúa tha thứ đồng thời được giao hòa với Hội Thánh. Đây chính là điều được Phụng vụ bí tích thống hối và giao hòa diễn tả và thực hiện (x. LG 11).


Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội
1441 270,431 589.

Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội cho con người (x. Mc 2,7). Là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su tự khẳng định : "Con Người có quyền tha tội dưới đất" (Mc 2,10), và Người thực thi quyền ấy : "Tội con đã được tha" (Mc 2,5; Lc 7,48). Hơn nữa, nhân danh quyền Thiên Chúa, Người ban quyền tha tội cho một số người (x.Ga 20,21-23) để họ thực thi nhân danh Người.


1442 983.

Đức Ki-tô đã muốn rằng trong kinh nguyện, đời sống và hoạt động, Hội Thánh trọn vẹn phải là dấu chỉ và khí cụ ơn tha thứ và giao hòa Người đã mua được bằng giá máu Người. Tuy nhiên, Người ủy thác quyền giải tội cho thừa tác vụ tông đồ. Người tông đồ được uỷ thác "thừa tác vụ giao hòa" (2 Cr 5,18), được sai đi "nhân danh Đức Ki-tô"; và qua người tông đồ, "chính Thiên Chúa" khuyên bảo và nài nỉ : "Hãy giao hòa với Thiên Chúa" (2 Cr 5,20).


Giao Hòa với Hội Thánh
1443 545.

Trong đời sống công khai, chẳng những Chúa Giê-su tha tội, Người còn cho thấy hiệu quả của việc tha tội : Người đã đưa những người được tha tội trở lại cộng đồng dân Chúa vì tội đã tách lìa hoặc khai trừ họ khỏi cộng đoàn. Một dấu chỉ tỏ tường là Người cho kẻ tội lỗi đồng bàn với mình, hơn nữa, còn đến dùng bữa với họ : cử chỉ này nói lên việc họ được Thiên Chúa tha tội (x. Lc 15) và được trở về trong lòng Dân Chúa (x. Lc 19,9).


1444 981.

Khi cho các tông đồ chia sẻ quyền tha tội, Chúa cũng cho họ quyền giao hòa tội nhân với Hội Thánh. Chiều kích Hội Thánh này của nhiệm vụ tông đồ được diễn tả cách đặc biệt trong lời long trọng Đức Ki-tô nói với thánh Phê-rô : "Thầy sẽ ban cho con chìa khoá Nước Trời. Những gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; những gì con tháo cởi dưới đất trên trời cũng tháo cởi" (Mt 16,19). "Nhiệm vụ cầm buộc và tháo cởi đã được ban cho thánh Phê-rô cũng được ban cho tập thể tông đồ hiệp nhất với thủ lãnh (Mt 18,18; 28, 16-20) " (x. LG 22,2) .


1445 553.

Cầm buộc và tháo cởi nghĩa là ai bị các tông đồ loại trừ khỏi sự hiệp thông với Hội Thánh, cũng không được hiệp thông với Thiên Chúa; ai được hiệp thông trở lại, cũng được thông hiệp lại với Thiên Chúa. Giao hòa với Hội Thánh không thể tách biệt khỏi giao hòa với Thiên Chúa.
Bí tích tha tội
1446 979 1856 1990.

Đức Ki-tô đã lập bí tích thống hối cho những tội nhân trong Hội Thánh, trước hết là cho những người sau khi đã được rửa tội mà còn phạm tội trọng, đánh mất ân sủng thánh tẩy và làm tổn thương đến sự hiệp thông Hội Thánh. Bí tích thống hối cho họ có một cơ hội mới hoán cải và tìm lại ơn công chính hóa. Các giáo phụ coi bí tích này như "cái phao thứ nhì sau khi tầu chìm, tức là đánh mất ân sủng" (x Tertullianô về sự thống hối 4,2; x. CĐ Trentô: DS 1542).


1447.

Qua dòng thời gian, Hội Thánh thực thi quyền tha tội dưới nhiều hình thức. Trong các thế kỷ đầu, sau khi đã được rửa tội, mà còn phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng (thì dụ thờ ngẫu tượng, giết người, ngoại tình), các tín hữu phải chịu một hình thức kỷ luật rất khắt khe : Kẻ có tội phải thống hối công khai, thường là trong nhiều năm, trước khi được giao hòa, nhưng hiếm có người được nhận vào "hàng hối nhân" này; trong một số miền, mỗi người chỉ được nhận một lần trong đời. Trong thế kỷ thứ 7, cảm hứng từ truyền thống đan tu Đông Phương, các thừa sai Ai-len đem vào lục địa châu Âu "hình thức thống hối riêng", không đòi làm việc thống hối công khai và lâu dài trước khi được giao hòa với Hội Thánh. Từ đó, bí tích được ban cách kín đáo giữa hối nhân và linh mục. Cách thực hành này dự liệu người ta có thể được giao hòa nhiều lần và vì thế mở đường cho việc năng lãnh nhận bí tích thống hối. Hình thức này cũng cho phép kết hợp trong một việc cử hành bí tích việc tha tội trọng và tội nhe.ề Những nét chính về hình thức thống hối này Hội Thánh vẫn còn thực hành cho tới ngày nay.


1448.

Qua những thay đổi về qui định và nghi thức theo dòng thời gian, chúng ta nhận ra một cấu trúc nền tảng với hai yếu tố chính. Một mặt là những hành vi của những con người hoán cải dưới tác động của Chúa Thánh Thần : ăn năn, thú tội và đền tội. Mặt khác là tác động của Thiên Chúa qua thừa tác vụ của Hội Thánh. Nhờ giám mục và linh mục, Hội Thánh tha tội nhân danh Đức Ki-tô, âán định việc đền tội, cầu nguyện cho hối nhân và cùng làm việc thống hối với họ. Nhờ đó, tội nhân được chữa lành và hiệp thông lại với Hội Thánh.


1449 1481 234.

Công thức giải tội trong Giáo Hội La-tinh diễn tả những yếu tố cốt yếu của bí tích : Chúa Cha từ ái là nguồn mọi ơn tha thứ. Người thực hiện việc giao hòa tội nhân nhờ cuộc vượt qua của Chúa Con và hồng ân Thánh Thần, qua lời nguyện và thừa tác vụ của Hội Thánh :


Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa, mà giao hòa thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội; xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh, mà ban cho anh (chị) ơn tha thứ và bình an. Vậy, tôi tha tội cho anh (chị) nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần (x. OP 46: Công thức giải tội) .
VII. NHỮNG VIỆC HỐI NHÂN PHẢI LÀM
1450.

"Tội nhân phải tự nguyện thi hành đầy đủ những việc sau : thật lòng ăn năn, xưng tội, khiêm tốn và thành tâm đền tội" (x Giáo lý Rô-ma II, V,21; x. CĐ Trentô : DS 1673).


Thống hối ăn năn
1451 431.

Trước hết hối nhân phải ăn năn tội. Ăn năn tội là "đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa" (x. CĐ Trentô : DS 1676).


1452 1822.

Khi hối nhân ăn năn vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự, chúng ta gọi là ăn năn tội "cách trọn" (ái hối). Việc ăn năn tội này xóa bỏ các tội nhẹ và cũng đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nếu hối nhân quyết tâm đi xưng tội càng sớm càng tốt (x. CĐ Trentô : DS 1677).


1453.

Ăn năn tội "cách chẳng trọn" (hoặc hối hận) cũng là một hồng ân Thiên Chúa, một thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Nó xuất phát từ việc thấy sự xấu xa của tội lỗi hoặc vì sợ hình phạt trầm luân đời đời cũng như hình khổ khác kẻ tội lỗi phải chịu (úy hối). Lương tâm được lay động như vậy có thể manh nha một chuyển biến nội tâm, chuyển biến này sẽ được hoàn tất dưới tác động của ân sủng nhờ việc tha tội trong bí tích Giao Hòa. Tuy nhiên, việc ăn năn tội cách chẳng trọn tự nó không đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nhưng chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha tội trong bí tích Thống Hối (x. CĐ Trentô : DS 1678; 1705).


1454.

Để lãnh nhận bí tích Giao Hòa, hối nhân cần chuẩn bị bằng việc xét mình dưới ánh sáng Lời Chúa. Những bản văn thích hợp nhất có thể tìm được trong Mười Điều Răn phần giảng huấn luân lý của Tin Mừng và trong các thư Tân Ước : Bài giảng trên núi, Giáo huấn các tông đồ (x Rm 12-15; 1Cr 12-13).


Xưng tội
1455 1424 1734.

Ngay trên bình diện thuần nhân loại, xưng tội hay thú tội giải thoát và giúp chúng ta dễ dàng hòa giải với anh em. Qua việc thú tội, con người nhận mình là tội nhân, nhận trách nhiệm về tội lỗi đã phạm, nhờ đó lại sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa và hiệp thông với Hội Thánh để có một tương lai mới.


1456 1855.

Lời thú tội với linh mục là phần cốt yếu của bí tích Thống Hối : "Khi xưng tội, hối nhân phải kể hết các tội trọng nhớ được sau khi xét mình cẩn thận, dù những tội trọng này rất kín đáo và chỉ phạm đến hai điều cuối của Thập Giới (x. Xh 20,17; Mt 5,28), vì những tội này đôi khi làm cho linh hồn bị thương tổn nặng nề và nguy hiểm hơn những tôâềi phạm công khai" ( Cđ Tren-tô : DS 1680) :


1505.

“Khi có ý xưng hết các tội nhớ được, người tín hữu trông cậềy vào lòng thương xót của Thiên Chúa để được Người tha thứ. Ai cố tình giấu tội, người ấy không sẵn sàng đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa qua trung gan linh mục. Vì "nếu bệnh nhân xấu hổ không cho thầy thuốc coi vết thương thì làm sao chữa được" (Thánh Giê-rô-ni-mô, về Giáo Hội 10,11; CĐ Trentô : DS 1680).


1457 2042 1385.

Theo luật Hội Thánh, "mọi tín hữu đến tuổi khôn, phải xưng các tội trọng mình nhận thức được, một năm ít là một lần" (x. CĐ, khoản 989; x. DS 1683, 1708). Ai biết mình còn mắc tội trọng mà chưa xưng tội thì không được rước lễ, dù đã ăn năn tội cách trọn (x. CĐ Trentô : DS 1647;1661), ngoại trừ trường hợp có lý do hệ trọng và chưa thể xưng tội được (x. CIC, khoản 916; CCEO, khoản 711). Trẻ em thì phải lãnh nhận bí tích Giao Hòa trước khi rước lễ lần đầu (x. CIC, khoản 914).



tải về 4.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   29   30   31   32   33   34   35   36   ...   68




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương