ĐẠO ĐỨc kinh doanh tại việt nam thực tại và giải pháp sv. Nguyễn Thị Nga



tải về 409.98 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu13.08.2016
Kích409.98 Kb.
#18144
1   2   3   4

3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
3.1. Đánh giá về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Do điều kiện thời gian và thông tin nên chắc chắn bài viết này chưa thể tŕnh bày

được hết các khía cạnh về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua những ví dụ

thực tế và kết quả điều tra nêu trên, bước đầu chúng ta cũng có thể đưa ra một số nhận xét

sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam:


Hiểu biết của nhà kinh doanh cũng như người dân Việt Nam nói chung về đạo đức

kinh doanh c̣n rất hạn chế, hầu hết đều gắn khái niệm đạo đức kinh doanh với tuân thủ

pháp luật trong kinh doanh. Cách hiểu này đă thu hẹp đáng kể phạm vi áp dụng đạo đức

kinh doanh, hơn nữa tại một quốc gia mà hệ thống phát luật chưa đầy đủ và chặt chẽ như

Việt Nam th́ cách hiểu này càng làm ư thức về đạo đức kinh doanh khó phát huy tác dụng.
Ư thức của người dân về những phạm trù như: Trách nhiệm của doanh nghiệp với xă

hội, Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, Nghĩa vụ và trách nhiệm về măt

đạo đức của doanh nghiệp với các nhà đầu tư c̣n khá mơ hồ, lệ thuộc vào luật pháp chứ

chưa ư thức được trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng và xă hội. Một tỷ lệ cao

những người được hỏi tỏ ra bị động, chỉ chịu thực thi trách nhiệm khi bị bắt buộc chứ chưa

chủ động hành động v́ lợi ích xă hội.


Điểm yếu kém nhất trong nhận thức của người Việt Nam thể hiện qua cuộc điều tra

này chính là ư thức về môi trường và về vấn đề sở hữu trí tuệ. Điều này cũng trùng hợp với

những kết quả điều tra của LHQ và những nguồn thông tin khác. Về lâu dài đây là vấn đề

cần được lưu ư giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững cho Việt Nam


12

Tuy nhiên, cuộc điều tra cũng cho thấy một số tín hiệu đáng mừng về tương lai của

đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Trước hết, 100% số người được hỏi đă từng được nghe về

đạo đức kinh doanh. Mặc dù khái niệm đạo đức được truyền đạt c̣n mơ hồ nhưng chỉ riêng

việc người dân có quan tâm nhều hơn tới vấn đề này cũng đă là một tín hiệu đáng mừng.

Một khía cạnh đáng mừng nữa là kết quả trả lời của khối sinh viên, dù phần lớn là sinh viên

năm thứ nhất, tức là chưa được đào tạo nhiều về kiến thức chuyên môn, nhưng đă chính xác

hơn nhiều so vơi khối doanh nghiệp. Hầu hết sinh viên thường xuyên nghe nói về đạo đức

kinh doanh (17/20 người được hỏi), cao hơn hẳn so với tỷ lệ chung (85% so với 67%). Tỷ lệ

sinh viên cho đạo đức kinh doanh là “bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng” cũng cao hơn

nhiều so với tỷ lệ chung (35% so với 8%). Trong t́nh huống 3, để trả lời câu hỏi về phản

ứng của doanh nghiệp với việc hàng của công ty bị kẻ xấu đánh tráo, không sinh viên nào

đồng ư với phương án “Không thông báo ǵ cả v́ không phải là lỗi của doanh nghiệp”, so

với 8% tỷ lệ chung. Trong t́nh huống 6, khi trả lời câu hỏi về việc một công ty nước ngoài

đến lập nhà máy ở Việt Nam để trốn tránh sự lỏng lẻo trong những quy định về môi trường

của Việt Nam, không sinh viên nào đồng ư với phương án “Doanh nghiệp được phép tận



dụng cơ hội” so với 25% tỷ lệ chung. Nhưng trong t́nh huống số 7 về sự kiện “một dây

chuyền sản xuất trong công ty bị hỏng, dẫn đến sản lượng sản xuất bị sút giảm nghiêm

trọng, nhưng nếu thông tin này bị lộ ra ngoài, cổ phiếu của công ty sẽ bị sút giảm nghiêm

trọng“, mặc dù có tới 65% sinh viên cho là doanh nghiệp cần “Thông báo rộng răi cho các

cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn” so với 42% tỷ

lệ chung, nhưng lại có tới 3 sinh viên (chiếm 15% so với so với tỷ lệ chung là 8%) cho là

nên “Không thông báo gi cả cho đến khi bắt buộc”. Kết quả này có thể bắt nguồn từ việc thị

trường chứng khoán c̣n quá mới mẻ ở Việt Nam, các em lại là sinh viên những năm đầu

nên những hiểu biết về trách nhiệm của doanh nghiệp với thị trường này chưa nhiều. Tương

tự như vậy, trong câu số 8 về quan điểm trước việc “Một doanh nghiệp từ chối tiếp nhận lao



động nữ đang nuôi con nhỏ hoặc buộc làm thêm giờ khi lao động nữ đang nuôi con dưới 3

tuổi”, cũng có tới 40% sinh viên cho đó là vi phạm luật pháp so với 24% tỷ lệ chung, nhưng

vẫn c̣n 15% so với 8% tỷ lệ chung cho là “Không vi phạm v́ mọi người lao động phải có



nghĩa vụ làm việc như nhau!” Đây có lẽ là kết quả của việc thiếu hiểu biết về luật lao động

và thói quen áp dụng máy móc những nguyên tắc về b́nh đẳng giới, vốn được tuyên truyền

rất phổ biến ở Việt Nam. Mặc dù kết quả điều tra về hai khía cạnh này chưa cao, nhưng nh́n

chung, nhận thức của khối sinh viên về đạo đức kinh doanh rơ ràng cao hơn và thể hiện một

tinh thần trách nhiệm tốt hơn so với kết quả điều tra chung.
Với số mẫu điều tra c̣n ít ỏi nhưng những kết quả khảo sát ban đầu của khối sinh

viên, những nhà kinh doanh tương lai, cũng có thể coi là tín hiệu khả quan về nâng cao nhận

thức của giới doanh nhân Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Một số đề xuất nhằm phát triển và hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Qua những ví dụ thực tế và số liệu thu thập được về trạng đạo đức kinh doanh ở Việt

nam, chúng ta có thể thấy mặc dù có một số tín hiệu khả quan, nhưng hiểu biết về đạo đức

kinh doanh của cả giới trí thức và giới doanh nghiệp ở Việt Nam đều có những thiếu sót
13

nghiêm trọng. Những thiếu sót này không những đă gây tác hại cho người tiêu dùng, cho các

nhà kinh doanh, cho xă hội mà c̣n ảnh hưởng nghiêm trọng đến h́nh ảnh của doanh nghiệp,

làm doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và lâu dài sẽ ảnh hưởng đến h́nh ảnh quốc gia trên thị

trường quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, tác giả xin mạn dạn đưa ra một số đề xuất sau:
Trước hết, cần nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện khung luật pháp Việt nam nhằm

tạo cơ sở pháp lư vững chắc cho đạo đức kinh doanh
Đây là biện pháp tiên quyết, v́ luật pháp chính là khung dễ thấy nhất cho đạo đức

kinh doanh. Cần hoàn thiện các Bộ Luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Lao động, Luật

Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ Người tiêu dùng, Luật Môi trường… Một nguyên nhân quan

trọng cho t́nh trạng yếu kém của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay xuất phát từ sự

thiếu hoàn thiện trong pháp luật Việt nam. Nếu luật pháp quy định chặt chẽ hơn, hợp lư hơn

sẽ tránh được t́nh trạng doanh nghiệp nệ vào sự sơ hở của luật pháp mà trốn tránh nghĩa vụ

đạo đức của ḿnh. Một ví dụ điển h́nh cho vấn đề này là Luật bảo vệ người tiêu dùng. Vừa

qua, tại Hội thảo “Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và định hướng xây



dựng Luật Bảo vệ quyền người tiêu dùng” do Cục Quản lư cạnh tranh (Bộ Công thương)

vừa tổ chức tại Hà Nội, ông Hank Baker (đại diện Dự án Star Việt Nam) khẳng định, người

tiêu dùng Việt Nam chưa được đảm bảo quyền lợi khi sử dụng các hàng hóa, dịch vụ. Đa số

vẫn trông chờ vào “ḷng tốt” của người bán hàng khi mua các sản phẩm trên thị trường.Theo

ông Baker : “Khi gặp một sản phẩm không ưng ư, chúng ta vẫn hy vọng ḿnh sẽ may mắn

lấy lại được tiền. Trong khi đó, trên thị trường lại có quá nhiều người bán hàng không có

tâm với hàng hóa ḿnh bán ra. Hậu quả cuối cùng là người tiêu dùng phải chịu thiệt tḥi”.

Một trong những nguyên nhân của t́nh trạng trên là pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người

tiêu dùng tại Việt Nam chưa được thực thi một cách hiệu quả. Theo bà Vũ Thị Bạch Nga,

Trưởng Ban Bảo vệ người tiêu dùng (Cục Quản lư cạnh tranh), hiện chỉ có hai văn bản quy

phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này là Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

(năm 1999) và Nghị định 55/2008/NĐ - CP ngày 24/4/2008 quy định chi tiết thi hành pháp

lệnh này. Tuy nhiên, bà Nga cho biết, các quy định của pháp lệnh lại chưa phát huy được

hiệu lực trên thực tế. Quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng đang được quy định rất

chung chung. Các quy định mới chỉ được “gọi tên” mà chưa đi sâu phân tích bản chất cụ thế

của các quyền và trách nhiệm đó. Ví dụ, điều 8 của Pháp lệnh có ghi : « người tiêu dùng



được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe và môi trường khi sử dụng hàng hóa, dịch

vụ... » nhưng lại không quy định quyền này được thể hiện như thế nào trên thực tế? Người

tiêu dùng phải làm ǵ để được đảm bảo an toàn? Ngoài ra, c̣n tồn tại những bất cập trong

quy định về quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Luật

Bảo vệ Người tiêu dùng cũng không quy định các chế tài để xử lư hành vi vi phạm của tổ

chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ như cân, đong sai, thông tin về dịch vụ hàng hóa

thiếu trung thực... “Điều 16 của Pháp lệnh quy định, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh



hàng hóa, dịch vụ phải giải quyết kịp thời mọi khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hóa,

dịch vụ của ḿnh khi chúng không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đă công bố

hoặc hợp đồng đă giao kết. Tuy nhiên, tŕnh tự, thủ tục ra sao, hậu quả pháp lư mà cá nhân

tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện yêu cầu này như thế nào lại không được nói

14



tới”, bà Nga phân tích. Có mặt tại cuộc Hội thảo, Đại diện Cục Quản lư cạnh tranh cũng cho

rằng, những quy định về quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng trong các văn bản quy

phạm pháp luật hiện hành vẫn c̣n mang tính chất “nghị quyết”, chưa thực sự đảm bảo cơ

chế cho việc thực thi các quyền này. Theo đại diện Cục Quản lư cạnh tranh, những hạn chế

trong các văn bản quy phạm pháp luật đă khiến cho người tiêu dùng Việt Nam chưa được

bảo vệ tốt nhất về quyền lợi. Tuy nhiên, ông Hank Baker tỏ ư quan ngại rằng, nếu dự luật

vẫn được thiết kế theo cách cũ là tập trung xử phạt hành vi vi phạm, th́ hiệu quả bảo vệ

người tiêu dùng không cao. Theo ông Hank Baker, yêu cầu đặt ra lúc này đối với thực tế ở

Việt Nam là cần có luật về hội để tăng cường vai tṛ của các hội trong công tác bảo vệ

người tiêu dùng. Nếu không nhanh chóng sửa đổi những thiếu sót này th́ quyền lợi của

người tiêu dùng vẫn chưa được đảm bảo, hay như ông Hank Baker thừa nhận: “Tôi không

thích là người tiêu dùng Việt Nam!13.
Cần nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Cần lưu ư là không chỉ các nhà kinh doanh, các nhà nghiên cứu mới cần nắm được

kiến thức về đạo đức kinh doanh mà cả xă hội cần ư thức điều này. Vi vậy, trước hết các

phương tiện thông tin đại chúng nên tiến hành phổ cập các kiến thức về đạo đức kinh doanh

nhằm định hướng hành vi của người dân, để người dân có thể nắm được nhằm tự bảo vệ

quyền lợi cho ḿnh và giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Tiếp theo, các cơ quan Nhà

nước chịu trách nhiệm quản lư, hướng dẫn doanh nghiệp như Bộ Công thương, Pḥng

Thương mại và Công nghiệp Việt nam, Sở Kế hoạch - Đầu tư ở các tỉnh, Thành phố cần

quan tâm phổ biến những kiến thức chung nhất về đạo đức kinh doanh. Việc này có thể tiến

hành bằng nhiều cách như tổ chức các lớp học cho doanh nghiệp về đạo đức kinh doanh,

chọn lựa dịch và xuất bản một số sách có uy tín của nước ngoài về đề tài này… Nên lưu ư là

sách cho doanh nghiệp cần ngắn gọn, nhiều t́nh huống thực tế, kiểu Cẩm nang về đạo đức

kinh doanh chẳng hạn… Các Trường Cao đẳng, Đại học khối Kinh tế cũng cần đưa nội

dung về đạo đức kinh doanh vào chương tŕnh đào tạo của ḿnh, có thể dưới dạng một môn

riêng hay gài vào các môn học khác như quản trị nhân sự, nghiệp vụ kinh doanh… V́ bản

quyền của các sách kinh doanh thường đắt và dịch thuật không dễ dàng, nên có thể tranh thủ

sự trợ giúp của các tổ chức nước ngoài để đảm bảo hiệu quả cho việc làm này. Một ví dụ

cho cách làm này là sự kiện tháng 3 năm 2008, Trung tâm Thông tin thuộc Đại sứ quán Hoa

Kỳ đă tài trợ cho Nhà Xuất bản Trẻ để dịch và xuất bản cuốn “Business Ethics: A Manual

For Managing A Responsible Business Enterprise In Emerging Market Economies” của các

tác giả Igor Y. Abramov, Kenneth W. Johnson and Donald L. Evans, Nhà xuất bản Diane

Pub Co mới phát hành tháng 5 năm 2004, một cuốn sách được đánh giá là có uy tín trong

giới nghiên cứu. Đây là một cách làm hay, trên thế giới hiện nay có khá nhiều tổ chức có uy

tín về đạo đức kinh doanh như Hiệp hội Quốc tế về Kinh doanh, Kinh tế và Đạo đức (The

International Society of Business Economics and Ethics - ISBEE), được thành lập từ năm

1989, có trụ sở chính ở Mỹ, và là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức các Đại hội về Đạo đức

kinh doanh 4 năm 1 lần…. Nếu tranh thủ được sự trợ giúp của họ để lưu hành và phổ biến

13 http://dantri.com.vn/kinhdoanh/Nguoi-tieu-dung-Viet-am-chiu-qua-nhieu-thiet-thoi/2008/6/236945.vip

15

những tài liệu có chất lượng về vấn đề này sẽ tiết kiệm được kinh phí và phổ biến được



những kiến thức tiên tiến nhất.
Cần có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh

của ḿnh
Chúng ta cần ư thức rằng, không có ranh giới cố định nào đạo đức mà đạo đức là một

phạm trù mà con người luôn cần vươn lên để đạt đến nó. Rất khó kiểm soát đạo đức v́ nó

vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật rất nhiều. Với đạo đức kinh doanh, vấn đề c̣n phức tạp

hơn v́ việc tuân thủ đạo đức trong ngắn hạn thường không đem lại lợi nhuận cho doanh

nghiệp, trong khi lợi nhuận mới là mục đích chính của doanh nghiệp. V́ vậy, các cơ quan

hữu quan cần có những biện pháp để khuyến khích doanh nghiệp có thành tích trong đạo

đức kinh doanh như trong các giải Sao Vàng Đất Việt, Bông Hồng Vàng… có thể đưa việc

có thành tích trong đạo đức kinh doanh là một tiêu chuẩn để xét. Các cơ quan thông tin đại

chúng có thể đăng bài tôn vinh những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này… Ngược lại, các cơ

quan quản lư cũng cần có biện pháp phạt những doanh nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh

với mức phạt tương xứng. Không thể tiếp tục t́nh trạng doanh nghiệp buộc người lao động

làm thêm giờ 16 - 20h/ngày hàng tuần liền đến mức lao động ngất xỉu mà chỉ bị phạt vài

triệu VND; Các doanh nghiệp vi phạm quy định bảo vệ môi trường như xả hóa chất ra sông

làm cá chết hàng loạt, người dân không có nước sinh hoạt, etc. mà lại được cho phép tiếp

tục hoạt động trong khi t́m biện pháp xử lư….
Cũng như văn hóa, đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng là những

phạm trù phức tạp, cần nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện và phát triển. Là một quốc

gia đang phát triển, mới tham gia vào tiến tŕnh toàn cầu hóa, những phạm trù như văn hóa

kinh doanh, đạo đức kinh doanh c̣n khá mới mẻ ở Việt nam. Được biết trong thời gian tới,

chính phủ Việt Nam đang có chủ trương nâng cao tŕnh độ nhận thức cho người dân và

doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan đến hội nhập KTQT và toàn cầu hóa. Bộ Giáo dục

và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường Đại học và Cao đẳng cần đổi mới chương

tŕnh đào tạo cho phù hợp với tŕnh độ chung trên thế giới. Có được những yếu tố thuận lợi

này và truyền thống đạo đức lâu đời của người Việt Nam, hy vọng là trong thời gian tới,

nhận thức của người VN về DDKD sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy tŕ sự phát

triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt Nam .

16

Business ethics in Vietnam – Reality and solution



Dr. Nguyễn Hoàng Ánh
Foreign Trade University in Hanoi
1. Introduction
1.1. What is Business ethics?
The study of ethics is an ancient tradition, rooted in religious, cultural, and

philosophical beliefs. Ethics is concerned with moral obligation, responsibility, and social

justice. The word ethics comes from the Greek words "ethikos" and "ethos," meaning

custom or usage. As employed by Aristoteles, the term included the idea of character and

disposition. Thus, ethics reflects the character of the individual and more contemporarily

perhaps, the character of the business firm, which is a collection of individuals. Business

ethics is either ancient or very new. Being considered as moral reflection on commerce,

business ethics is probably as old as trade itself. In the Code of Hammurabi (1700s B.C.)

was a prescription for prices and tariffs and laying down both rules of commerce and harsh

penalties for noncompliance. It could be the evidence of civilization's earlier attempts to

identify the moral contours of commercial activity. Aristotle's Politics (300s B.C.) addresses

explicitly commercial relations in its discussion of household management. Judeo -

Christian morality, as expressed in, e.g., the Talmud (200 A.D.) and the Ten

Commandments 4 (Exodus 20:2-17; euteronomy 5:6-21), includes moral rules applicable to

commercial conduct.
However, as a discrete, self-conscious academic discipline, business ethics is barely

four decades old. Prominent business ethicist Norman Bowie dates its first academic

conference to 1974i. Since that time, business ethics has become a topic of popular

discussion by American business executives, employees, shareholders, consumers, and

college professors. After this, the study of business ethics has expanded widely to almost all

countries in the world. Unfortunately, not all the instructors, writers, and speakers agree

with one another about what business ethics is. Firstly, there is an inherent conflict between

business and ethics. Although society wants companies to create many well-paying jobs,

those same organizations want to limit compensation costs and raise productivity levels.

Customers want to purchase goods and services at low prices, but businesses want to

maximize profits. Society wants to reduce pollution levels, but businesses want to minimize

the cost that environmental regulations add to their operations. Then, from that arising a

natural, unavoidable tension in the term "business ethics" - a tension that stems from

conflicts between the interests of companies and their employees, customers, and the greater

society. Because these conflicts are fundamental to the nature of business, managers must

continuously and consciously balance the needs of the organization and its stockholders


17

with the needs of other stakeholders, including workers, customers, and the larger



communityii.
The simplest definition is business ethics are considered as Accepted principles of

right or wrong, governing the conduct of businesspeopleiii. the definition is rather general,

lacking some essential issues, such as: which kind of conduct the 5 principles can govern?

Or who are the businesspeople, and how should their conduct be governed?
Being aware of the complexity of the issue, Professor Phillip V. Lewis from Abilene

Christian University, USA has collected and surveyed 185 definitions of business ethics,

appeared in textbooks and articles from 1961 to 1981 to find out, how is 'business ethics'

defined in the literature and by business people. After fixing the areas of agreement among

those definitions, he synthesized a definition of “business ethics” as following: “Business

ethics is rules, standards, codes, or principles which provide guidelines for morally right

behavior and truthfulness (of an organization) in specific situationsiv. According to the

definition, business ethics can comprise those issues:


1. Rules, standards, codes or principles as moral guidelines that, if followed, will

prevent unethical behavior. For instance: if the labour law prescribes that women have an

equal right in working as men, it could prevent employers from gender discrimination in

seeking employees.


2. Morally right behavior — individual actions that conform to justice, law, or

another standard; individual actions in accord with fact, reason, or truth. A business person

just constantly deals with the central issue of what consequences will result from his or her

actions. That is, she or he must not engage in any practice that would tend to corrupt the

integrity his or her position.
3. Truthfulness — statements and/or actions that conform to facts or that have the

appearance of reality. For example, the Preamble of the Code of Ethics of the


Society of Professional Journalists in USA states: "We believe in public enlightment

as the forerunner of justice, and in our Constitutional role to seek the truth as part of the

public's right to know the truth."
The most difficult part in studying ethics in general and business ethics in particular

is to define, what is right or wrong, because what may be ethically right to one person, may

be wrong to another; what today could be considered as right, tomorrow could be wrong.

It’s named by Lewis as “Specific situation — occasions


Of personal moral dilemma calling for ethical decisions”. For example, the

American Medical Association has adopted as its principle objective rendering "service to



humanity with full respect for the dignity of man". The responsibility of the physician

extends "not only to the individual but also to society". Thus, any participation in a situation


18

that does not have "the purpose of improving both the health and the well-being of the



individual and the community" would be the result of an unethical decision.
Ferrels and John Fraedrich have another idea for the definition of business ethics,

herein stated: “Business ethics comprises the principle and standards that guide behavior in



the world of business. Whether a specific action is right or wrong, ethical or unethical, is

often determined by investors, employees, customers, interest groups, the legal system and

the communityv
Because the definition is overlapped with Lewis’s definition in most of parts but it

represents more clearly, who is involved in business ethics, it will be applied on that paper.

In that way, business ethics in that mean have many common shares with law compliance,

corporate social responsibility and issues regarding the moral rights and duties between a

company and its shareholders: fiduciary responsibility, stakeholder concept v. shareholder

concept, etc. It means that business ethics include not only obeying the rules but also

protecting also protecting the benefits of people concerned with the activities of enterprises


Каталог: 2011
2011 -> HƯỚng dẫn viết tiểu luậN, kiểm tra tính đIỂm quá trình môn luật môi trưỜNG
2011 -> Dat viet recovery cứu dữ liệu-hdd services-laptop Nơi duy nhất cứu dữ liệu trên các ổ cứng Server tại Việt Nam ĐC: 1a nguyễn Lâm F3, Q. Bình Thạnh, Tphcm
2011 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế SỞ giáo dục và ĐÀo tạO
2011 -> SỞ TƯ pháp số: 2692 /stp-bttp v/v một số nội dung liên quan đến việc chuyển giao CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> QUỐc hội nghị quyết số: 24/2008/QH12 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> NĐ-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2011 -> BỘ NỘi vụ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> Nghị quyết số 49-nq/tw ngàY 02 tháng 6 NĂM 2005 CỦa bộ chính trị VỀ chiến lưỢc cải cách tư pháP ĐẾn năM 2020
2011 -> Ủy ban nhân dân tỉnh bà RỊa vũng tàU
2011 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc

tải về 409.98 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương