Hội chứng động mạch vành cấp
Nghiên cứu của Leesar và cộng sự (17) cho thấy ở nhóm bệnh nhân có cơn đau thắt ngực không ổn định, FFR < 0.75 vẫn có thể được sử dụng để đưa ra các quyết định lâm sàng. So với test xạ ký cơ tim, sử dụng FFR làm giảm thời gian và chi phí nằm viện mà không làm tăng thời gian thủ thuật, mức độ chiếu xạ hay các biến cố lâm sàng.
Ở bệnh nhân có nhồi máu cơ tim cũ, khối lượng cơ tim còn sống giảm cộng với sự hư hại của kháng lực mạch máu có thể làm thay đổi đáp ứng của mạch máu đối với thuốc dãn mạch. Hệ quả là giá trị 0.75 của FFR có thể không thích hợp. Trong pha cấp của nhối máu cơ tim, các chiến lược điều trị nên dựa vào ECG, triệu chứng lâm sàng... FFR chỉ nên sử dụng ít nhất 6 ngày sau nhồi máu cơ tim cấp. Claeys và cộng sự (18) chứng minh rằng FFR chỉ bị ảnh hưởng ở 5% bệnh nhân có rối loạn vi mạch nặng và có thể được sử dụng ở bệnh nhân mới bị nhồi máu cơ tim (recent myocardial infarction). Hai nghiên cứu khác ở nhóm bệnh nhân này cũng cho kết quả tương tự. De Bruyne và cộng sự (19) so sánh FFR và xạ hình cơ tim trong việc phát hiện vùng cơ tim thiếu máu còn khả năng hồi phục. Kết quả là giá trị giới hạn dưới bằng 0.75 của FFR thể được sử dụng để phát hiện vùng cơ tim thiếu máu còn khả năng hồi phục ở thời điểm ít nhất 06 ngày sau nhồi máu cơ tim cấp. Ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cũ, FFR cũng đáng tin cậy trong việc phân biệt những bệnh nhân dương tính hoặc âm tính với xạ hình cơ tim, với độ nhạy 82% và độ chuyên biệt 87%. Trong nghiên cứu của Usui và cộng sự (20), khi so sánh FFR và xạ hình tim với thallium-201 để đánh giá thiếu máu cơ tim trên bệnh nhân nhồi máu cơ tim cũ, FFR có độ nhạy và độ chuyên biệt lần lượt là 79% và 79%.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |