PHẬt giáo nguyên thủy theravāda nền tảng phật giáO



tải về 1.48 Mb.
trang4/25
Chuyển đổi dữ liệu18.08.2016
Kích1.48 Mb.
#22102
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   25

Niệm Ân đức Sugato

Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân đức Phật, “Ân đức Sugato này, sẽ phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.

Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân đức Phật, niệm Ân đức Sugato như sau:

Câu Ân đức Sugato:Itipi so Bhagavā Sugato..., Itipi so Bhagavā Sugato..., Itipi so Bhagavā Sugato...” làm đối tượng thiền định.

Hoặc danh từ Ân đức Sugato: Sugato..., Sugato..., Sugato...” làm đối tượng thiền định…

(Phần còn lại giống như Ân đức Araham).



Ân đức Phật thứ năm: Lokavidū

Itipi so Bhagavā Lokavidū.

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Lô-ká-ví-đu).

Nghĩa:

So Bhagavā: Đức Thế Tôn.

Itipi: Bởi Ngài là Bậc thấy rõ, biết rõ chúng sinh thế giới, cõi thế giới, pháp hành thế giới.

Lokavidū: Do đó Đức Thế Tôn có Ân đức Thông Suốt Tam giới.

Loka: Thế giới đó là các pháp có sự sinh, sự diệt, sự thành, sự hoại,… ngũ uẩn của mình cũng gọi là thế giới.

Thế giới có 3 loại

Chúng sinh thế giới (sattaloka).
Cõi thế giới (okāsaloka).
Pháp hành thế giới (saṅkhāraloka).

Đức Thế Tôn có hai loại trí tuệ đặc biệt mà Chư Phật Độc Giác và bậc Thánh Thanh Văn không có là:

Trí tuệ thấy rõ, biết rõ căn duyên cao thấp của mỗi chúng sinh.
Trí tuệ thấy rõ, biết rõ phiền não ngấm ngầm, thiện nghiệp, ác nghiệp của mỗi chúng sinh.

Cho nên, Đức Thế Tôn có khả năng thông suốt cả ba thế giới.



Thế nào gọi là chúng sinh thế giới?

Chúng sinh thế giới có nhiều loại.



Về nơi sanh có 4 loại:

Thai sanh: Chúng sinh sanh từ bụng mẹ (loài người, trâu, bò…).
Noãn sanh: Chúng sinh sanh từ trứng (gà, vịt, chim…).
Thấp sanh: Chúng sinh sanh từ nơi ẩm thấp (con dòi, con giun,…).
Hoá sanh: Chúng sinh sanh hiện hữu ngay tức thì (chư thiên, phạm thiên, loài ngạ quỷ, atula, chúng sinh địa ngục, con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất này…).

Về uẩn có 3 loại:

Chúng sinh có ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn trong 11 cõi dục giới và 15 cõi sắc giới.

Chúng sinh có tứ uẩn: Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn (không có sắc uẩn) trong 4 cõi vô sắc giới.

Chúng sinh có nhất uẩn: Sắc uẩn (không có 4 danh uẩn) trong cõi sắc giới vô tưởng thiên v.v…

Đức Thế Tôn biết rõ tất cả mọi loài chúng sinh có căn duyên cao hoặc thấp, có phiền não ngấm ngầm nặng hoặc nhẹ, có bản tánh riêng của mỗi chúng sinh, có nguyện vọng cao quý hoặc thấp hèn, có 5 pháp chủ [12] già dặn hoặc còn non nớt…

Chúng sinh có khả năng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại, hoặc kiếp vị lai trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác,...

Chúng sinh không có khả năng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại, bởi do nguyên nhân nào…

Đức Thế Tôn thông suốt tất cả các loài chúng sinh không còn dư sót.

Thế nào gọi là cõi thế giới?

Cõi thế giới là nơi tạm trú của tất cả các loài chúng sinh hiện hữu, tuỳ theo thiện nghiệp, ác nghiệp cho quả và hỗ trợ chúng sinh.



Tam giới

Tam giới là một thế giới nhỏ, gồm có 31 cõi:



Dục giới có 11 cõi.
Sắc giới có 16 cõi.
Vô sắc giới có 4 cõi.


11 cõi dục giới

* 4 cõi ác giới

Cõi địa ngục: Có tuổi thọ không nhất định.

Cõi atula: Có tuổi thọ không nhất định.

Cõi ngạ quỷ: Có tuổi thọ không nhất định.

Cõi súc sinh: Có tuổi thọ không nhất định.

* 7 cõi thiện dục giới

Cõi người: Có tuổi thọ không nhất định.

Cõi Tứ Đại Thiên Vương: Có tuổi thọ 500 tuổi trời, bằng 9 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 50 năm cõi người).

Cõi Tam Thập Tam Thiên: Có tuổi thọ 1.000 tuổi trời, bằng 36 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm cõi người).

Cõi Dạ Ma Thiên: Có tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng 144 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 200 năm cõi người).



Cõi Đẩu Xuất Đà Thiên: Có tuổi thọ 4.000 tuổi trời, bằng 576 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm cõi người).

Cõi Hoá Lạc Thiên: Có tuổi thọ 8.000 tuổi trời, bằng 2.304 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 800 năm cõi người).

Cõi Tha Hoá Tự Tại Thiên: Có tuổi thọ 16.000 tuổi trời, bằng 9.216 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 1.600 năm cõi người).

16 cõi sắc giới phạm thiên

* Đệ nhất thiền hữu sắc có 3 cõi

Cõi Phạm Chúng Thiên: Có tuổi thọ 1/3 a-tăng-kỳ kiếp trụ [13] .



Cõi Phạm Phụ Thiên: Có tuổi thọ 1/2 a-tăng-kỳ kiếp trụ

Cõi Đại Phạm Thiên: Có tuổi thọ 1 a-tăng-kỳ kiếp trụ.

* Đệ nhị thiền hữu sắc có 3 cõi

Cõi Thiểu Quang Thiên: Có tuổi thọ 2 đại kiếp [14] .



Cõi Vô Lượng Quang Thiên: Có tuổi thọ 4 đại kiếp.

Cõi Quang Âm Thiên: Có tuổi thọ 8 đại kiếp.

* Đệ tam thiền sắc giới có 3 cõi

Cõi Thiểu Tịnh Thiên: Có tuổi thọ 16 đại kiếp.

Cõi Vô Lượng Tịnh Thiên: Có tuổi thọ 32 đại kiếp.

Cõi Biến Tịnh Thiên: Có tuổi thọ 64 đại kiếp.

* Đệ tứ thiền sắc giới có 7 cõi

Cõi Quảng Quả Thiên: Có tuổi thọ 500 đại kiếp.

Cõi Vô Tưởng Thiên: Có tuổi thọ 500 đại kiếp.

Cõi Phước Sanh Thiên: Có 5 cõi dành riêng cho bậc Thánh Bất Lai chứng đắc đệ tứ thiền hữu sắc:

Cõi Vô Phiền Thiên: Có tuổi thọ 1.000 đại kiếp.
Cõi Vô Nhiệt Thiên: Có tuổi thọ 2.000 đại kiếp.
Cõi Thiện Hiện Thiên: Có tuổi thọ 4.000 đại kiếp.
Cõi Thiện Kiến Thiên: Có tuổi thọ 8.000 đại kiếp.
Cõi Sắc Cứu Cánh Thiên: Có tuổi thọ 16.000 đại kiếp.

4 cõi vô sắc giới phạm thiên

Không vô biên xứ thiên: Có tuổi thọ 20.000 đại kiếp.

Thức vô biên xứ thiên: Có tuổi thọ 40.000 đại kiếp.

Vô sở hữu xứ thiên: Có tuổi thọ 60.000 đại kiếp.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên: Có tuổi thọ 84.000 đại kiếp.

1 thế giới có tam giới, gồm có 31 cõi.

1 tiểu thế giới có 31.000 cõi.

1 trung thế giới gồm có 31 triệu cõi.

1 đại thế giới gồm có 31 triệu triệu cõi (31.000 tỉ cõi).

Đức Thế Tôn không những thông suốt 31.000 tỉ cõi mà còn thông suốt vô lượng thế giới (anantacakkavāla).



Thế nào gọi là pháp hành thế giới?

Pháp hành thế giới là ngũ uẩn do nhân duyên cấu tạo, nên có sự sinh, sự diệt.



Chúng sinh thế giớicõi thế giới thuộc về thế giới do Chế định pháp (Pannat-tidhamma), còn pháp hành thế giới thuộc về Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma).

Đức Thế Tôn thông suốt pháp hành thế giới có nhiều loại như sau:



Thế giới có 1 pháp: Tất cả chúng sinh được tồn tại do nhờ nhân (āhāra).

Thế giới có 2 pháp: Danh pháp và sắc pháp.

Thế giới có 3 thọ: Thọ khổ, thọ lạc, thọ xả.

Thế giới có 4 pháp: 4 pháp đem lại quả là vật thực, xúc, tác ý, tâm.

Thế giới có 5 uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.

Thế giới có 6 xứ bên trong: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; và có 6 xứ bên ngoài: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Đức Thế Tôn thông suốt cả vô lượng thế giới, bắt nguồn từ thế giới ngũ uẩn của mình.

Do đó, Đức Thế Tôn có Ân đức Lokavidū: Đức Thông Suốt Tam Giới.

Niệm Ân đức Lokavidū

Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân đức Phật, “Ân đức Lokavidū này, sẽ phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.

Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân đức Phật, niệm Ân đức Lokavidū như sau:

Câu Ân đức Lokavidū: Itipi so Bhagavā Lokavidū..., Itipi so Bhagavā Lokavidū..., Itipi so Bhagavā Lokavidū...” làm đối tượng thiền định.

Hoặc danh từ Ân đức Lokavidū Lokavidū..., Lokavidū..., Lokavidū... làm đối tượng thiền định…

(Phần còn lại giống như Ân đức Araham).

Ân đức Phật thứ sáu: Anuttaro purisadammasārathi

Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi.

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Á-nút-tá-rô-pú-rí-xá-đăm-má-xa-rá-thí).

Nghĩa:

So Bhagavā: Đức Thế Tôn.

Itipi: Bởi Ngài là Bậc giáo huấn chúng sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm nhân lên bậc Thánh Nhân.

Anuttaro purisadammasārathi: Do đó Đức Thế Tôn có Ân đức Vô Thượng Giáo Hoá chúng sinh.

Giáo hoá người ác trở thành bậc Thánh Nhân

Kẻ cướp sát nhân cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ có biệt danh Aṅgulimāla. Y có võ nghệ cao cường, sống một mình ở trong rừng, từng đoàn người 20 - 30 người đi qua khu rừng ấy, không một ai thoát chết.

Một hôm, Đức Thế Tôn một mình đi vào rừng, nơi trú ẩn của Aṅgulimāla, để giáo hoá y. Y thức tỉnh, từ bỏ sát nhân, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu nơi Đức Phật. Về sau không lâu Tỳ khưu Aṅgulimāla chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng…

Giáo hoá dạ xoa ác trở thành bậc Thánh Nhân

Tích dạ xoa Ālavaka ăn thịt người rất hung ác, tàn bạo, có nhiều phép mầu cực kỳ nguy hiểm. Đức Thế Tôn đến ngự trên bảo tọa trong lâu đài của dạ xoa Ālavaka, y bực tức dùng mọi phép mầu để xua đuổi Đức Thế Tôn ra khỏi cung điện của y, nhưng y hoàn toàn bất lực, không xua đuổi Đức Thế Tôn được.

Cuối cùng, y có một câu kệ khó mà quên câu trả lời, y đã hỏi nhiều Samôn, Bàlamôn mà không một ai có thể trả lời đúng, để làm cho y vừa lòng. Nay y đem câu kệ ấy đặt điều kiện hỏi Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn đã giải đáp đúng ý nghĩa sâu sắc của câu kệ làm cho dạ xoa Ālavaka vô cùng hoan hỷ đồng thời chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, có đức tin trong sạch và không lay chuyển trong Phật giáo.



Giáo hoá phạm thiên tà kiến trở thành chánh kiến

Phạm thiên Baka ở cung trời sắc giới Quang Âm Thiên phát sinh thường kiến mê lầm. Đức Thế Tôn từ chùa Jetavana, hiện lên cõi trời sắc giới, để tế độ phạm thiên Baka từ bỏ tà kiến trở lại chánh kiến…



Giáo hoá loài súc sinh

Đức Thế Tôn giáo hoá các loài súc sinh như rồng chúa Apalāla, rồng chúa Cūlodara, rồng chúa Mahodaratrở thành rồng hiền lành. Voi chúa Nālāgiri rất hung dữ, trong cơn say, chạy đến để hại Đức Thế Tôn, Ngài rải tâm từ đến voi chúa, ngay tức khắc voi chúa tỉnh lại, bò đến quỳ mọp xuống hai bàn chân của Đức Phật, Ngài giáo hoá voi chúa hung dữ này trở thành voi hiền lành, biết quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới. Kể từ đó về sau, voi chúa rất hiền lành dễ thương, Đức Thế Tôn đặt tên là voi chúa Dhanapāla...

Đức Thế Tôn giáo hóa tế độ chúng sinh hữu duyên nên tế độ, nghĩa là, những chúng sinh ấy tiền kiếp có liên quan với Ngài, hoặc tiền kiếp đã từng gieo duyên lành nơi Chư Phật trong quá khứ, hoặc đã từng tạo ba-la-mật, gieo phước duyên trong giáo pháp của Chư Phật quá khứ ấy. Nay kiếp hiện tại, có duyên lành được Đức Thế Tôn quan tâm đến, để giáo hóa tế độ chúng sinh ấy. (có nghĩa là không phải Đức Thế Tôn gặp chúng sinh nào cũng giáo hoá tế độ chúng sinh ấy được).

Đức Thế Tôn giáo hoá những chúng sinh mà không có một ai có thể giáo hoá tế độ được, không có một vị nào có thể sánh được với Ngài.

Do đó, Đức Thế Tôn có Ân đức Anuttaro purisadammasārathi: Đức Vô Thượng Giáo Hoá chúng sinh.

Riêng Ân đức Phật Anuttaro purisadammasārathi: Trong bộ Thanh Tịnh Đạo, phần giảng dạy Ân đức Phật, thì Ân đức Phật này phân chia làm hai Ân đức riêng biệt.



Anuttaro: Đức Vô Thượng.
Purisadammasārathi: Đức Giáo Hoá chúng sinh.

Giải thích:

Ân đức Anuttaro: Đức Vô Thượng như thế nào?

Đức Thế Tôn có giới đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong toàn thế giới hơn Ngài.

Cũng như vậy:

định đức trong sạch thanh tịnh...

tuệ đức trong sạch thanh tịnh...

giải thoát đức trong sạch thanh tịnh...

giải thoát tri kiến đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong toàn thế giới hơn Ngài.

Do đó, Đức Thế Tôn có Ân đức Anuttaro: Đức Vô Thượng.



Ân đức Purisadammasārathi: Đức Giáo Hoá chúng sinh như thế nào?

Đức Thế Tôn giáo hoá các loài chúng sinh có duyên lành, mà không có một ai trong toàn thế giới chúng sinh có khả năng giáo hoá tế độ chúng sinh như Ngài được.

Do đó, Đức Thế Tôn có Ân đức Purisadammasārathi: Đức Giáo Hoá chúng sinh.

Niệm Ân đức Anuttaro purisadammasārathi

Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân đức Phật, “Ân đức Anuttaro purisadam-masārathi”, này sẽ phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.

Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân đức Phật, niệm Ân đức Anuttaro purisadam-masārathi như sau:

Câu Ân đức Anuttaro purisadammasārathi: Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi..., Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi..., Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi...” làm đối tượng thiền định.

Hoặc danh từ Ân đức Anuttaro purisadammasārathi: “Anuttaro purisadamma-sārathi..., Anuttaro purisadammasārathi..., Anuttaro purisadammasārathi...” làm đối tượng thiền định…

(Phần còn lại giống như Ân đức Araham).

7- Ân đức Phật thứ bảy: Satthādevamanus- sānam

Itipi so Bhagavā Satthādevamanussānam.



(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Xặt-tha-đê-voá-má-nút-xa-năng)

Nghĩa:


So Bhagavā: Đức Thế Tôn.

Itipi: Bởi Ngài là Bậc Thầy của chư thiên, chư phạm thiên, nhân loại…

Satthādevamanussānaṃ: Do đó Đức Thế Tôn có Ân đức Thiên Nhân Sư.

Sự lợi ích an lạc kiếp hiện tại

Đức Thế Tôn giáo huấn chúng sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự an lạc trong kiếp hiện tại [15] .



4 pháp là:

Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, công việc.

Biết giữ gìn của cải tài sản.

Có bạn lành, bạn tốt là bậc thiện trí.

Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình.

Giải thích:

Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, trong công việc như thế nào?

Trong cuộc sống mỗi người nên chọn cho mình một nghề nghiệp lương thiện, không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ cả mình lẫn người [16] . Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp ấy, trong công việc ấy, có trí tuệ hiểu biết chuyên môn trong nghề nghiệp để tạo ra nhiều của cải tài sản cho mình.



Biết giữ gìn của cải tài sản như thế nào?

Của cải tài sản được tạo ra do đức tính siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, trong công việc một cách hợp pháp. Người ấy nghĩ: “Ta nên giữ gìn cẩn thận những của cải tài sản này, tránh không để lửa cháy, nước ngập lụt cuốn trôi, bọn trộm cướp chiếm đoạt… giữ gìn của cải tài sản không bị hư mất”.



Có bạn lành, bạn tốt là bậc thiện trí như thế nào?

Muốn được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài, cần phải sống gần gũi, thân cận với bậc thiện trí, làm bạn thân thiết, để học hỏi những thiện pháp, ác pháp; để biết thiện pháp nên hành, ác pháp nên tránh xa, để noi gương tốt của bậc thiện trí. Bậc thiện trí là người có đức tin chơn chánh, giới trọn đủ, đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng, thường hoan hỷ trong sự bố thí, có trí tuệ sáng suốt, hiểu biết các pháp.

Nhờ gần gũi, thân cận bạn lành bạn tốt là bậc thiện trí, nên mình mới có cơ hội học tập, để có đủ đức tin, có giới, học nhiều hiểu rộng, hoan hỷ trong sự bố thí, có trí tuệ hiểu biết các pháp.

Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình như thế nào?

Nhờ sống gần gũi, thân cận với bạn lành, bạn tốt là bậc thiện trí, nên học hỏi hiểu biết con đường làm cho phát triển của cải, và con đường làm của cải suy thoái [17] .

Biết sử dụng của cải có chừng mực trong cuộc sống:

Không nên phung phí của cải quá mức.

Không nên hà tiện quá mức.

Nên nghĩ rằng: “Phần thu của ta hơn phần chi, hoặc phần chi của ta kém hơn phần thu”.

Trong cuộc sống, phần thu tiền bạc của cải nhiều hơn mức phần chi, thì tiền bạc của cải còn có phần dư dật, để dành lúc bệnh hoạn ốm đau, lúc tuổi già yếu không thể tạo ra của cải được, nhờ có dư của cải tiền bạc, thì cuộc sống mới được an lạc.

Ngược lại, phần chi tiền bạc, của cải nhiều hơn mức phần thu, thì tiền bạc, của cải bị thiếu thốn, nên cuộc sống lâm vào cảnh túng thiếu khổ cực.

Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình là lúc nào cũng “phần thu hơn phần chi”.

Đó là 4 pháp thực hành đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc trong kiếp hiện tại.



Sự lợi ích an lạc những kiếp vị lai

Đức Thế Tôn giáo huấn chúng sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc những kiếp vị lai.



4 pháp là:

Có đức tin trọn vẹn.

Có giới hạnh trong sạch và trọn vẹn.

Có sự bố thí trọn vẹn.

Có trí tuệ trọn vẹn.

Giải thích:

Có đức tin trọn vẹn như thế nào?

Người Phật tử có đức tin trong sạch nơi 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng; có đức tin hoàn toàn nơi nghiệp và quả của nghiệp.

Có đức tin trong sạch, nơi 9 Ân đức Phật rằng:

Đức Thế Tôn:



Là Đức Arahán xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư thiên, phạm thiên và nhân loại.

Là Đức Phật Chánh Đẳng Giác tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả đầu tiên trên toàn thế giới chúng sinh.

Là Đức Minh Hạnh Túc có trọn đủ Tam Minh, Bát Minh và 15 Đức Hạnh cao thượng,

Là Đức Thiện Ngôn giáo huấn sự thật chân lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng sinh.

Là Đức Thông Suốt Tam Giới.

Là Đức Vô Thượng Giáo Hoá chúng sinh.

Là Đức Thiên Nhân Sư.

Là Đức Phật tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, rồi giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ y theo Ngài.

Là Đức Thế Tôn cao thượng nhất trong toàn thế giới chúng sinh, do 30 pháp hạnh ba-la-mật.

Và có đức tin trong sạch nơi 6 Ân đức Pháp, nơi 9 Ân đức Tăng. Bậc Thánh Thanh Văn có đức tin hoàn toàn nơi nghiệp và quả của nghiệp rằng: “Nghiệp thiện cho quả an lạc, nghiệp ác cho quả khổ”. Ngoài ra, không tin một ai có quyền lực cho quả an lạc hoặc cho quả khổ cho mình.



Có giới trong sạch và trọn vẹn như thế nào?

Người Phật tử là bậc xuất gia hoặc hàng tại gia cư sĩ, là người có giới hạnh trong sạch và trọn vẹn theo phẩm hạnh của mình.

Người cận sự nam, cận sự nữ có ngũ giới, bát giới… trong sạch và trọn vẹn.

Bậc Sadi có 10 Sadi giới, 10 pháp hoại, 10 pháp hành phạt, 75 điều học, 14 pháp hành… trong sạch trọn vẹn.

Bậc Tỳ khưu có 227 giới, 14 pháp hành, giới kể đầy đủ có 91.805.036.000 điều giới trong sạch.

Sự bố thí trọn vẹn như thế nào?

Người Phật tử có tâm từ, tâm bi tế độ, hoan hỷ trong sự bố thí tuỳ theo khả năng của mình, có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỷ trước khi bố thí; hoan hỷ đang khi bố thí; hoan hỷ sau khi đã bố thí xong.

Người Phật tử không nên có tâm bủn xỉn, keo kiệt trong của cải và sự hiểu biết của mình, có ít thì bố thí ít, có nhiều thì bố thí nhiều tuỳ theo khả năng, tuỳ theo người thọ thí. Người thí chủ nên có sự suy tư đúng đắn rằng: “Được làm phước thiện bố thí là một cơ hội tốt cho mình. Vì của cải, tiền bạc không phải là phước thiện (là quả của phước thiện) thuộc về của chung cho mọi người. Nếu ta không biết sử dụng đem làm phước bố thí, qua thời gian, thì của cải ấy cũng bị hư mất, không tồn tại lâu dài được. Nếu ta biết sử dụng của cải ấy đem bố thí, để biến thành phước thiện chắc chắn thuộc của riêng mình, thì sẽ cho quả báu an lạc trong kiếp hiện tại, và nhiều kiếp vị lai, có tính bền vững lâu dài. Hơn nữa, cơ hội làm phước thiện bố thí chỉ có con người ở cõi Nam Thiện Bộ Châu (trái đất chúng ta đang sống) này mà thôi; các chúng sinh ở cõi khác khó hoặc không có cơ hội thuận lợi làm phước thiện bố thí. Vì vậy, chúng ta chớ nên bỏ lỡ cơ hội bố thí ấy”.

Có trí tuệ trọn vẹn như thế nào?

Người Phật tử khi tạo mọi thiện pháp, với tâm đại thiện hợp với trí tuệ, ví như khi bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ.

Thật ra, có trí tuệ trọn vẹn là có trí tuệ thiền tuệ trong tam giới thấy rõ, biết rõ, sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, và có trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới, đó là 4 Thánh Đạo Tuệ - 4 Thánh Quả Tuệ đồng sinh trong 4 Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm có Niết Bàn làm đối tượng. Hành giả trở thành bậc Thánh Nhân.

Đó là 4 pháp thực hành sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho kiếp hiện tại, lẫn nhiều kiếp vị lai.



Sự lợi ích an lạc cao thượng Niết Bàn

Đức Thế Tôn có hai loại trí tuệ đặc biệt:



Trí tuệ thấy rõ, biết rõ căn duyên cao thấp của mỗi chúng sinh.

Trí tuệ thấy rõ, biết rõ phiền não ngủ ngầm của mỗi chúng sinh.

Hai loại trí tuệ đặc biệt này chỉ có nơi Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà thôi, còn các bậc Thánh Thanh Văn hoàn toàn không thể có 2 loại trí tuệ này. Cho nên, mỗi khi Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ chúng sinh nào, Ngài quán xét căn duyên của chúng sinh ấy. Chúng sinh nào đã từng tạo ba-la-mật nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ, đã từng gặp Chư Phật ở quá khứ thọ ký rồi. Nay kiếp hiện tại này gặp Đức Phật, Ngài thuyết pháp giáo huấn hợp với căn cơ và duyên lành của chúng sinh ấy. Sau khi lắng nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp xong, có số chúng sinh liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Có số chứng đắc đến Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhất Lai.

Có số chứng đắc đến Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Bất Lai.

Có số chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo -Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán.

Sự chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả này tuỳ theo 5 pháp chủ và ba-la-mật, nhất là trí tuệ ba-la-mật của mỗi chúng sinh.

Bốn bậc Thánh Nhân này đều chứng đạt đến sự lợi ích, sự an lạc cao thượng Niết Bàn.

Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ chúng sinh không những nhân loại, chư thiên, phạm thiên được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài, mà còn có loài súc sinh cũng được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài nữa.

Như tích Mandūkadevaputta [18] (chư thiên Ếch), được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự đến bờ hồ Gaggarā thuyết pháp tế độ dân chúng Campā, một con ếch nhảy lên bờ hồ, nằm nghe giọng nói của Đức Thế Tôn, với đức tin trong sạch nơi Ngài.

Khi ấy, một người chăn bò đứng đằng sau, lắng nghe pháp, tay cầm cây nhọn, vô ý cắm xuống đất đụng phải đầu con ếch đang nằm lắng nghe giọng nói của Đức Thế Tôn, với đức tin trong sạch, con ếch chết ngay khi ấy. Sau khi chết, do thiện nghiệp ấy cho quả liền hoá sinh làm thiên nam ở cõi Tam Thập Tam Thiên trong một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có chư thiên nữ hầu hạ. Vị thiên nam quán xét rằng: “Ta từ đâu đến hoá sinh làm thiên nam ở cõi Tam Thập Tam Thiên này?”.

Vị thiên nam nhớ lại tiền kiếp mình là loài ếch, sống dưới hồ Gaggarā, lên bờ nằm lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, với đức tin trong sạch; kiếp ếch ấy chết rồi, do nhờ thiện nghiệp ấy cho quả được hóa sinh làm thiên nam ở cõi trời này. Thấy rõ Đức Thế Tôn đang còn thuyết pháp tại gần bờ hồ Gaggarā, vị thiên nam ếch quyết định hiện xuống hầu Đức Phật, còn đem theo lâu đài bằng vàng cùng chư thiên nữ, có hào quang sáng ngời, đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn biết rõ, nhưng muốn cho các hàng đệ tử thấy rõ quả báu nghe pháp, nên Ngài hỏi:

Ko me vandāti padāni


Iddhiyā yasasā jalaṃ
Abhikkantena vannena
Sabbā obhāsayaṃ disā”.

Này thiên nam, ngươi là ai đến đây?


Có thân hình đẹp hào quang sáng ngời
Tỏa ra mọi hướng, có nhiều oai lực,
Chư thiên nữ xinh đẹp theo hầu hạ
Đảnh lễ dưới bàn chân của Như Lai”.

Chư thiên Ếch bạch rằng:

Maṇḍūko haṃ pure asiṃ
Udake vārigocaro
Tava dhammam sunantassa
Avadhi vacchapālako…”.

Kính bạch Đức Thế Tôn cao thượng nhất,



Con tên là thiên nam Măn-đu-ká,
Mới kiếp trước đây là con ếch nhỏ
Sinh ra và sống ở tại hồ này,
Con nhảy lên đang nghe pháp của Ngài,
Người chăn bò đứng nghe pháp vô ý
Cắm cây gậy đụng đầu, làm con chết.
Kính bạch Đức Thế Tôn cao thượng nhất,
Trong khoảnh khắc nghe pháp với đức tin
Nơi giọng phạm âm của Đức Thế Tôn.
Sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp ấy
Cho quả hóa sinh được làm thiên nam.
Như Ngài nhìn thấy thân hình con đẹp
Có hào quang sáng ngời toả muôn phương,
Có nhiều oai lực, hưởng mọi an lạc
Chư thiên nữ ngày đêm hầu hạ con.
Kính bạch Đức Thế Tôn cao thượng nhất,
Chúng sinh nào có duyên lành nghe pháp,
Chúng sinh ấy được chứng ngộ chân lý
Chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả, Niết Bàn,
Được giải thoát khổ tử sinh luân hồi”.

Sau đó, Đức Thế Tôn quán xét thấy các hàng đệ tử có đức tin trong sạch, nên Ngài thuyết pháp tế độ vị thiên nam Manduka cùng với 84.000 chúng sinh gồm có chư thiên và nhân loại đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Vị thiên nam Manduka cùng chư thiên nữ cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn và chư Đại đức Tăng xin phép trở về cõi trời.

Đức Thế Tôn là Bậc Tôn Sư không những dạy dỗ các bậc xuất gia cũng như các hàng tại gia những pháp hành, để chứng đạt đến pháp cao thượng, Siêu tam giới pháp: 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, an lạc tuyệt đối, mà còn dạy dỗ những pháp hành, để đem lại sự an lạc trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai, tuỳ theo căn duyên lành của mỗi chúng sinh.

Ví dụ: Đức Phật dạy dỗ hàng tại gia phải biết chọn cho mình nghề nghiệp lương thiện, biết cách sử dụng của cải, biết nuôi mạng chân chánh để đem lại sự an lạc trong kiếp sống hiện tại; dạy dỗ các bậc xuất gia: Sadi, Tỳ khưu, chỉ dẫn từng li, từng tí; nào là mặc y, đi khất thực, thọ dụng vật thực đàng hoàng, chỗ ở sạch sẽ, dùng thuốc khi bệnh hoạn ốm đau; thậm chí còn chỉ dẫn khi tiểu tiện, đại tiện... Đức Thế Tôn, Đức Tôn Sư dạy dỗ từ việc nhỏ cho đến việc lớn giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài

Niệm Ân đức Satthādevamanussānam

Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân đức Phật “Ân đức Satthādevamanus-sānam” này sẽ phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.

Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân đức Phật, niệm Ân đức Satthādevamanus-sānam như sau:

Câu Ân đức Satthādevamanussānam: Itipi so Bhagavā Satthādevamanussānam..., Itipi so Bhagavā Satthādevamanussānam..., Itipi so Bhagavā Satthādevamanus-sānam... làm đối tượng thiền định.

Hoặc danh từ Ân đức Satthādevamanussānam: Satthādevamanussānam..., Satthādevamanussānam..., Satthādevamanussānam... làm đối tượng thiền định…

(Phần còn lại giống như Ân đức Araham).

8- Ân đức Phật thứ tám: Buddho

Itipi so Bhagavā Buddho.

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Bút-thô)

Nghĩa:


So Bhagavā: Đức Thế Tôn.

Itipi: Bởi Ngài là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng sinh, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác độc nhất vô nhị, rồi Ngài thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài; chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn tùy theo năng lực ba-la-mật và hạnh nguyện của mỗi chúng sinh.

Buddho: Do đó Đức Thế Tôn có Ân đức Phật.

Ân đức “Sammāsambuddho” và Ân đức “Buddho” khác nhau như thế nào?

Ân đức Sammāsambuddho nghĩa là tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh; nên Ngài có Ân đức Sammāsambuddho.

Ân đức Sammāsambuddho có hai loại trí tuệ đặc biệt là:



Trí tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế đầu tiên.
Trí tuệ thành (pativedhanāna).

Ân đức Buddho nghĩa là không chỉ tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh, mà Ngài còn thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài. Có số chúng sinh chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả; có số chứng đắc đến Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả; có số chứng đắc đến Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả; có số chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn tùy theo 5 pháp chủ và ba-la-mật của mỗi chúng sinh.

Ân đức Buddho có hai loại trí tuệ đặc biệt là:



Trí tuệ của bậc Toàn Giác (Sabbannutanāna).
Trí tuệ giáo hóa chúng sinh (desanānāna).

Đối với Đức Phật là Bậc có đầy đủ trọn vẹn các loại trí tuệ:



4 trí tuệ phân tích (patisambhidānāna),
6 trí
tuệ cá biệt (asādhārananāna),
10 trí
tuệ lực (dasabalanāna)...,

Thành tựu cùng lúc với Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả.



Niệm Ân đức Buddho

Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân đức Phật “Ân đức Buddho” này sẽ phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.

Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân đức Phật, niệm Ân đức Buddho như sau:

Câu Ân đức Buddho: Itipi so Bhagavā Buddho..., Itipi so Bhagavā Buddho..., Itipi so Bhagavā Buddho... làm đối tượng thiền định.

Hoặc danh từ Ân đức Buddho: Buddho..., Buddho..., Buddho... làm đối tượng thiền định…

(Phần còn lại giống như Ân đức Araham)

9- Ân đức Phật thứ chín: Bhagavā

Itipi so Bhagavā Bhagavā.

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Phá-gá-voa)

Nghĩa:


So Bhagavā: Đức Thế Tôn.

Itipi: Bởi Ngài là Bậc có 6 Ân đức đặc biệt do đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật của Ngài.

Bhagavā: Do đó Đức Thế Tôn có Ân đức Thế Tôn.

Ân đức Bhagavā: Đức Thế Tôn thật vô cùng cao thượng nhất trong toàn thế giới chúng sinh. Ân đức này, không phải Phụ vương, Mẫu hậu của Ngài khen tặng, cũng không phải chư thiên, phạm thiên nào suy tôn Ngài.

Sự thật, Ân đức Bhagavā này là kết quả qua một quá trình tiến triển tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác.

Trường hợp Đức Phật Gotama trong thời đại chúng ta.

Tiền kiếp của Ngài là Đức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt, nghĩa là trí tuệ của Ngài có năng lực hơn đức tintinh tấn, đã tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ.

Thời kỳ phát nguyện trong tâm: Đức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt, đã phát nguyện trong tâm, có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi, đồng thời tạo các pháp hạnh ba-la-mật suốt thời gian 7 a-tăng-kỳ [19] và tiếp theo.

Thời kỳ phát nguyện bằng lời: Sau khi Đức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật trải qua 7 a-tăng-kỳ, cho đến khi có đủ năng lực, có thể phát nguyện bằng lời cho tất cả chúng sinh nghe biết nguyện vọng của mình, có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai, để tế độ chúng sinh, và tiếp tục tạo các pháp hạnh ba-la-mật thêm suốt 9 a-tăng-kỳ nữa.

Qua 2 thời kỳ này vẫn còn là Đức Bồ Tát bất định (aniyatabodhisatta), nghĩa là có thể thay đổi nguyện vọng của mình, trở thành Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác.



Thời kỳ được Đức Phật thọ ký: Sau khi đã trải qua 2 thời kỳ (phát nguyện trong tâm và bằng lời), Đức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt có đầy đủ năng lực mạnh, có tâm thiện bất thoái chí, Đức Bồ Tát có duyên lành đến hầu Đức Phật.

Như trường hợp vị Đạo sĩ Sumedha, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, đến hầu Đức Phật Dīpaṅkara. Đức Phật Dīpaṅkara có Phật nhãn thông suốt vị lai, biết rõ nguyện vọng của vị Đạo sĩ Bồ Tát Sumedha sẽ thành tựu được như ý, nên Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký vị Đạo sĩ rằng:

Trong thời vị lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất [20] nữa, vị Đạo sĩ Bồ Tát Sumedha này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu Đức Phật Gotama”.

Ngài đương nhiên trở thành Đức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta), bất thoái chí, tiếp tục bồi bổ 30 pháp hạnh ba-la-mật: 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường, 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng, trải qua 24 Đức Phật thọ ký, Đức Phật thọ ký cuối cùng là Đức Phật Kassapa.

Đức Bồ Tát kiếp chót là Thái tử Siddhattha xuất gia, hành đạo tại Đại cội Bồ đề vào canh chót ngày rằm tháng tư (âm lịch). Ngài đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh. Đồng thời trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên có Ân đức Bhagavā: Đức Thế Tôn.

Ân đức Bhagavā có 6 đức chính: Issariya, Dhamma, Yasa, Siri, Kāma, Payatta.

Thế nào gọi Issariya: Tự chủ?

Đức Thế Tôn có tâm tự chủ các pháp tam giới và Siêu tam giới.



Tâm tự chủ pháp tam giới: Đức Thế Tôn hóa phép thần thông song hành (yama-kapatihāriya), có 2 luồng nước và lửa phát xuất từ kim thân của Ngài: Một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên trái, rồi thay đổi, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên trái; cũng như vậy đến 2 mắt, 2 lỗ tai…

Tâm tự chủ pháp Siêu tam giới: Đức Phật thuyết pháp xong, các hàng đệ tử đồng thanh nói lên lời hoan hỷ “Sādhu! sādhu!” trong thời gian khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Đức Thế Tôn có thể nhập Arahán Thánh Quả để hưởng sự an lạc Niết Bàn.

Đó gọi là Issariya: Tự chủ.



Thế nào gọi là Dhamma: Chánh pháp?

Đức Thế Tôn đã chứng đắc 9 pháp Siêu tam giới đó là 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn đầu tiên, trong toàn thế giới chúng sinh, diệt đoạn tuyệt tất cả 1.500 loại phiền não, 108 loại tham ái, và tất cả mọi tiền khiên tật đã tích lũy từ vô lượng kiếp quá khứ.

Đó gọi là Dhamma: Chánh pháp.

Thế nào gọi là Yasa: Tiếng tốt lành?

Ân đức của Đức Thế Tôn được lan truyền khắp tất cả mọi chúng sinh, khắp mọi nơi, từ cõi người cho đến cõi Long Vương, đến chư thiên ở 6 cõi trời dục giới, đến chư phạm thiên ở 15 cõi trời sắc giới (trừ cõi Vô Tưởng Thiên). Và thậm chí ngay cả chư phạm thiên ở cõi vô sắc giới cũng niệm tưởng đến Ân đức Phật.

Đó gọi là Yasa: Tiếng tốt lành.

Thế nào gọi là Siri: Hạnh phúc?

Kim thân của Đức Thế Tôn có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ, có hào quang mát mẻ phát ra từ kim thân của Ngài; nên nhân loại, chư thiên, phạm thiên đến hầu đảnh lễ cúng dường đến Đức Thế Tôn, lúc nào cũng cảm thấy hạnh phúc an lạc, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những chúng sinh đến hầu Đức Thế Tôn bao nhiêu lần cũng cảm thấy chưa đủ.

Đó gọi là Siri: Hạnh phúc.

Thế nào gọi là Kāma: Nguyện ước thành tựu?

Đức Thế Tôn khi còn là Đức Bồ Tát Sumedha có nguyện ước:

“Buddho bodheyyam”: Như Lai tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế trở thành Đức Phật, rồi sẽ giáo hóa chúng sinh cùng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, để trở thành bậc Thánh Nhân (tự giác - giác tha).

Điều ước nguyện ấy đã thành tựu.

“Mutto moceyyam”: Như Lai tự mình giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, rồi sẽ giáo huấn chúng sinh cũng được giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài (tự độ - độ tha).

Điều nguyện ước ấy đã thành tựu.

“Tinno tareyyam”: Như Lai tự mình vượt qua biển khổ luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc, rồi sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng vượt qua biển khổ luân hồi đạt đến Niết Bàn an lạc (tự đáo - đáo tha).

Điều nguyện ước ấy đã thành tựu.

Đó gọi là Kāma: Nguyện ước thành tựu.

Thế nào gọi là Payatta: Tinh tấn không ngừng?

Hằng ngày Đức Thế Tôn có sự tinh tấn không ngừng hành 5 phận sự gọi là Buddhakicca [21] : phận sự của Đức Phật.



Năm phận sự của Đức Phật:

Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ (purebhattakicca).
Phận sự sau khi độ ngọ (pacchābhattakicca).
Phận sự canh đầu đêm (paṭhamayāma).
Phận sự canh giữa đêm (majjhimayāma).
Phận sự canh chót đêm (pacchimayāma).

Giải thích:

Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ như thế nào?

Mỗi buổi sáng đến giờ đi khất thực, có khi Đức Phật ngự đi khất thực một mình để tế độ chúng sinh nào đó, có khi Đức Phật ngự cùng với chư Tỳ khưu Tăng đi vào xóm kinh thành để khất thực. Khi Đức Phật thọ thực xong, có số dân chúng thỉnh Đức Phật thuyết pháp, có số xin thọ phép quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới… có số xin Đức Phật cho phép xuất gia xong, Đức Phật ngự trở về chùa.



Phận sự sau khi độ ngọ như thế nào?

Khi Đức Phật ngự trở về chùa, rửa chân xong, đứng trên bục giảng, Ngài khuyên dạy chư Tỳ khưu:

Bhikkhave appamādena sampādetha
Dullabho Buddhuppādo lokasmim
Dullabho manussattapatilābho
Dullabhā khanasampatti
Dullabhā pabbajjā
Dullabham saddhammassavanam”.

Này chư Tỳ khưu, các con hãy nên cố gắng hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, tiến hành Tứ Niệm Xứ.

- Đức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó.
- Được sinh làm người là một điều khó.
- Có được cơ hội hành phạm hạnh cao thượng là một điều khó.
- Được xuất gia trở thành Tỳ khưu là một điều khó.
- Được nghe chánh pháp là một điều khó”.

Đó là những điều khó mà Đức Phật hằng ngày thường khuyên dạy chư Tỳ khưu chớ nên dể duôi.

Đức Phật ngự vào cốc Gandhakuti, còn chư Tỳ khưu mỗi vị ở một nơi để tiến hành thiền định, hoặc tiến hành thiền tuệ.

Phận sự canh đầu đêm như thế nào?

Canh đầu: Đức Phật giáo huấn chư Tỳ khưu, có số hỏi pháp, luật; có số xin thọ pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ; có số nghe pháp. Qua hết canh đầu, chư Tỳ khưu đảnh lễ Đức Phật trở về chỗ ở của mình.

Phận sự canh giữa đêm như thế nào?

Canh giữa: Đức Phật cho phép chư thiên, phạm thiên trong 10.000 thế giới đến hầu Ngài, đảnh lễ xong đứng một nơi hợp lẽ bạch hỏi pháp. Đức Phật giảng giải những câu hỏi của chư thiên, phạm thiên xong, hết canh giữa, chư thiên, phạm thiên đảnh lễ Đức Phật trở về cảnh giới của mình.

Phận sự canh chót đêm như thế nào?

Đức Phật phân chia canh chót làm ba thời:



Thời gian đầu: Đức Phật đi kinh hành.

Thời gian giữa: Đức Phật ngự vào cốc Gandhakuti nghỉ ngơi, nằm nghiêng bên phải, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác, định giờ tỉnh dậy.

Thời gian chót: Đức Phật nhập thiền đại bi, khi xả thiền, quán xét chúng sinh trong 10.000 thế giới bằng Phật Nhãn Tuệ, xem xét chúng sinh nào đã có gieo duyên lành với Ngài, hoặc đã từng tạo ba-la-mật từ Chư Phật quá khứ đến kiếp hiện tại này, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, Ngài ngự đến để tế độ chúng sinh ấy, dầu ở gần hay xa, trong thế giới này hay thế giới khác.

Mỗi ngày, mỗi đêm Đức Thế Tôn hành đầy đủ 5 phận sự ròng rã suốt 45 năm, cho đến giây phút cuối cùng tịch diệt Niết Bàn.

Ân đức Bhagavā còn có nhiều ý nghĩa khác.

Đức Thế Tôn là Bậc có đầy đủ trọn vẹn các pháp của bậc Tôn Sư.

Do đó, Ngài có Ân đức Bhagavā: Đức Thế Tôn.

Niệm Ân đức Bhagavā

Người Phật tử thường tưởng niệm đến Ân đức Phật, “Ân đức Bhagavā” này sẽ phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt phát sinh hỷ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Đức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi tai họa, phước thiện được tăng trưởng.

Hành giả tiến hành niệm Ân đức Phật, niệm Ân đức Bhagavā như sau:

Câu Ân đức Bhagavā: “Itipi so Bhagavā Bhagavā..., Itipi so Bhagavā Bhagavā..., Itipi so Bhagavā Bhagavā...” làm đối tượng thiền định.

Hoặc danh từ Ân đức Bhagavā: “Bhagavā... Bhagavā... Bhagavā...” làm đối tượng thiền định.

Đề mục thiền định niệm Ân đức Phật này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi tế, rộng lớn vô lượng vô biên; vì vậy, định tâm không thể an định vào một điểm nào nhất định được, nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đạt cận định mà thôi; không thể chứng đạt đến an định, do đó không thể chứng đắc được bậc thiền hữu sắc nào. Như vậy, tâm cận định này vẫn còn trong dục giới đại thiện tâm, thuộc về dục giới đại thiện nghiệp.

Do năng lực dục giới thiện nghiệp tiến hành niệm Ân đức Phật này sẽ cho quả như sau:

Kiếp hiện tại: Hành giả là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo, có trí tuệ sáng suốt; phước thiện tăng trưởng tránh được khỏi mọi tai họa, thân tâm thường được an lạc.

Kiếp vị lai: Hành giả sau khi chết, nếu thiện nghiệp này cho quả tái sinh làm người, sẽ là người có đầy đủ tam nhân (vô tham, vô sân, vô si) cao quý, được nhiều người quý mến kính trọng, nếu tái sinh làm chư thiên trong cõi trời nào trong 6 cõi trời dục giới, sẽ là một chư thiên có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời, hưởng sự an lạc cao quý đến hết tuổi thọ trong cõi trời ấy.

Dục giới thiện nghiệp này có thể cho quả tốt lành suốt nhiều kiếp, đặc biệt còn làm duyên lành dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn trong thời vị lai nào đó.

-ooOoo-

 



tải về 1.48 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương