Quốc Ngữ là chữ nước ta


Công cuộc truyền giáo của dòng Tên tại Việt Nam và tiếng Việt



tải về 189.5 Kb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích189.5 Kb.
#37932
1   2

2. Công cuộc truyền giáo của dòng Tên tại Việt Nam và tiếng Việt

Ở Việt Nam cũng như ở các nơi khác, nỗ lực truyền giáo đã đi đôi với những thực hiện cao độ trong lãnh vực văn hóa. Năm 1615 ngay khi khởi công truyền giáo tại Việt Nam, các tu sĩ dòng Tên của tỉnh dòng Nhật Bản đã có một kinh nghiệm hơn hai mươi năm nghiên cứu và sáng chế về ngữ học tiếng Nhật.47 Sự kiện đó rất hữu ích vì đối chiếu với tiếng Trung Hoa, tiếng Việt và tiếng Nhật có một vị thế tương tự, và vì hai thứ tiếng nầy cùng chịu chung một loại ảnh hưởng xuyên qua lối chữ vuông.48

Những bản dịch các bản văn Kitô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618, và phần thiết yếu do công của Francisco de Pina, linh mục dòng Tên sinh ở Bồ Đào Nha;49 ông đã tốt nghiệp ở trường Macao, bấy giờ nhà văn phạm nổi tiếng về tiếng Nhật Jaão Rodrigues “TÒuzzu” cũng hiện diện tại đấy từ năm 1610.50 Trong công việc của mình, linh mục Pina nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một văn nhân Việt Nam trẻ tuổi có tên rửa tội là Phêrô; kiến thức uyên bác về chữ Hán của người trẻ tuổi nầy hẳn rất là hữu ích trong công việc của Pina.                        

Những sự kiện đó rút ra từ một bản phúc trình chính thức của cơ sở truyền giáo: “người ấy [một nhân sĩ thân quen với đoàn truyền giáo] có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên lanh lợi và thông minh nhất trong vùng; anh nầy lại viết tiếng hán rất đẹp, được dân chúng hâm mộ vô cùng... Anh tên thánh rửa tội là Phêrô, nhờ có tài hay chữ nên giúp linh mục rất nhiều trong việc dịch kinh Pater noster, Ave Maria, Credo và Mười điều răn ra tiếng địa phương, (các kinh) mà Kitô hữu đã thuộc lòng. Linh mục cũng viết ra các điều phải tin bằng tiếng địa phương ấy; trong bản đó người ta tuyên xưng rõ rệt chỉ có một Đức Chúa Trời, các mầu nhiệm về Ba Ngôi, về Chúa Nhập thể làm người, về chuộc tội, cũng như sự cần thiết của đức tin và các bí tích để được tham dự vào ơn ích của Chúa Kitô, Chúa chúng ta. Các kitô hữu chép lại tất cả những điều ấy, và đã bắt đầu lần hạt mân côi y như tại xứ chúng ta.51 Theo thói quen thực hiện các biên bản hằng năm của các tu sĩ dòng Tên, “linh mục”, tác giả các công trình liên hệ không minh nhiên được nêu tên. Ba tu sĩ dòng Tên bấy giờ có mặt tại cơ sở truyền giáo Pulo Cambi (có thể tương ứng với tên gọi Quy Nhơn ngày nay), lúc công trình nầy tiến hành là: linh mục Buzomi, bị “bịnh nặng, nên không đi giảng cho người ta trở lại được”,52 linh mục Pina và linh mục Borri, một người vừa đến và mới bắt đầu học tiếng. Chúng ta hiểu rằng các công trình được thực hiện dưới sự giám sát của Buzomi, cựu bề trên cơ sở truyền giáo Đàng Trong (1615-1618) và hiện là bề trên cơ sở địa phương, nhưng những tác nhân chính yếu thực hiện công trình nầy là linh mục Pina và chàng thanh niên Việt Nam cộng tác với ông ấy. Theo chính lời xác nhận của chính linh mục Pina, ngay từ năm 1622, ông đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự latinh cho thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt Nam. Ông đã làm được một tuyển tập và bắt đầu viết một bản văn phạm. Kết quả đó, linh mục Pina đã đạt được một cách vất vả, với sự trợ giúp của một số ít học sinh Việt Nam qui tụ chung quanh ông.53

Nhà chép sử dòng Tên Bartoli cho rằng Buzomi sáng tác một hệ thống văn phạm và ngữ vựng.54 Một trong những chứng lý là một bức thư viết năm 1662 mà chúng tôi không thể tìm ra. Có thể có sự lẫn lộn với Pina chăng. Một cách chung, các xác quyết của Bartoli liên quan đến các kiến thức ngữ học tuyệt vời của người đồng hương của ông là Buzomi lại không ăn khớp với những tài liệu tồn trữ mà chúng ta có thể truy cứu. Ngoài ra cũng cần lưu ý rằng Bartoli xem ra không biết đến những công trình sáng tác ngữ học của Pina, lại nhìn nhận khả năng của vị nầy. Tiếp sau bản tường thuật về cái chết của nhà truyền giáo Bồ đào nha ngày 15 tháng 12 năm 1625, Bartoli đã viết như thế nầy thay cho bài điếu văn: ” Linh mục Pina là người Bồ đào nha, thọ 40 tuổi. Ngài được người ngoại giáo mến chuộng , vì ngài nói tiếng của họ, như chính ngài là người bản xứ Đàng Trong vậy”.55

Năm 1624, Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho những người ngoại quốc đầu tiên,56 trong đó có hai học trò rất cự phách: linh mục người Bồ Đào Nha António de Fontes,57 một nhà truyền giáo kỳ cựu và sẽ là một trong những cột trụ cho xứ truyền giáo Đàng Trong; và Alexandre de Rhodes mà chúng ta nói đến. Vị nầy sớm được gọi để thành lập xứ truyền giáo Đàng Ngoài, nơi mà Ngài sẽ thực hiện sứ mạng của mình từ năm 1627 đến năm 1630.

Ngày 15 tháng 12 năm 1625, một tàu buồm Bồ đào nha bỏ neo ở vịnh Đà nẳng, không cập bến được vì sợ bão. Một chiếc thuyền rời cảng đi đến tàu. Pina lên tàu để mang hàng hóa cần thiết lên bờ: rượu vang và bột lúa mì để dâng lễ. Khi trở lại bờ, một cơn gió mạnh làm chìm thuyền; bị vướng bởi chiếc áo dòng, Pina chết đuối, trong lúc thủy thủ đoàn được cứu. Đây là cái tang lớn cho dân chúng địa phương cũng như cho sở truyền giáo; một chiếu chỉ trục xuất các nhà truyền giáo được đình chỉ thi hành, cho phép cử tang trong ba tháng, và rồi lại hủy bỏ luôn.58

Nhưng đừng tưởng rằng sau cái chết bi thảm của Francisco de Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đã giảm bớt nỗ lực về ngữ học. Công việc của các vị tiên phong ấy vẫn được tiếp tục ít nhất trong hai thập niên. Cố gắng của họ trước hết nhằm sáng tạo một ngữ vựng Kitô giáo và viết ra những phần căn bản về văn chương Kitô giáo.59 Vai trò của các văn nhân Kitô giáo Việt Nam ở đây cũng rất lớn; một số tên tuổi của họ cần được nêu lên.60

Mặt khác nỗ lực phân tích văn phạm và ngữ âm tiếng Việt được tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống để kiện toàn dần hồi lối viết bằng mẫu tự latinh gọi là quốc ngữ, đây là một công trình tập thể, khó mà phân định được phần riêng nào của một ai. Nhưng điều chắc chắn là Alexandre de Rhodes sớm tách ra khỏi công trình tiếp tục nầy vì vào lúc ấy ông vắng mặt ở xa tận Macao từ năm 1630 đến 1640: Ở tại đây, ông thi hành tác vụ của mình trong môi trường sống của người Trung Hoa, mặc dầu vẫn tiếp tục theo dõi những tiến bộ được thực hiện tại Việt Nam.61 Chính ông đã nêu tên của hai nhà từ-vựng-học nổi tiếng nhất trong bài tựa cuốn từ điển62 : hai người Bồ Đào Nha Gaspar do Amaral63 và António Barbosa.64

Trong công trình sáng tác độc đáo nầy của các linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam, giai đoạn trưởng thành đánh dấu bằng một cuộc định chuẩn, một cuộc thảo luận mâu thuẫn được tổ chức tại Macao vào năm 1645 để bàn về một vấn đề gây tranh cãi liên quan đến hệ thống thuật ngữ Kitô giáo bằng tiếng Việt.65 Kho tài liệu lưu trữ còn giữ lại cho chúng ta tên tuổi các chuyên gia lão luyện chi phối các cuộc thảo luận: bên cạnh Amaral, được chỉ định như nhà chuyên môn tài ba nhất (peritissimus), và Barbosa, còn thấy Baltazar Caldeira, sinh ở Macao, cũng như Manuel Pacheco và Pêro Alberto; hai vị sau nầy đều sinh ở Bồ Đào Nha. Đối diện với họ, Alexandre de Rhodes chủ trương một lập trường trái ngược; và ý kiến của ông bị gạt bỏ. Mặc dầu sau đó một vị dòng Tên người Sicilia còn trẻ, tên Metello Saccano66 hăng say hỗ trợ cho lập trường của ông, nhưng rồi quyết định trên vẫn giữ lại.

Thực ra, vấn đề không chấm dứt ở cuộc hội năm 1645. Theo đề nghị của Alexandre de Rhodes, vấn đề được đưa về Roma và được nghiên cứu lại trong những năm của thập niên 1650 trước bộ Truyền bá Đức tin, và sau đó trước bộ Thánh vụ.67 Có một bức thư khá kỳ lạ của tu sĩ dòng Tên người Ý Giovani Filippo Marini gửi cho các bề trên của mình tại Rôma về việc nầy, thư viết vào năm 1655.68 Với giọng văn có vẽ tranh cãi, trong thư tác giả nêu lên khả năng đáng nghi ngờ của Rhodes về ngữ học Việt Nam. Tu sĩ nầy cố đánh giá thấp Rhodes vì Rhodes nói theo tiếng Đàng Trong, “đánh giá là quê kệch” so với tiếng chuẩn ở kinh đô; cũng với tiếng nói phía nam ấy mà chính tả của cuốn Từ điển dường như thấy xuất hiện trong một vài trường hợp. Nhưng cốt lõi vấn đề không phải ở đó: nó liên quan đến nghĩa chính xác của lối nói hán-việt (không liên quan đến âm giọng địa phương) “nhin danh [Cha]”. Lối nói nầy về mặt thần học mơ hồ vì thiếu một chữ nhằm nói đến số ít về mặt văn phạm. Rhodes đòi phải thêm vào một phụ-từ, sợ rằng người ta nghĩ có ba “danh”, và như thế là ba quyền lực siêu nhiên khác biệt; trong trường hợp đó, phải chăng đã đi ra ngoài tín lý kitô giáo, và phải chăng phải nghĩ đến chuyện rửa tội lại các kitô hữu.

Nên lưu ý là lối nói do các vị chuyên môn của cuộc họp định chuẩn nầy vẫn còn được sử dụng trong Giáo hội Việt Nam ngày hôm nay. Tất cả các nhà chuyên môn ấy, đều là người Bồ đào nha.

  

3. Những người Bồ Đào Nha tại Viễn Đông: tiếng tăm của họ và những tiền kiến lịch sử

Người ta có thể tự hỏi tại sao lịch sử đã ghi lại quá ít những sự việc nầy, đến độ đôi khi xem sự hiện diện và công việc làm của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha ở Việt Nam như quá ít ỏi không đáng kể. Hẳn nhiên, hình ảnh của Bồ Đào Nha ngày nay trên thế giới đã xuống cấp: xưa kia là một cường quốc thế giới, nhưng nay quốc gia nầy đi đến độ hầu như là hình ảnh “Cô Lọ Lem” của Tây Âu. Thực ra, ngay từ các thế kỷ trước đã từng có lập trường chống Bồ Đào Nha, mà sự kiện ghi lại một cách chắc chắn trong các tài liệu. Qua các tài liệu nầy, chúng ta có hai thí dụ.                      

Năm 1653, tu sĩ dòng Tên người Ý Daniello Bartoli trình lên ban kiểm duyệt của Hội Dòng một bộ sách lớn viết về lịch sử rao giảng Phúc Âm ở Trung Hoa, bộ sách đó cũng sẽ là đại tác phẩm cổ điển đầu tiên về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam;69 hai trong ba vị kiểm duyệt bấy giờ đã trách cứ tác giả về lập trường chống Bồ Đào Nha của ông.70 Người ta cũng thấy một phản ứng tương tự trong bản chính của các thư của Goswin Nickel, Bề trên tổng quyền của các tu sĩ dòng Tên, gửi vào giữa các năm 1655 và 1662 cho các tu sĩ trong dòng gốc người Ý và người Pháp ở Việt Nam và Viễn Đông. Trong các thư, ngài tỏ ra khó chịu về những lời tấn công có tính cách cố chấp của các tu sĩ trên đây chống lại những vị người Bồ Đào Nha, các phương pháp cũng như các việc họ thực hiện: các cha có quyền tố giác các lỗi lầm của người nầy hay người nọ, nhưng làm mất uy tín một quốc gia một cách chung như thế thì không thể chấp nhận được,71 ngài nói một cách thiết yếu với các vị liên hệ như thế.                    

Nên đặt gần hai sự kiện đó với hai dữ kiện lịch sử khác thường được biết đến. Các vị thừa sai Paris và các vị giám quản tông tòa do Tòa thánh gởi đến Việt Nam từ năm 165972 chỉ có thể cũng cố được quyền uy của mình tại nước nầy với giá của một cuộc xung đột lâu dài và cam go chống lại các tu sĩ dòng Tên: Các vị dòng Tên chống lại họ nhân danh sự trung thành hầu như không suy suyển đối với sự bảo trợ của triều đình Bồ Đào Nha.73 Trong cuộc tranh cãi sôi động nầy và tiếp theo đó, dường như người ta đã đưa ra nhiều phê phán bất công: có khuynh hướng muốn nêu lên tình trạng vô-thẩm-quyền về mặt pháp lý hoặc sự bất lực của những vị đến trước, hoặc phóng đại những thiếu sót của họ để biện minh cho sự can thiệp độc đoán của kẻ mới đến. Cuối cùng như ở phần đầu, chúng tôi đã nêu lên vai trò đặc biệt của Pháp tại Việt Nam hai thế kỷ sau đó: vì muốn truy tìm những sự kiện đã có từ xa xưa nơi “cuộc viễn chinh của mình”, trong đó việc truyền bá Phúc âm, xâm lăng bằng quân sự và ý đồ thực dân chen lẫn với nhau, mà người ta tin là khởi thủy có từ năm 1624, năm Alexandre de Rhodes đến Việt Nam, xem đây như một dấu chỉ của một sự tiền định về vai trò mà nước Pháp và người Pháp được gọi để thi hành tại xứ này.74

Chúng tôi nghĩ rằng đây hẳn là toàn bộ các sự kiện có thể giải thích phần nào về sự quên lảng, giảm thiểu, ngay cả việc xóa bỏ vai trò cốt cán mà Bồ Đào Nha đã thực hiện tại Việt Nam xuyên qua các vị truyền giáo dòng Tên trong thế kỷ XVII, nơi những tác phẩm đặc biệt nghiên cứu vấn đề liên hệ.75 Ngoài ra phần lớn các tác phẩm nầy đã được xuất bản trong khung cảnh văn hóa của Pháp76 : người ta cố ý làm nổi bật sự hiện diện và ảnh hưởng của Pháp,77 đôi khi có tính cách phản niên kỷ. Còn đối với giới nghiên cứu người Việt, cho đến nay dường như hầu hết họ khó tránh khỏi tình trạng bất cập vì không thông hiểu tiếng Bồ Đào Nha, nên phần lớn chịu ảnh hưởng của những gì đã được xuất bản bằng tiếng Pháp.78 Năm 1990, một Hội Nghị Khoa Học Quốc Tế về thành phố Hội An đã được tổ chức tại Đà Nẵng. Nếu dựa vào bối cảnh được trình bày trên đây, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy không những cựu đế quốc thực dân bị đặt ra bên lề, mà ngay cả nước Bồ Đào Nha cũng bị lảng quên, trong khi đó lại có phần của Hòa Lan.79

Đối với người Việt Nam hôm nay, vấn đề gặp gỡ các nền văn hóa giữa Việt Nam và Tây phương còn vướng vấp nhiều điểm gây tranh cãi, như chính chúng tôi đã từng kinh nghiệm được.80

  

4. Cuộc tranh luận về lịch sử được nêu lên lại như thế nào?

Cũng vào năm 1645, thời điểm tổ chức tại Macao cuộc bàn luận ngữ học với nhiều ý kiến mâu thuẫn như đã nêu lên, thì Alexandre de Rhodes lại được vị bề trên Manuel de Azevedo ủy thác một sứ mệnh tại Roma.81 Chúng tôi sẽ không đề cập ở đây về những khía cạnh ngoại giao của chuyến đi, cũng như những hậu quả của chuyến đi ấy đối với các xứ truyền giáo tại Viễn Đông82 : những hậu quả nầy rất đau khổ cho Bồ Đào Nha, nhưng không thể qui lỗi cho linh mục Rhodes.83 Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một sự thành công không thể chối cãi và cũng không ai đặt thành vấn đề: việc xuất bản tại Roma cuốn từ điển và cuốn giáo lý mà nhà truyền giáo ấy mang theo trong hành lý của mình, cũng như một số tác phẩm lịch sử khác về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Dựa vào những tác phẩm được xuất bản nầy mà nhân vật Alexandre de Rhodes bắt đầu trở thành truyền thuyết, hầu như thần thoại đối với lịch sử của các công cuộc truyền giáo tại Việt Nam cũng như đối với lịch sử tiếng Việt.84

Chúng tôi thấy đây là một sự sai lầm về lịch sử. Hẳn nhiên, Rhodes là một nhà truyền giáo lớn, nhưng không phải là một siêu nhân: khẩn thiết phải trả lại thực trạng con người cho con người ấy, và đặt lại công trạng nầy trong bối cảnh lịch sử thật của nó. Ngoài những vấn đề liên quan đến nỗ lực xây dựng cho ngữ học Việt Nam, mà chúng ta sẽ bàn thảo, chúng ta nêu lên đây một vấn đề khác nữa.          

Kitô giáo tại Việt Nam, mặc dầu đã được du nhập vào từ ba thế kỷ rưởi, vẫn còn là một thiểu số bị chống đối; thiểu số đó đã từng chịu đựng và còn tiếp tục chịu đựng một sự tẩy chay thực sự trong xã hội. Nhiều người gièm pha trách cứ rằng Kitô giáo đã được nhập cảng đến trong mớ hành lý của giới thực dân người Pháp, mà hẳn Alexandre de Rhodes là kẻ mở đường.85 Việc phục hồi danh dự rất gần đây cho vị nầy từ phía nhà cầm quyền không gột bỏ hết truyền thuyết xấu xa đó, đặc biệt trong sinh hoạt hải ngoại của người Việt Nam.86 Thiết định lại sự thật lịch sử về những nguồn gốc của cộng đồng công giáo sẽ nêu lên được một cách hiển nhiên những thực trạng hoàn toàn khác: chính trong khuôn khổ của một sự đối thoại và trao đổi với nhau, một cách hoàn toàn bình thản, giữa người Bồ Đào Nha và người Việt Nam mà các nhà truyền giáo, những con người tự do và chân thành, đã thành công trong việc làm cho một phần dân chúng nghe theo mình. Trong bầu khí thông cảm xâu sa, họ đã hòa mình vào ngôn ngữ và tập tục của những người đối thoại với họ; những người nghe họ đã chọn lựa một cách tự do, và gia nhập vào đức tin mới, được biểu lộ ra trong chính ngôn ngữ của mình. Trong khung cảnh như thế, linh mục Rhodes, thần dân của Giáo hoàng, đã thi hành tác vụ của ông y như các huynh đệ cùng dòng người Bồ Đào Nha, Ý hoặc Nhật Bản.                      

Tìm lại sự thật lịch sử, đằng sau huyền thoại được tô vẽ trong cái nhìn theo lối Pháp, là một nỗ lực đặc biệt gian nan và bạc bẽo. Nhưng để thực hiện công tác nầy, sử gia nghiên cứu về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam lại có được những nguồn tài liệu phong phú. Đây không phải là những tài liệu chính thức, dẫu thuộc lãnh vực chính trị hay kinh tế; những tài liệu như thế đã từng được biết đến và phần lớn đã được xuất bản và khai thác. Hơn nữa, chẳng bao giờ có thuộc địa Bồ Đào Nha thực sự tại Việt Nam và những trao đổi chính trị lại rất ít: hiệp ước duy nhất là thỏa ước nhất thời Bồ-Việt năm 178687 . Loại tài liệu ấy chỉ giúp xác định bối cảnh xã hội, kinh tế của công cuộc truyền giáo, chớ không xác định được nội dung của nó.                

Phần thiết yếu của các nguồn tài liệu gồm các bản chép tay do các tu sĩ, phần lớn lại chưa xuất bản. Nói chung, thì ta nên lưu ý là những tài liệu chưa xuất bản có giá trị nghiên cứu hơn những bản đã được xuất bản, nếu chúng có thể tìm được, vì thời đó việc xuất bản trước hết nhằm đào tạo những tâm hồn đạo đức của Âu châu88 và do đó có thể được gọt giũa cho ăn khớp với mục đích nầy. Những bản viết tay, đặc biệt là những bản báo cáo chính thức và trao đổi thư từ riêng tư giữa các tu sĩ dòng Tên, phần lớn được lưu trữ ở Lisbonne, ở Madrid và nhất là ở Roma, rải rác trong nhiều bộ sưu tập.89 Chúng được viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, một số ít bằng tiếng latinh, và đôi khi bằng tiếng Ý. Chính nội dung của chúng sẽ cho phép ta thiết lập lại niên kỷ của công cuộc truyền giáo một cách chi tiết, và thấy rõ vai trò của mỗi một tác nhân trong công cuộc truyền giáo nầy một một cách đúng mức. Cũng nhờ việc làm nầy, các tiến bộ và những bất

...


Câu hỏi trong khuôn khổ lịch sử khách quan:
Ai đã thành lập Giáo Hội Việt Nam?


LTS Tập San Định Hướng : Nhật báo Công Giáo Pháp La Croix ngày 18/1/1996 tường trình về chuyến viếng thăm chính thức của phái đoàn hàng giáo phẩm Công Giáo Pháp đến Việt Nam. Phái đoàn do Tổng Giám Mục Joseph Duval, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp hướng dẫn. Ký giả Frédéric Mounier viết rằng: “Cho đến ngày 28-1, các Giám Mục Pháp sẽ gặp các Giám Mục Việt Nam. Chuyến đi sẽ dẫn họ từ Hà Nội đến Huế. Dẫu có lời yêu cầu của họ, chính quyền không cho phép họ đi đến miền Nam. Đức Cha Duval nhấn mạnh đến “bổn phận” của Giáo Hội Pháp đối với Giáo Hội huynh đệ Việt Nam. “Giáo Hội này có gốc từ Pháp, nó đã được thành lập nhờ những nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Như thế trong tinh thần của những người đã khai sáng nên Giáo Hội này, đây đúng là một cuộc hành hương”. Mười Linh Mục của Hội Thừa Sai Balê đã chết tử đạo tại đây, và đã được phong thánh...”.
Lối tường trình sự kiện và nội dung câu trích dẫn lời phát biểu (nhấn mạnh) của Giám Mục Joseph Duval đã dấy lên một câu hỏi cho Roland Jacques, một nhà nghiên cứu về lịch sử Giáo Hội Việt Nam: trên bình diện khách quan của lịch sử, có những vấn đề nào cần lưu ý về lời phát biểu này?. Tháng 2-96, Roland Jacques đã viết thư cho Đức Tổng Giám Mục Joseph Duval để trình bày về quan điểm của mình liên quan đến lời phát biểu đó.
Một bản văn tóm lược bức thư này đã được đăng trên nhật báo La Croix vào tháng 6-1997. Nguyên bản bức thư được Nguyễn-Đăng-Trúc, dịch ra Việt ngữ  và đăng  trên Tập San Định Hướng số 14 / Winter 1997  Pp 120-124- *  Tập San Đinh Hướng,  Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ

Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có phải phát xuất từ Pháp không?



Ts Roland Jacques
Gs khoa trưởng Phân khoa Giáo Luật, Đại học Công Giáo St Paul, Ottawa, Canada
Thư gởi Đức Cha Joseph Duval,
Chủ Tịch Hội Đồng Các Giám Mục Pháp.
Kính Đức Cha,
Nhật báo Công Giáo La Croix ngày 18-1-1996 đã cho phổ biến một bài báo ký tên Frédéric Mounier với tựa đề: “Giáo Hội Pháp quay lại với Giáo Hội của Việt Nam”. Cơ hội để có bài báo này, một bài báo vốn rất đáng lưu ý, là cuộc khởi hành của một phái đoàn Giám Mục Pháp đi Việt Nam. Ký giả trích dẫn trong ngoặc kép những lời phát biểu mà Đức Cha đã nói để giải thích lý do chuyến viếng thăm này: “Giáo Hội này có gốc từ Pháp, nó đã được thành lập nhờ những nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Có lẽ người ta đã méo mó những lời nói của Đức Cha, nhưng dẫu sao một sự xác quyết như thế là một sự sai lầm lịch sử, và là một phương cách rất đáng tranh cãi để chuẩn bị khung cảnh (thuận lợi) cho cuộc gặp gỡ.
Ai đã thành lập nên Giáo Hội Việt Nam?
Trả lời cho câu hỏi có tính cách lịch sử này, phải khẳng định (sans ambiguité) rằng các vị thành lập, kể từ năm 1615, là những giáo sĩ dòng Tên của tỉnh dòng Nhật Bản, tỉnh dòng có tính cách quốc tế trong việc tuyển chọn (nhân sự) và thuần túy Bồ Đào Nha trong các mối lệ thuộc về mặt pháp lý. Từ thế kỷ 16, các vị thừa sai Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha thuộc nhiều Hội dòng tu khác nhau đôi lúc đã cố thử mở đường rao giảng Phúc Âm, nhưng phải đợi đến phương pháp và sự kiên trì quyết tâm của các tu sĩ dòng tên để thấy được những hy vọng đó được cụ thể hóa. Khi những vị người Pháp đầu tiên – các tu sĩ Joseph Francis Tissanier và Pierre Jacques Albier – đi tàu biển đến xứ này vào năm 1658, thì có gần 70 vị truyền giáo gồm tám quốc tịch đã tiếp tục nhau đến trước, trong số đó có 35 vị người Bồ Đào Nha, 19 vị người Ý và 7 vị người Nhật. Vào chính thời gian này, theo những ước tính lạc quan nhất, thì số người Kitô hữu Việt Nam đã có trên 100.000 rải rác trong vài trăm cộng đoàn địa phương. Những người giáo dân được đào tạo kỹ lưỡng hướng dẫn họ; (những giáo dân này) có đủ khả năng để đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn nhất; ngay từ các năm 1644 đến 1645, họ đã có những vị tử đạo của họ, đó là những vị tử đạo đầu tiên với một danh sách rất dài.
Thật sự có sự kiện là lịch sử được viết theo lối người Pháp cố nêu lên sự nghiệp to lớn này cho một mình cha Alexandre de Rhodes. Tuy nhiên cần thiết phải đặt lại con người truyền giáo nổi danh này trong khung cảnh thực (của lịch sử). Ngài sinh tại Avignon, lãnh địa của Giáo Hoàng, cha Rhodes cũng không phải người Pháp như trường hợp của thánh François de Sales, dẫu ngài thuộc nền văn hóa Pháp như vị kia. Ngài vào Hội Dòng Chúa Giêsu tại Roma, và chính lý lịch Roma này đã cho phép ngài được đi đến Đông Phương vào một thời kỳ mà người Pháp không có quyền. Khi cha Rhodes đến Việt Nam vào năm 1624, các nền tảng xây dựng Giáo Hội Kitô giáo đã được thành lập vững chắc tại vùng miền Trung; công trạng lớn lao của ngài là đã đưa cuộc truyền bá Phúc Âm đến miền Bắc xứ này; ở đây ngài chỉ lưu lại một thời gian duy nhất từ năm 1627 đến năm 1630 và đó là một thành quả lớn lao cho việc truyền giáo. Ngoài ra, tên tuổi ngài được gắn liền với các công trình ngữ học về tiếng Việt nhờ những tác phẩm ngài đã xuất bản tại Âu Châu vào năm 1651. Trong lãnh vực này cũng như trong công việc truyền giáo nói riêng, sự thành công của ngài lệ thuộc vào công trình của các vị tiên phong đi trước ngài. Đây là một công trình tập thể rõ rệt, không thể gán cho công lao một xứ nào riêng, dẫu người Bồ Đào Nha gián tiếp đã là những bậc thầy thi công, cũng như họ là những người thợ đông nhất.
Hội Dòng Truyền Giáo Ngoại Quốc Paris (MEP) và các vị tử đạo
Khởi từ năm 1664 (miền Trung Việt Nam) và 1666 (miền Bắc), Hội Dòng Truyền Giáo Ngoại Quốc Paris đã cống hiến một thế hệ thứ ba các người thợ Phúc Âm, và đặc biệt những vị Giám Mục đầu tiên mà Roma muốn ban cho Giáo Hội còn trẻ này. Tiếp đó, các Cha đường du Bac đã đóng một vai trò có tầm vóc quan trọng to lớn không thể chối cãi được trong Giáo Hội của Việt Nam. Nhưng không vào một thời kỳ nào bất kỳ, kể cả dưới thời thực dân Pháp trong các năm của thập niên 1860, các vị truyền giáo Pháp không phải đã là những vị truyền giáo duy nhất tại Việt Nam. Tác giả bài báo đã nhắc lại rất đúng rằng mười trong các vị truyền giáo Pháp đã bị giết chết vì đức tin trong thế kỷ 19; cách đây vài năm, họ được tôn vinh vào bậc thánh tử đạo cùng một lúc với 96 vị tử đạo tại Việt Nam. Nhưng khi nói đến các vị truyền giáo ngoại quốc chịu tử đạo, có lẽ đúng hơn đừng cho người ta hiểu rằng người Pháp là những vị tử đạo đầu tiên, và chỉ có người Pháp mà thôi. Trong nhóm các vị thánh đã được Giáo Hội tôn vinh, thực ra có 11 vị dòng Đaminh gốc Tây Ban Nha, mà những vị lâu đời nhất trong họ đã từng chịu án tử ngay từ năm 1745, nghĩa là 88 năm trước thánh François Isidore Galelin. Còn những vị tu sĩ Dòng Tên thuộc tỉnh dòng Nhật bản, họ lại đã đi trước tất cả các vị này, với hai vị tử đạo người Ý vào năm 1723, ba vị người Bồ Đào Nha và một vị người Đức vào năm 1737; sự việc Roma đã chưa chuẩn y sự tử đạo của hai nhóm này lệ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử, trong đó các nạn nhân này không can dự gì.
Những người Công Giáo Việt Nam và nước Pháp
Trong các lời nói của Đức Cha, không phải chỉ có sự sai lầm lịch sử là đáng tiếc. Thật vậy, hẳn nhiên là vô tình, nhưng Đức Cha đã mang lại một thế dựa cho một luận cứ từng gây nên nhiều tai hại cho người Công Giáo Việt Nam, và luận cứ đó từ mấy năm nay lại dấy lên lại một cách mạnh mẽ. Lời mỉa mai của dân chúng hoặc cả đến các giáo sư đại học tên tuổi đã từng kịch liệt chứng minh về sự thông đồng giữa Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp và sự lan tràn của đạo Công Giáo vào Việt Nam. Nhiều đợt, người Công Giáo xứ này đã phải đương đầu với lời luận tội như là “đảng” của người ngoại quốc, đóng vai kẻ thù của xứ sở. Hôm nay cũng như hôm qua, ở Việt Nam và ở hải ngoại, nhiều người thuộc nhiều chủ trương ý hệ khác nhau dường như muốn thấy tôn giáo nhập cảng từ trong các gói hành lý của người Pháp (theo lối nói của họ) tan biến đi. Nếu ngày nay các mối liên hệ của Giáo Hội Việt Nam với các Giáo Hội anh em trên toàn thế giới còn gặp nhiều khó khăn, một phần lớn cũng do sự nghi ngờ luôn hiện hành này, do chính sự bất công lịch sử trong đó chúng ta, những người Pháp, không phải là bàn tay hoàn toàn sạch.
Vào lúc lên đường đến Việt Nam, Đức Cha thấy phải khẩn trương để nhắc lại cho Giáo Hội xứ này một nguồn gốc người Pháp nặng tính cách giả thiết này hay không? Làm như thế, các lời nói của Đức Cha dường như lại đặt Giáo Hội ấy trong một vị thế mãi lệ thuộc và mang nợ với Giáo Hội Pháp, hoặc nước Pháp nói gọn như thế; các lời ấy củng cố cho những lập trường của những người gièm pha Giáo Hội Việt Nam, và làm giảm uy thế những luận chứng của tất cả những ai đang nỗ lực thiết định lại chân lý lịch sử hầu trả lại danh dự cho Giáo Hội Việt Nam.
Kính thưa Đức Cha, không phải như thế, Giáo Hội Việt Nam không phải phát sinh do người Pháp. Giáo Hội đó là con của Giáo Hội hoàn vũ đúng theo mẫu mực điển hình của nó; trong thời còn non trẻ, Giáo Hội này đã hưởng được sự cung ứng của nhiều nền văn hóa và truyền thống dị biệt, cho phép nó dần hồi bước đến tuổi trưởng thành theo con đường đặc thù của mình. Ngày nay, khi phải đương đầu với nhiều vấn đề, Giáo Hội này ưu tiên phải (tự củng cố), xác định vị thế đặc thù của mình, tìm lại chỗ đứng trọn vẹn trong lòng của xã hội Việt Nam và trong nền văn hóa có từ ngàn năm của Việt Nam, với những giá trị mà Giáo Hội đó đang ôm sẵn và chúng cũng là những giá trị của Công Giáo tính phổ quát. Trong viễn tượng này, Giáo Hội Việt Nam không cần đến một quyền lực đỡ đầu, nó không chờ đợi để được “bú mớm” bởi bất cứ ai. Người Công Giáo Việt Nam chỉ cần tìm lại những mối liên hệ hiệp thông, chia sẻ và liên đới cụ thể hơn và thiết thực hơn với những người Kitô hữu anh em trên thế giới, như bao nhiêu người Công Giáo trong tất cả các xứ khác. Chúng ta hết lòng mong mỏi rằng cuộc viếng thăm của phái đoàn Giám Mục Pháp sẽ cống hiến điều đó.

 
From: Le Tat Luyen

Date: August 22, 2017 at 6:50:04 AM PDT

To: Van Ai



Subject: Lich sử chữ quốc ngữ, gửi lại


Tôi gửi thư kèm với file dài 28MB, thấy có vấn đề không biết thư có đến Văn không, nên tôi gửi lại, bỏ attached.

Văn thân mến,

Cám ơn Văn đã chuyển.
Chuyện Lịch sử chữ quốc ngữ thì ngày xửa ngày xưa (đã lâu lắm rồi, thời mà hơn một nửa người trên thế giới chưa sinh ra!!!), LM Đỗ quang Chính đã đi một vòng các thư viện Âu Châu: Paris, Lisbonne, Rome, Avignon, Madrid, tham khảo và viết một cuốn sách, in tại Saigon năm 72. Nhà tôi có một bản ở Paris, Lịch sử chữ quốc ngữ 1672-1659, nhưng trên mạng có để pdf, chụp lại:

http://www.tusachtiengviet.com/images/file/Fqk4NZQb0wgQABJA/lich-su-chu-quoc-ngu.pdf

Trong bài tựa ông nhấn mạnh đến những tài liệu viết tay 1620-1659 và tập Lịch sử nước Annam do Bento Thiện viết.

Ở trang 17 pdf tức trang 22 bản in, ông viết rõ:

Theo chúng tôi biết thì LM Francisco de Pina là người Âu châu đầu tiên nói thạo tiếng Việt.

Ở trang sau (23 bản in) ông xác định ...

... mà người có công soạn thảo là linh mục Pina...

Trang 35, bản in, ông viết thêm:

Chính Pina là Thầy dậy tiếng Việt cho Fontes và Đắc Lộ

Tác phẩm chia làm 4 phần:

1. Nhận xét của một số người Tây phương về tiếng Việt

2. Sơ lược giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ (1620-1648)

3. Linh mục Đắc Lộ soạn thảo và cho xuất bản hai sách chữ quốc ngữ đầu tiên năm 1651

4. Tài liệu viết tay năm 1659 của hai người Việt Nam

Phần 2 đọc thú vị nhất là thấy tiếng Việt thời cổ xưa viết thế nào cho nên khi đọc người Pháp viết tiếng Pháp, mới rõ tại sao họ viết các địa danh như thế.

Phần 3 cho biết Đắc Lộ học tiếng Việt ra sao.

Cuốn sách thật vô giá!

Phải chăng bụt nhà không thiêng?

Bây giờ người ta dùng tài liệu người xưa nhưng không bao giờ nêu tên tác giả. Nhất là người Việt Nam.
Người Pháp làm luận án tiếng Việt để lấy bằng tiến sĩ về Việt học bên Tây, có thể đã đọc sách LM Chính nhưng không đề tên tác giả, vì như thế luận án không còn giá trị mà là một bản sao chụp, nói một cách lịch sự là như thế.

Tôi thấy có những ông tiến sĩ văn chương về Việt học, Việt nam học nhưng luận án viết ở bên Tây, thấy giáo Tây/Mỹ/Úc không biết gì về VN chấm... Tôi sợ lắm. Chuyện này nó nhan nhản ra. Các vị tiến sĩ kiểu này, thường không kiếm ra việc, phải đi tìm chỗ dạy học ở đâu đó, ngĩa là ở thật xa... Và người Việt thi nhac bốc họ lên. Đưa văn bằng họ ra như một nhãn hiệu trình toà. Những điều các ông bà này khám phá ra đâu? Để người đọc xem có phải thật sự khám phá ra không hay là một bản sao chép.

Biết bao nhiêu người dùng bài viết của TK, Nguyễn Văn Trung, HXHãn vv... nhưng không bao giờ đề tên tác giả, làm như họ khám phá ra?
Thường thường tôi sợ những ông Tây bà đầm võ vẽ tiếng Việt lắm. Và người Việt đề cao nhất là khi họ có những bằng cấp gì gì đó. Và người Việt võ vẽ tiếng Tây cũng thế.
Những tác giả Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Nguyễn Du, Socrate, Khổng Tử, ... từ xưa đến nay, trên tất cả thế giới, không bao giờ đưa bằng cấp ra khoe.

Tại sao các ông bác sĩ chẳng hạn, hay giáo sư, kỹ sư... cũng thế, viết bài về lịch sử, văn học, ... nghĩa là không nằm trong điạ hạt chuyên môn của mình, phải đưa bằng lên trước?


Trong một thư khác, Văn trích:

Le 22/08/2017 à 06:43, van ai a écrit :

Trích một đoạn trên web:

Tại phiên kết luận hội thảo chiều qua, nhà sử học Dương Trung Quốc thống nhất với nhiều tham luận không cho Rhodes là “cha đẻ” của chữ quốc ngữ (như quan điểm của nhiều học giả kỳ cựu trước đây); đồng thời đánh giá linh mục de Pina chính là người sáng tạo chữ quốc ngữ, còn linh mục de Rhodes là người hoàn thiện xuất sắc, và Thanh Chiêm là nơi đầu tiên xuất phát chữ quốc ngữ. “Người Pháp có ý đồ khi nhấn mạnh vai trò của giáo sĩ Pháp Rhodes khi họ vào Đông Dương và có chính sách mới đối với văn hóa bản địa”, ông Quốc nói.

Một chi tiết thú vị được nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Quý (TP.HCM) đề cập là, tuy người Pháp có lợi dụng chữ quốc ngữ để củng cố chế độ bảo hộ ở VN, nhưng cuối cùng chữ quốc ngữ đã trở thành vũ khí khơi dậy tinh thần quốc gia dân tộc.
Người ta tôn sùng ông Dương Trung Quốc là nhà sử học! Ông có tác phẩm nào đâu?

Tôi đã gặp ông hai lần ở Hà Nội, và nghe ông trả lời RFI. Tôi tiếc đã mất thì giờ! Ông dân biểu này chỉ là con bài của Hà Nội, lúc nào ông cũng khoe là dân biểu nhưng không ở trong Đảng. Không có thẻ đảng! Không ở trong đảng nhưng được đảng cho phép ứng cử và bao giờ cũng đắc cử, khác gì người trong đảng. Ông nghĩ rằng người nghe ông ngu lắm sao mà ông cứ tiếp tục nói như thế?

Còn ông Nguyễn Hồng Quý khơi khơi xác nhận như trên! Thế những dân tộc khác không có chữ quốc ngữ, họ không có tinh thần quốc gia dân tộc sao? Dân Việt không có chữ quốc ngữ không có tinh thần quốc gia dân tộc! Nói như vậy mà nghe được! sao ông đánh giá người Việt thấp vậy, phải nhờ đến chữ quốc ngữ mới có tinh thần, mới chống Pháp?
Vài hàng thăm hai ông bà.

Đã làm mất thì giờ Văn.

Thân,

Luyện
TB.

Tôi vừa download được, thử gửi kèm theo đây. (< -- hết trích)

-----------
From: Loi Nguyen [mailto:loind en@yaho o.com]
Sent: Wednesday, August 23, 2017 10:32 PM
To: HCD j
Subject: Re: [quanvenduong] Tuan bao Luc Tinh Tan Van, bat ruoi, ca phe, chien ham dung tau hang
    Chào anh Huỳnh Chiếu Đẳng.

    Tôi có một điều thắc mắc, trong đoạn văn của anh chỉ về việc cứu cái điện thoại bị ướt, anh có viết: bỏ điện thoại vào "lò nước" thì tôi nghĩ điện thoại sẽ bị thấm nước. Vậy lò nước là cái gì, có thể đánh máy nhầm không?

    Xin anh giải thích giùm cám ơn anh.

    N/Loi.



    
    Làm khô điện thoại bị ướt:
 "...Xấy nhẹ, để nơi ấm, hay bỏ vào lò nước đã mớ ấm xong và đã rút điện,..."
HCD: Thưa anh hôm qua bận không xem lại nền có nhiều lỗi typo. Ý tôi muốn nói là bỏ vào lò nướng đã nung ấm ấm và đã rút điện ta. Nó chung là bỏ cái cell phone vào nỏi nào ấm ấm, nếu phơi nắng thì nhớ che nó lại đừng để ánh mặt trời chiếu thắng vào. Thời gia cho khô nước len được vào cell phone thường rất lâu, không như chúng ta tưởng đâu. Phơi quần áo có khi khô nhanh hơn.
tải về 189.5 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương