Nhất Gia Bán Thiên-hạ Phần Thứ Nhất Sự Hình Thành Họ Vũ ở Việt-Nam



tải về 471.47 Kb.
trang5/6
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích471.47 Kb.
#3718
1   2   3   4   5   6

Từ đài câu cá Ngọc Sơn

Đền Ngọc Sơn tương truyền là đài câu cá dưới thời Lê Trịnh, về sau trở thành ngôi chùa của gia đình ông Tín Trai, một nho gia quê ở Thường Tín. Sau này ông Tín Trai nhượng cho Hội khuyến thiện do Vũ Tông Phan làm Hội trưởng. Từ đây, Ngọc Sơn được sửa thành đền, là trụ sở của Hội khuyến thiện, một tổ chức của các sĩ phu danh tiếng ở Thăng Long lúc đó: Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Trần Văn Vi... và đương nhiên là Vũ Tông Phan.

Mục đích của Hội là làm rõ đức sáng, đổi mới dân sinh; đồng thời, Hội cũng đóng vai trò một nhà xuất bản lớn phổ biến những tác phẩm nâng cao dân trí, cổ vũ lòng yêu nước, tiêu biểu nhất là bộ văn sách Cổ văn hợp tuyển dày gần 3.000 trang; bên cạnh đó là Kinh đạo nam; Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ; Phượng Sơn từ chí lược của Nguyễn Thu; Khán Sơn đình thi tập của Đặng Huy Tá; tổng tập đồ sộ của Nguyễn Văn Siêu gồm Phương Đình văn loại, Phương Đình tùy bút, Anh ngôn tập, Vạn lý tập, v.v.

Đầu năm 1966, theo kiểm kê của Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội, số ván khắc in ở đây còn giữ được là hơn nghìn bản. Đó là chưa kể số bản in để lại chùa Liên Phái (mạn Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng ngày nay).

Sách báo còn ghi, sau này, vị Hội trưởng thứ hai của Hội khuyến thiện là Nguyễn Văn Siêu từng sửa sang đền Ngọc Sơn, và dựng thêm Tháp Bút, Đài Nghiên, bắc lại cầu Thê Húc, xây đình Trấn Ba... Gần đây, có nhiều học giả nhận định, những công trình ấy có thể có sự tham gia ý kiến của ông nghè Tự Tháp từ trước đó chăng?

Vũ Tông Phan, ông nghè Tự Tháp, một sĩ phu giàu tâm huyết, một nhà giáo dục xuất sắc, đồng thời là một nhà thơ tài hoa. Với Tô Khê tùy bút tập, Lỗ An di cảo thi tập, Thăng Long hoài cổ, Kiếm hồ thập vịnh... gồm ba bốn trăm bài thơ, người đời sau đánh giá: thơ có nhiều suy ngẫm độc đáo, triết lý, sâu sắc về thế sự; tràn ngập trong thơ là cảnh sắc thiên nhiên của đất nước; và đậm đà qua lời thơ là mối giao hòa giữa tâm hồn với tự nhiên. Theo Nhà giáo Vũ Thế Khôi, Giám đốc điều hành Trung tâm tiếng Việt Trường đại học Ngoại ngữ Hà Nội, cháu nội sáu đời ông nghè Tự Tháp, vào mùa thu năm nay, nhân dịp có cuộc hội thảo khoa học kỷ niệm 200 năm ngày sinh Vũ Tông Phan, sẽ xuất bản cuốn kỷ yếu của tiến sĩ họ Vũ.

200 năm sau, xuân năm Rồng này, ánh nước, mầu hoa quanh hồ Hoàn Kiếm vẫn rung hồng, rạng rỡ vận hội non sông sắp bước vào thiên niên kỷ mới, tỏa sáng như tâm huyết ông nghè Tự Tháp vẫn chờ mong:

Bờ đông nắng loáng cành đào rung

Hồ nước mầu hoa chung ánh hồng...

 Bùi Hạnh Cẩn


Tế tửu Vĩnh Xuyęn Vũ Văn Lý

Người thầy của nhŕ thơ Yęn Đổ

(Vườn Bůi)

Bốn năm sau, kể từ ngŕy cáo quan về ở vườn Bůi, lŕng Vỵ Hạ, xă Trung Lương, huyện Běnh Lục (Hŕ Nam), ngŕy 15-10 năm Thŕnh Thái thứ nhất (1889) nhŕ thơ Nguyễn Khuyến khởi bút viết cuốn gia phả ngŕnh thứ họ Nguyễn ở Vỵ Hạ. Nếu kể tổ tięn từ thời lập nghiệp, cũng đă qua 500 năm. Bản gia phả cho biết về cha mẹ, quá trěnh học hŕnh của Nguyễn Khuyến vŕ những người thầy đă có công giúp ông thŕnh tŕi.

Năm 1854 nhŕ thơ 19 tuổi. Cha mất, cảnh nhŕ tięu điều, xơ xác, Nguyễn Khuyến phải đi dạy học ở Nho Quan (Ninh Běnh), Liễu Đôi (Hŕ Nam)... Vừa dạy trẻ, có lúc phải đi riu tép kiếm sống.

Kinh sử thông lầu mŕ mấy khoa thi đều trượt. Có người bạn khá giả ngỏ ý muốn giúp ông ăn học, nhưng vě lo mẹ giŕ nęn ông muốn mở trường kiếm tiền nuôi mẹ. Mẹ khuyęn: "Nhŕ ta nối đời nho học, nếu như con gắng theo đňi thě mẹ dů đói rét cũng cam lňng. Nếu chỉ vě lợi trước mắt, để lỡ sự nghiệp, thě sau nŕy nơi chín suối cňn mặt mũi nŕo mŕ nhěn ông cha nữa."

Nhŕ thơ kể: Khuyến tôi kính sợ vâng theo, bčn đến học quan Tế tửu Vĩnh Xuyęn Vũ Văn Lý. Trňn hai năm, đến khoa Giáp Tý (1864) đỗ cử nhân đệ nhất danh. Tuy chiếm đầu bảng nhưng vẫn giữ bản chất con nhŕ nghčo, cơm canh rau đậu... Đến năm Tự Đức 24, khoa Tân Můi (1871) tôi được lấy đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, đệ nhất danh. Khoa nŕy, thi hội, thi đěnh, tôi đều đỗ đầu, được ban cờ biển có hai chữ "Tam nguyęn" để vinh quy. Về đến quę, lŕm lễ lạy chŕo mẹ, mẹ tôi mừng ứa nước mắt...

Cuộc đời khoa cử lận đận, gần 30 chục năm đčn sách, chín lần lều chőng đi thi lŕ nghị lực phi thường của ông vŕ công lao của những người thầy, trong đó phải kể đến tiến sĩ Vũ Văn Lý, người thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, Hŕ Nam.

Tiến sĩ Vũ Văn Lý hiệu lŕ Tế Xuyęn, lŕ con cụ Vũ Văn Huyęn, một người nổi tiếng văn thơ của đất Nam Xang, từng giữ chức Hŕn lâm viện thị giảng. Ông sinh ngŕy 18 tháng 12 năm Gia Long thứ 6 (1807) tại Vĩnh Trụ. Ông đă hai lần đỗ tú tŕi, rồi cử nhân khoa Canh Tý (1840), năm sau lại đỗ tiến sĩ khoa thi Tân Sửu (1841). Quan nghč họ Vũ được cử giữ các chức Hŕn lâm viện bięn tu, Tri phủ Thái Běnh, bięn tu Quốc Tử Giám. Năm 1851 ông được vua Tự Đức cho về hưu vŕ mở trường dạy học tại quę. Trong 13 năm mở trường, học trň của ông có nhiều người thŕnh đạt như Vũ Hữu Lợi (ông nghč Lợi Giao Ců), Bůi Quế (ông nghč Châu Cầu), Dương Khuę... vŕ đặc biệt lŕ Tam nguyęn Yęn Đổ Nguyễn Khuyến. Thời Nguyễn không lấy trạng nguyęn, có tám người đạt danh hiệu Tam nguyęn (đỗ đầu cả ba kỳ thi hương, thi hội, thi đěnh), thě Nguyễn Khuyến lŕ một. Bằng bŕi Văn sách thi đěnh, Nguyễn Khuyến đă chiếm bảng vŕng năm 37 tuổi.

Vŕo năm Tự Đức thứ 23 (1871), Nguyễn Khuyến đỗ thủ khoa, thě Tiến sĩ Vũ Văn Lý được triều đěnh mời vŕo Huế lần thứ hai để nhậm chức Quốc tử giám Tế tửu, Hŕn lâm viện Thị giảng (tương đương với chức hiệu trưởng trường đại học). Đến năm 66 tuổi, quan nghč họ Vũ từ Huế về quę Vĩnh Trụ vŕ bốn năm sau, giờ tý ngŕy 3 tháng 5 Mậu Dần (1878) người thầy lớn của nhiều thế hệ học trň nổi tiếng mất, thọ 71 tuổi. Tiến sĩ được triều đěnh phong Trung thuận Đại phu vě có công xây dựng khối đoŕn kết lương giáo ở huyện Lý Nhân, hiện ở Văn Thánh (Huế) cňn bia đá ghi tęn các nhŕ khoa bảng triều Nguyễn trong đó có Vũ Văn Lý vŕ các học trň nổi tiếng của ông.

Nguyễn Thế Vinh

Kịch Vũ Như Tô được tái dựng sau tám năm

Tối 26-7, vở kịch nổi tiếng Vũ Như Tô của nhŕ văn Nguyễn Huy Tưởng sẽ xuất hiện trở lại tręn chương trěnh Nhŕ hát Truyền hěnh với nguyęn kíp đạo diễn vŕ diễn vięn từng đem lại thŕnh công rực rỡ cho vở kịch từ tám năm trước.

Đạo diễn Phạm Thị Thŕnh kể: "Trong một cuộc hội thảo về Nguyễn Huy Tưởng, nhŕ nghięn cứu văn học Văn Tâm nói: tại sao Vũ Như Tô hay như thế mŕ Nguyễn Đěnh Nghi vŕ Phạm Thị Thŕnh không dựng. Câu nói đó cŕng kích thích tôi dựng vở nŕy". Để khán giả có thể cảm nhận được đầy đủ vở kịch, đạo diễn Phạm Thị Thŕnh sẽ đưa ngôn ngữ điện ảnh vŕo, cụ thể các đoạn phim về người đŕn ông mải miết bổ từng nhát cuốc nặng trịch tręn cánh đồng trái đất nứt nẻ để těm những danh nhân văn hóa; cảnh Đan Thiềm vŕ Vũ Như Tô bay từ tręn cao nhěn xuống các công trěnh di sản văn hóa; hěnh ảnh Đan Thiềm bị thięu, sẽ được lồng trong vở kịch. Toŕn bộ kíp diễn vięn đă góp phần đem lại huy chương vŕng cho tác phẩm xuất sắc nhất Hội diễn sân khấu toŕn quốc năm 1995 vŕ năm huy chương vŕng trong các vai diễn xuất sắc, sẽ lại có mặt trong Vũ Như Tô lần nŕy. Trưởng đoŕn kịch 1 - NSƯT Chí Trung, cho biết: "Cả một tháng nay, hơn 50 diễn vięn của cả hai đoŕn tập trung để dựng vở vě chúng tôi muốn khán giả hiểu rằng, bęn cạnh các vở hŕi kịch chúng tôi vẫn có những vở chính kịch nghięm túc".

NSND Lę Khanh tâm sự: "Ít người biết cho đến bây giờ trong tôi vẫn trĩu nặng nỗi lo vô bờ bến mỗi khi chạm vŕo vai Đan Thiềm. Thậm chí có lúc tôi cảm thấy bế tắc không biết diễn gě với vai nŕy cả. Tiếng vai rất to, nghĩa vai rất lớn nhưng đời sống của vai diễn lại không có, hoŕn toŕn trái ngược với vai Lý Chięu Hoŕng trong Rừng trúc. Tôi chỉ có thể cố gắng chuẩn bị kỹ lưỡng cho vai diễn để lŕm sao mỗi khi Đan Thiềm nói, khán giả cảm nhận được trong từng câu nói đó lŕ cả một sự chuyển động trong trái tim vŕ tâm hồn của người cung nữ đó".

Cňn NSƯT Anh Tú, người đảm nhận vai người thợ tŕi hoa nhưng bạc mệnh Vũ Như Tô bộc bạch rất thật: "Sau tám năm, chúng tôi cảm thấy diễn ngọt ngŕo hơn năm 1995 rất nhiều. Tôi lo ngại khi phát sóng trực tiếp lęn truyền hěnh hiệu quả vở kịch sẽ không đạt được như mong muốn vě hiệu quả âm thanh, đặc biệt lŕ ánh sáng tręn sân khấu sẽ bị hạn chế, khán giả của sân khấu cũng khác với khán giả xem truyền hěnh... Chúng tôi chỉ có thể hy vọng sự trở lại của Vũ Như Tô sẽ thŕnh công".

THU HỒNG
(Báo Thanh nięn)

------------------------

Nhŕ văn Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) hoŕn thŕnh vở kịch dŕi 5 hồi Vũ Như Tô vŕo můa hč năm 1941, nhưng phải một năm sau, nhŕ văn mới bổ sung lời đề tựa cho vở kịch. Nguyễn Huy Tưởng viết Vũ Như Tô dựa theo những dňng ngắn ngủi ghi lại vụ việc ghi trong Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn thế kỷ XIX. Theo tŕi liệu lịch sử nŕy thě Vũ Như Tô lŕ một người thợ giỏi có thật ở Cẩm Giŕng, xếp cây mía lŕm thŕnh kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc, dâng lęn nhŕ vua, nhŕ vua bằng lňng phong cho Vũ Như Tô lŕm đô đốc trông nom dựng hơn trăm nóc cung điện lớn, khởi công lŕm Cửu Trůng Đŕi. Nguyễn Huy Tưởng đă mượn sự kiện Cửu Trůng Đŕi để nói đến bi kịch của người nghệ sĩ.



LÀNG TIẾN SĨ

ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG

Từ quốc lộ 5 Hà Nội đi Hải Phòng, lần lượt qua các thị trấn Bần Yên Nhân, Mỹ Hào của tỉnh Hưng Yên rồi vượt ranh giới sang tỉnh Hải Dương, xuyên qua huyện Cẩm Giàng để đến tỉnh lị. Dọc theo con đường ấy, trong địa phận Hải Dương về phía Nam có con sông Đình Đào chảy vòng ra hướng đông rồi quặt xuống nam, phân ra một vùng đất có bốn mặt sông. Đó là huyện Đường An thuộc phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, gồm 10 tổng chia ra 66 làng, trong đó có làng Mộ Trạch thuộc tổng Thì Cử. Ngày nay, thôn Mộ Trạch thuộc xã Tân Hồng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

Theo Đại Nam nhất thống chí, vào đời Hùng Vương, đất Mộ Trạch thuộc bộ Thang Tuyền; đời Tấn thuộc Tượng Quận; đời Hán thuộc quận Giao Chỉ. Đến đời Đường Hội Xương có Vũ Hồn sang làm Thứ sử Giao Châu, tinh thông khoa địa lý, thấy cuộc đất vùng này rất tốt, bèn lập nghiệp luôn và dặn con cháu phải giữ làng này làm nguyên quán thì đời đời sẽ tiến phát về đường khoa bảng. Bèn đặt tên huyện là Đường An, làng là Khả Mộ, sau đổi là Lạp Trạch, sau nữa lại ghép thành Mộ Trạch, tên nôm là làng Chằm và giữ mãi hai tên ấy cho đến ngày nay. Vũ Hồn cho rằng cả vùng Hải Dương là một đại cuộc, huyện Đường An là huyệt trường và làng Mộ Trạch là huyệt kết.

Lịch sử đã chứng minh cả vùng này rất phát về văn, có nhiều dòng họ được truyền tụng là thế khoa như họ Vũ, họ Lê, họ Nhử..., ca dao còn lưu lại:

Bút nghiên, đèn sách, văn phòng

Hồng Châu, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.

Hồng Châu, Nam Sách đều là phủ thuộc trấn Hải Dương (1). Tên đất Hồng Châu có từ xa xưa, đến đời Trần chia làm hai châu Thượng Hồng và Hạ Hồng. Từ đời Lê Thánh Tông, niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469) đổi hai châu này thành hai phủ. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), đổi tên Thượng Hồng thành phủ Bình Giang lãnh ba huyện Cẩm Giàng, Đường An và Đường Hào. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) lãnh thêm huyện Thanh Miện, nâng phủ này gồm bốn huyện.

Nếu tính riêng huyện Đường An từ năm 1075 đến năm 1919 đã thấy 23 trên 66 làng có người đậu đại khoa với 85 vị, vượt hẳn các huyện lân cận. Căn cứ vào Các nhà khoa bảng Việt Nam của Ngô Đức Thọ và các tài liệu khác (2) có thể tổng kết như sau:

Làng Ngọc Cục: 5 Tiến sĩ, 2 Hoàng giáp.

Làng Hoạch Trạch: 3 Tiến sĩ, 1 Bảng nhãn và 1 Hoàng giáp. Tuy số người đậu ít hơn làng Ngọc Cục nhưng vị thứ cao hơn nên vẫn được coi “Hoạch Trạch khí tàng, anh hùng xuất thế”.

Làng Hòa Đường:3 Tiến sĩ, 1 Hoàng giáp.

Làng Thì Cử: 2 Tiến sĩ, 1 Bảng nhãn.

Làng Đan Luân: 2 Tiến sĩ, 1 Thám hoa.

Các làng Đào Xá, Tuy Lai mỗi làng có 1 Hoàng giáp và 2 Tiến sĩ.

Làng Lỗi Dương:2 Hoàng giáp.

Các làng Hương Giản, Nhử Xá mỗi làng có 1 Hoàng giáp và 1 Tiến sĩ.

Các làng Đình Tổ, Tông Thanh mỗi làng có 2 Tiến sĩ.

Làng An Đê: 1 Thám hoa

Làng Châu Khê:1 Hoàng giáp

Các làng Bì Đổ, Lôi Khê, Mỹ Thự, Phù Vân, Phúc Khê, Triều Đông, Tuấn Kiệt: mỗi làng có 1 Tiến sĩ.

Ngoài ra còn có hai vị Tiến sĩ thời Lê Thánh Tông người huyện Đường An nhưng không rõ tên làng. Đó là Đỗ Chính Lạc đậu khoa Ất Mùi (1475) và Vũ Nguyên Trinh đậu khoa Tân Sửu (1481).

Nhưng so với làng Mộ Trạch thì các thành tích trên chưa thấm vào đâu, vì Mộ Trạch có đến 35 vị đại khoa gồm 1 Trạng nguyên, 11 Hoàng giáp và 22 Tiến sĩ, đạt kỷ lục là 41, 18% toàn huyện. Tiếng tăm khoa bảng Mộ Trạch tức làng Chằm, đời đời đã khẳng định qua câu phương ngôn:

Thóc làng Nhử, chữ làng Chằm.

Có thể nói đây là lò đúc Tiến sĩ, tiếng đồn lan rộng sang Trung Hoa, người Tàu gọi làng này là Tiến Sĩ Sào, tức là ổ Tiến sĩ của nước Nam.

Căn cứ vào các tài liệu trên, tính từ khoa Nho học đầu tiên của nước ta có tên là khoa Tuyển Minh kinh Bác học cập Nho học Tam trường, gọi tắt là khoa Minh kinh Bác học mở vào tháng 2 năm Ất Mão (1075) niên hiệu Thái Ninh thứ 4 đời Lý Nhân Tông, đến khoa thi Hội cuối cùng vào năm Mậu Ngọ (1919) Khải Định thứ 3 đời Nguyễn Hoằng Tông thì làng Mộ Trạch đã cống hiến cho đất nước một danh sách Tiến sĩ sau đây:

1. Vũ Đức Lâm: Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân (gọi tắt là Tiến sĩ) khoa Mậu Thìn (1448), niên hiệu Thái Hòa thứ 6 đời Lê Nhân Tông. Ông là vị Tiến sĩ đầu tiên của làng Mộ Trạch và cả huyện Đường An, làm quan đến Thượng thư.

2. Vũ Hữu (1444 - 1530) tự Ước Trai, đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (tức Hoàng giáp) lúc 20 tuổi, khoa Quý Mùi (1463), niên hiệu Quang Thuận thứ 4 đời Lê Thánh Tông. Ông nổi tiếng thanh liêm, làm quan đến chức Thượng thư trải 5 bộ, tước Tùng Dương hầu (có sách chép là Dương Tùng hầu). Ông viết Lập thành toán pháp chỉ dẫn cách đo ruộng đất, xây nhà cửa và thành lũy. Có thể nói Vũ Hữu và Lương Thế Vinh (sinh năm 1441, tác giả quyển Đại thành toán pháp) là hai nhà toán học đầu tiên của nước ta. Thời ấy, thành Thăng Long xây dựng từ niên hiệu Thuận Thiên thứ 1 (1010) đời Lý Thái Tổ, lâu ngày các cửa thành đổ nát, Lê Thánh Tông giao cho Vũ Hữu tính toán vật liệu cần dùng vào việc trùng tu thành quách. Ông đã áp dụng hình học vào việc chiết tính, đưa ra con số chính xác vật liệu xây dựng, nhất là gạch không dư không thiếu một viên, được vua khen là Thần toán và ban thưởng 100 mẫu ruộng.

3. Vũ Ứng Khang đậu Hoàng giáp khoa Nhâm Thìn (1472), niên hiệu Hồng Đức thứ 3 đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Hộ khoa Đô cấp sự trung.

4. Vũ Quỳnh (1453 - 1497) tự Thư Phác, Viên Ôn; hiệu Đốc Trai, Yến Xương. Ông đậu Hoàng giáp lúc 26 tuổi, khoa Mậu Tuất (1478), niên hiệu Hồng Đức thứ 9 đời Lê Thánh Tông, làm quan đến Thượng thư bộ Lễ, bộ Công, bộ Binh. Là một sử gia, năm 1510 ông vâng mệnh Lê Tương Dực soạn bộ Đại Việt thông giám thông khảo, gọi tắt là Việt giám thông khảo, gồm 26 quyển, chia thành Ngoại kỷ chép từ Hồng Bàng đến hết nhà Ngô, Bản kỷ từ Đinh Tiên Hoàng đến đầu thời Lê Thái Tổ. Theo Phan Huy Chú, bộ sách này được Lê Nại đánh giá là quy mô và đúng với kinh, trúng với sử. Ông còn hiệu đính và đề tựa (1492) sách Lĩnh Nam chính quái và soạn Tố cầm tập, Phan Huy Chú khen là lời thơ thanh thoát. Hiện còn ba bài thơ của ông được chép trong Hoàng Việt thi tuyển do Bùi Huy Bích (1744 - 1818) sưu tầm và biên soạn.

5. Vũ Đôn: cháu của Vũ Hữu, đậu Hoàng giáp khoa Đinh Mùi (1487) niên hiệu Hồng Đức thứ 18, đời Lê Thánh Tông.

6. Vũ Tụ (1466 - ?) 28 tuổi đậu Hoàng giáp khoa Quý Sửu (1493) niên hiệu Hồng Đức thứ 24 đời Lê Thánh Tông. Theo Lịch triều hiến chương (Nhân vật chí, bản dịch, trang 372) Vũ Tụ người làng Mộ Trạch, làm quan đến chức Tả thị lang bộ Hình. Lúc bấy giờ vua Lê Thánh Tông muốn thử lòng các quan, mật sai người cải trang làm thường dân đem lụa đến biếu, các quan đều nhận cả, chỉ có ông là cự tuyệt. Người biếu cố nài nỉ:

- Tập tục lễ vật bây giờ đã thành thói quen, chút lễ mọn này có đáng là bao, không thể hại đến đức liêm, xin ngài chớ nỡ từ chối.

Ông nghiêm nét mặt nói:

- Người đời đục cả, chỉ mình ta trong. Nay mày lại tìm lời ngon ngọt xúi ta đánh mất tiết tháo ư? Nói xong, ông đuổi ra.

Sự việc trình lên, vua khen ông là người tiết tháo, ban cho hai chữ “Liêm Tiết” gắn trên cổ áo mỗi khi vào chầu.

7. Vũ Thuận Trinh (1464 - ?), đậu Hoàng giáp lúc 36 tuổi khoa Kỷ Mùi (1499), niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 đời Lê Hiến Tông.

8. Vũ Cán (1475 - ?) tự Tùng Hiên, đậu Hoàng giáp năm 28 tuổi khoa Nhâm Tuất (1502), niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 đời Lê Hiến Tông. Ông là cháu ngoại của Tiến Sĩ Nhử Mậu Tổ và là con của Hoàng giáp Vũ Quỳnh, làm quan đến Thượng thư bộ Lễ, năm Canh Ngọ (1510) đi sứ Trung Quốc. Tác phẩm có Tùng Hiên thi tập (5 quyển) và Tùng Hiên văn tập (12 quyển) gồm đủ thể loại: ký, thuyết linh, luận, truyện, biện ... bàn về sử, địa, sinh hoạt xã hội. Ông còn sưu tập các bài tứ lục thành quyển Tứ lục bị lãm và làm thơ xướng họa với Trạng Trình.

9. Lê Nại (1479 - ?): Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) năm 27 tuổi, khoa Ất Sửu (1505) niên hiệu Đoan Khánh thứ 1 đời Lê Uy Mục. Ông là con rể của Hoàng giáp Vũ Quỳnh và cháu nội của danh thần Lê Cảnh Tuân đã tuẫn quốc dưới thời Minh thuộc. Ông có tiếng hay chữ, thi Hương, thi Đình đều đỗ đầu, làm quan tới chức Hữu thị lang bộ Hộ.

10. Lê Tư đậu Hoàng giáp khoa Tân Mùi (1511), niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 đời Lê Tương Dực, làm quan tới chức Đoán sự. Ông là bào đệ của Trạng nguyên Lê Nại.

11. Vũ Lân Chỉ đậu Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1520), niên hiệu Quang Thuận thứ 5 đời Lê Chiêu Tông, làm quan đến chức Công khoa Đô cấp sự trung.

12. Lê Quang Bí (1504 - ?) tự Thuần Phu, hiệu Hối Trai. Đậu Hoàng giáp lúc 23 tuổi khoa Bính Tuất (1526), niên hiệu Thống Nguyên thứ 5 đời Lê Cung Hoàng. Ông là con trai trưởng của Trạng nguyên Lê Nại, cháu bốn đời của danh thần Lê Cảnh Tuân và cháu ngoại của Hoàng giáp Vũ Quỳnh. Năm Mậu Thân (1548) ông vâng mệnh Mạc Phúc Nguyên cầm đầu sứ bộ sang Tàu, bị vua Minh Thế Tông bắt giam vào ngục ở Nam Ninh suốt 19 năm, đến năm Đinh Mão (1567) mới được tha về. Mạc Mậu Hợp đón ông rất trọng vọng, khen là công thần tiết nghĩa, ví ông như Tô Vũ đời Hán đi sứ Hung Nô, cũng bị đày suốt 19 năm mới được trở về nước. Làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư, truy tặng tước Tô quận công. Tác phẩm để lại có Tư hương vận lục, gồm nhiều bài thơ vịnh sử và danh nhân.

13.Nhử Mậu Tổ: Tiến sĩ khoa Bính Thân (1526) niên hiệu Thống Nguyên thứ 5 đời Lê Cung Hoàng, làm quan với họ Mạc đến chức Lễ bộ Tả thị lang. Hoàng giáp Vũ Quỳnh là con rể, Hoàng giáp Vũ Cán là cháu ngoại của ông.

14. Vũ Tĩnh (1525 - ?): 38 tuổi đậu Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1562), niên hiệu Quang Bảo thứ 9 đời Mạc Phúc Nguyên. Được cử đi sứ nhà Minh, làm quan đến chức Tả thị lang, khi mất được truy tặng Thượng thư.

15. Vũ Đường (1528 - 1592), đậu Tiến sĩ lúc 38 tuổi, khoa Ất Sửu (1565), niên hiệu Thuần Phúc thứ 4 đời Mạc Mậu Hợp, làm quan tới chức Lễ bộ Hữu thị lang.

16. Vũ Bạt Tụy (1602 - ?) đậu Đình nguyên và lãnh học vị Hoàng giáp lúc 33 tuổi, khoa Giáp Tuất (1634) niên hiệu Đức Long thứ 6 đời Lê Thần Tông, làm quan tới chức Lại khoa Đô cấp sự trung.

17. Vũ Lương (1606 - 1676) đậu Tiến sĩ lúc 38 tuổi, khoa Giáp Mùi (1643), niên hiệu Phúc Thái thứ 1 đời Lê Chân Tông, làm quan tới chức Hình bộ Hữu thị lang, là cháu nhiều đời của Hoàng giáp Vũ Hữu.

18. Vũ Trác Oánh (1635 - ?), năm 22 tuổi đậu Tiến sĩ khoa Bính Thân (1656), niên hiệu Thịnh Đức thứ 4 đời Lê Thần Tông, làm quan tới chức Tham chính, tước Nam.

19. Vũ Đăng Long (1635 - ?) cũng đậu Tiến sĩ lúc 22 tuổi, cùng năm với Vũ Trác Oánh, làm quan đến chức Giám sát.

20. Vũ Công Lượng (1624 - ?), đậu Tiến sĩ năm 33 tuổi, cùng khoa với hai người trên, làm quan đến chức Hình khoa Đô cấp sự trung.

21. Vũ Cầu Hối (1618 - ?), đậu Tiến sĩ lúc 42 tuổi khoa Kỷ Hợi (1659), niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 đời Lê Thần Tông, làm quan đến chức Tham chính. Ông là em út của Hoàng giáp Vũ Bạt Tụy.

22. Vũ Bật Hài (1629 - ?), năm 31 tuổi đậu Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659), niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 đời Lê Thần Tông. Năm 1673, đi sứ sang triều Thanh Thánh Tổ, làm quan đến chức Lại bộ Tả thị lang, có tác phẩm Vũ tộc khoa hoạn phả. Ông là cháu của Hoàng giáp Vũ Bạt Tụy và Hoàng giáp Vũ Cầu Hối.

23. Vũ Công Đạo (1629 - 1714), đậu Tiến sĩ lúc 31 tuổi, khoa Kỷ Hợi (1659), niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 đời Lê Thần Tông. Là một Ngự sử cương trực, hạch tội lộng thần nhưng không được vua chúa nghe theo, ông đập đầu vào cột giữa triều để tỏ khí tiết. Làm quan đến chức Thượng thư bộ Công, xin về trí sĩ mở trường dạy học, có tiếng dạy giỏi đào tạo nhiều nhân tài như Bảng nhãn Phạm Quang Trạch, Thám hoa Vũ Thạnh và Hội nguyên Tiến sĩ Nguyễn Danh Dự. Ông là anh của Tiến sĩ Vũ Công Lượng. Thơ ông hiện còn 3 bài chép trong Toàn Việt thi lục.

24. Lê Công Triều (1630 - ?), đậu Tiến sĩ lúc 30 tuổi, khoa Kỷ Hợi (1659) niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 đời Lê Thần Tông, làm quan đến chức Tham chính. Ông thuộc dòng dõi của Hoàng giáp Lê Quang Bí, Trạng nguyên Lê Nại, Hoàng giáp Lê Tư.

25. Vũ Duy Đoán (1621 - 1684), đậu Hương nguyên, Hội nguyên, lãnh học vị Tiến sĩ lúc 21 tuổi khoa Giáp Thìn (1664), niên hiệu Cảnh Trị thứ 2 đời Lê Huyền Tông. Làm quan tới chức Công bộ Thượng thư. Vì nói thẳng, trái ý chúa Trịnh Tạc nên bị bãi chức. Về quê mở trường dạy học và sáng tác. Là con của Hoàng giáp Vũ Bạt Tụy, cháu của Tiến sĩ Vũ Cầu Hối và em họ của Tiến sĩ Vũ Bật Hài. Ông lấy hiệu Quế Am, nổi tiếng văn chương, tác phầm có: Kim gián lục (khuyên Chúa Trịnh lúc ông còn tại chức), các bài phú như Phạm Lãi du Ngũ hồ, Hàn Tín điếu thành hạ, Dị văn ký, Mộ Trạch thôn phong cảnh và Nông gia khảo lịch. Người đời khen : “Trước đời Trung Hưng có Vịnh Kiều Hầu (tức Hoàng Sĩ Khải, người Bắc Ninh), sau đời Trung Hưng có Đường Xuyên Tử (tức Vũ Duy Đoán.)

26. Vũ Công Bình (1640 - ?) đậu Tiến sĩ lúc 25 tuổi khoa Giáp Thìn (1664), niên hiệu Cảnh Trị thứ 3 đời Lê Huyền Tông, làm quan đến chức Hiến sứ.

27. Vũ Đình Lâm (1640 - 1707), đậu Hoàng giáp năm 31 tuổi khoa Canh Tuất (1670), niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 đời Lê Huyền Tông, làm quan đến Lễ khoa Đô cấp sự trung. Ông là con của Tiến sĩ Vũ Lương, dòng dõi của Hoàng giáp Vũ Hữu.

28. Vũ Duy Khuông (1644 - ?) tự là Bách Am, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi khoa Canh Tuất (1670), niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 đời Lê Huyền Tông, làm quan đến Lễ khoa Đô cấp sự trung. Ông là cháu nội Hoàng giáp Vũ Bạt Tụy và con của Tiến sĩ Vũ Duy Đoán. Tác phẩm lưu lại là 8 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.

29. Vũ Đình Thiều (1658 - 1727), đậu Tiến sĩ lúc 23 tuổi khoa Canh Thân (1680), niên hiệu Vĩnh Trị thứ 5 đời Lê Huy Tông, làm quan đến chức Công bộ Cấp sự trung. Ông là cháu nội Tiến sĩ Vũ Lượng, cháu họ của Hoàng Giáp Vũ Đình Lâm.

30.Vũ Trọng Trình (1639 - ?) đậu Tiến sĩ khoa Sĩ vọng lúc 47 tuổi năm Ất Sửu (1685), niên hiệu Chính Hòa thứ 6 đời Lê Hy Tông, làm quan đến chức Hiến sát.

31. Nguyễn Thường Thịnh ( 1676 - ?), đậu Tiến sĩ năm 28 tuổi khoa Quý Mùi (1703), niên hiệu Chính Hòa thứ 24 đời Lê Hy Tông, làm quan đến chức Cấp sự trung.

32. Vũ Đình Ân (1680 - 1747), đậu Tiến sĩ lúc 33 tuổi khoa Nhâm Thìn (1712), niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8 đời Lê Dụ Tông. Ông được giao trọng trách xác định các cột mốc biên giới với nhà Thanh. Chức vụ sau cùng là Lễ bộ Thượng thư, khi mất được tặng hàm Thái Bảo. Ông là con Tiến sĩ Vũ Đình Thiều, dòng dõi Hoàng giáp Vũ Hữu và Tiến sĩ Vũ Lương.

33. Vũ Huyên (1670 - ?) thi Hương đậu Giải nguyên, 43 tuổi đậu Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1712), niên hiệu Vĩnh Trị thứ 8 đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Đông các hiệu thư. Thuộc dòng dõi Hoàng giáp Vũ Đôn, nguyên quán làng Mộ Trạch, trú quán làng Đan Luân cùng huyện. Ông có tiếng về thi văn và xuất chúng về môn cờ tướng.

Tương truyền sứ nhà Thanh sang nước ta quen thói hống hách, lại tự phụ giỏi cờ, thách đấu với vua nước ta. Vua theo kế của Vũ Huyên, hẹn với sứ giả đấu cờ tại sân rồng vào đầu giờ ngọ, mỗi bên chỉ để một tên lính cầm lọng đứng hầu. Vũ Huyên giả làm tên lính đứng hầu nhà vua, trên tàn lọng xoi một lỗ rất nhỏ đủ cho tia nắng xuyên qua làm hiệu, lựa lúc chiếu vào các quân cờ để mách nước cho vua. Nhờ kế ấy, vua nước ta thắng ba ván liên tiếp, sứ Tàu rất khâm phục và không dám hống hách nữa. Nhờ công lao ấy, ông được vua ban cho danh hiệu “Đấu kỳ Trạng nguyên” và trong dân gian còn có câu ca dao truyền tụng:

Trạng cờ Mộ Trạch càng ghê

Sứ Yên thua cuộc rút xe về thành.

34. Vũ Phương Đề (1698 - ?) đậu Tiến sĩ năm 39 tuổi khoa Bính Thìn (1736), niên hiệu Vĩnh Hựu 2 đời Lê Ý Tông, làm quan đến Đông các Học sĩ, dòng dõi Vũ Hữu. Ông là tác giả Công dư tiệp ký (1775) gồm 43 truyện ghi chép các chuyện mắt thấy tai nghe, chia làm 12 mục: Thế gia, danh thần, danh nho, tiết nghĩa, chí khí, báo ác, tiết phụ, ca nữ, thần quái, âm phần, danh thắng, thú loại.

35. Vũ Huy Đỉnh (1730 - 1789) tự Ôn Kỳ, hiệu Di Hiên, đậu Tiến sĩ lúc 25 tuổi khoa Giáp Tuất (1754), niên hiệu Cảnh Hưng 15 đời Lê Hiển Tông. Ông có tài về văn thơ, chính trị và ngoại giao. Năm 1772 đi sứ nhà Thanh, làm quan đến Lễ bộ Hữu thị lang, tước Hồng Trạch hầu.

Tác phẩm của ông gồm: Bách đài tập, Hoa trình tạp thi, Kỷ thắng tập, Nam trung tập, Quang thương tiền tập, Sơn Tây tập, Trình tuyết tập, Thanh Hóa tiền hậu tập, Tùng vịnh tập, Tuyên Quang tập.

Trong số 35 vị đại khoa của làng Mộ Trạch, họ Vũ chiếm đa số tuyệt đối với 9 Hoàng giáp và 20 Tiến sĩ. Trong lúc họ Lê có 1 Trạng nguyên, 2 Hoàng giáp và 1 Tiến sĩ.

Cùng lập nghiệp tại một làng có huyệt chính của cuộc đất phát văn, nhưng họ Vũ hầu như trọn hưởng cái tinh hoa của vùng đất, tương truyền vì có ngôi mộ tổ được táng treo ngay trong làng. Con cháu họ Vũ đã bốc hài cốt vị tổ vào một cái quách nhỏ bằng sành, khằn kín kỹ lưỡng rồi treo lơ lửng dưới một cành đa cổ thụ, dùng rễ đa bó chung quanh. Chùm rễ này ăn sâu xuống đất, lớn dần thành một thân cây khổng lồ ôm chặt hài cốt ở giữa.

Thành tích khoa bảng huy hoàng nhất của làng Mộ Trạch nói chung và họ Vũ nói riêng là khoa Bính Thân (1656) niên hiệu Thịnh Đức 4 đời Lê Thần Tông có 3 vị tân khoa Tiến sĩ là Vũ Trác Oánh, Vũ Đăng Long và Vũ Công Lượng. Tiếp đến khoa Kỷ Hợi (1659) niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 đời Lê Thần Tông, Mộ Trạch lại một lần nữa chiếm kỷ lục. Khoa ấy cả nước lấy đậu đại khoa 20 vị thì riêng làng Mộ Trạch đã có 4 Tiến sĩ: Vũ Cầu Hối, Vũ Bật Hài, Vũ Công Đạo và Lê Công Triều.



tải về 471.47 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương