những chân dung tiêu biểu (2001), chân dung Nam Cao đã được hoàn thiện, nghiên cứu sáng tác
của ông được bổ sung đáng kể với sự khảo sát khá kĩ cuộc đời tác giả, môi trường xã hội, văn
hoá và bước đầu kết hợp lối phân tích thi pháp. Cho tới công trình Về văn học Việt Nam hiện đại
- Nghĩ tiếp… tiếp cận sáng tác của Nam Cao được mở rộng sang hướng nghiên cứu so sánh.
Trong bài viết Sêkhốp và Nam Cao (nhìn từ hai nền văn học), sáng tác của Nam Cao được nhìn
nhận trong tương quan so sánh với sáng tác của đại văn hào Nga, người mà Nam Cao tôn làm
thầy, từ điểm nhìn so sánh hai nền văn học, lịch sử, văn hoá hai dân tộc. Tiếp cận Nam Cao theo
hướng này, Phong Lê không chỉ làm rõ thêm vai trò “người khai phá-tiên phong, vị trí hàng đầu”
của Nam Cao trong nền văn học dân tộc, mà còn cho thấy quy luật phát triển chung của chủ
nghĩa hiện thực cũng như những đặc trưng dân tộc của nó qua sáng tác của hai nhà văn tiêu biểu
này.
Dù những nghiên cứu của Phong Lê về Nam Cao có kì công, kĩ lưỡng tới đâu, tôi vẫn
muốn anh triển khai thêm những luận điểm đang còn dừng ở mức nhận định, khái quát chung.
Chằng hạn luận điểm về sự phát triển gia tốc thường được nhắc tới trong nhiều bài viết của anh.
Ở chân dung Nam Cao, Phong Lê cũng gắn sáng tác của nhà văn với sự phát triển gia tốc như
một đặc điểm nổi bật của văn học công khai thời kì 1930-1945. Tuy nhiên, luận giải của anh về
kiểu phát triển này của văn chương mới chỉ dừng lại ở những quan sát hiện tượng bên ngoài và
thiên về cảm tính. Văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ, dưới ảnh hưởng của văn hoá phương
Tây và sự phát triển gấp rút của lịch sử, phát triển căng thẳng, dồn nén, nhưng không bỏ qua bất
cứ giai đoạn nào của tiến trình văn học nói chung. Song, cái gọi là “giai đoạn” ở một nền văn học
non trẻ phát triển tăng tốc để giảm bớt so le lịch sử (theo cách nói của Phong Lê), hoà nhập vào
dòng chảy chung của văn học thế giới, như văn học Việt Nam, thường chỉ là những dấu hiệu mờ
nhạt. Trong một thời gian ngắn nó không thể làm kịp, làm kĩ những gì các nền văn học lớn trên
thế giới đã làm trong nhiều thế kỉ, nên chỉ chọn những gì phù hợp với nhu cầu phát triển nội tại
của mình. Chính vì thế, chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ diễn ra song song
với chủ nghĩa hiện thực và thường lẫn vào lối sáng tác này (trường hợp Thạch Lam), để cuối
cùng nhường vị trí hàng đầu cho văn học “tả chân” vốn “sốc vác hơn” trong việc thực hiện
những nhiệm vụ xã hội (cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực diễn ra
trong anh chàng văn sĩ Điền ởTrăng sáng của Nam Cao và chiến thắng của cái thứ hai đối với
cái thứ nhất trong lời phán quyết cuối cùng: văn học không thể là ánh trăng lừa dối!). Sáng tác
của một số nhà văn tiêu biểu phát triển tuần tự, song thường lướt qua những cái không phù hợp
với nhu cầu nội tại và các “giai đoạn” trong đó cũng trở thành những “dấu hiệu”. Trong sáng tác
của Nam Cao có đủ dấu hiệu của các kiểu sáng tác, từ chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa lãng mạn
tới chủ nghĩa tự nhiên, thậm chí chủ nghiã hiện đại. Song ông đã “cắm sào” nơi chủ nghĩa hiện
thực và đã đưa nó lên đỉnh cao phát triển bằng những truyện ngắn xuất sắc và tiểu thuyết Sống
mòn của mình. Trang bị lí thuyết về sự phát triển gia tốc của văn học (trên cơ sở phát triển gia tốc
lịch sử), đi sâu phân tích những tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao trên cơ sở so sánh với sáng tác
các nhà văn đương thời nói chung, các nhà văn theo khuynh hướng “tả chân” nói riêng, mới thấy
hết được tài năng cũng như những đóng góp quan trọng của nhà văn này trong công cuộc hiện
đại hoá gấp rút của văn học dân tộc nửa đầu thế kỉ, điều tiếp tục diễn ra vào thập niên cuối thế kỉ,
theo một đường xoáy ốc diệu kì.
Trong số những người có đóng góp đáng kể cho công cuộc hiện đại hoá văn học dân tộc
còn phải kể tới Hoài Thanh, nhà phê bình văn học mà Phong Lê giành nhiều tâm huyết xây dựng
chân dung. Khác với chân dung của Nguyễn Ái Quốc và Nam Cao, những người Phong Lê chỉ
được tiếp xúc qua sáng tác, chân dung Hoài Thanh được khắc hoạ trên cơ sở tiếp xúc với văn và
với người. Tuy Phong Lê không được chứng kiến thời kì “huy hoàng” của Hoài Thanh – “người
khai mạc nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại”, chủ tướng phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”
trong cuộc chiến nẩy lửa với phái “nghệ thuật vị nhân sinh”, tác giả của Văn chương và hành
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |