Nhất Gia Bán Thiên-hạ Phần Thứ Nhất Sự Hình Thành Họ Vũ ở Việt-Nam



tải về 471.47 Kb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích471.47 Kb.
#3718
1   2   3   4   5   6

Phần Thứ Nhất - III

III. Thân Thế Và Sự Nghiệp Cụ Thủy Tổ Vũ Hồn

 

Theo gia phả, tộc phả và thần phả ở Mộ Trạch, vào đời Nhà Đường bên Trung Quốc (618-907), khoảng năm 800, có một quan chức tên là Vũ Huy (1), người làng Mã Kỳ, huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến (2) . Vợ ông là bà Lưu thị Phương. Hai ông bà đã nhiều tuổi, khoảng gần 60 tuổi, vẫn chưa có con cái. Ông Vũ Huy là một nhà nho, do đó ông thường thường than rằng: " Vàng núi, thóc biển coi như cỏ rác; con hiếu, cháu hiền qúy hơn châu, ngọc". Sau đó, ông làm sớ dâng lên vua Đường xin được nghỉ, về làm trí sĩ. Vua Đường chuẩn cho, lại ban phát xe, ngựa, vàng, bạc. Ông tạ ơn, về quê sống cảnh an nhàn và đi du ngoạn. Ông Vũ Huy vốn tinh thông khoa địa lý phong thủy, do đó đã lên đường đi du ngoạn về Phương Nam, đến đất Giao Châu, khi ấy là khu đất thuộc đồng bằng Bắc Bộ bây giờ.



Một hôm đi đến ấp Mạn Nhuế thuộc huyện Thanh Lâm đất Hồng Châu, sau này là Tỉnh Hải Dương, Vũ Huy thấy một kiểu đất đẹp ở giữa khu cánh đồng mênh mông, có 98 gò đất nhỏ bao quanh một gò cao và lớn, tựa như 98 ngôi sao châu về mặt trời (cửu thập bát tú triều dương). Cái gò ấy tên địa phương gọi là Đống Dờm. Theo thuyết địa lý phong thủy, nếu mộ táng ở đây, con cháu sẽ phát sinh khoa bảng, công danh hiển hách. Cụ Vũ Huy quay về Phúc Kiến đưa hài cốt thân phụ sang táng ở Đồng Dờm, rồi làm nhà để trông nom ngôi mộ.

Làng Mạn Nhuế khi ấy có một thôn nữ con nhà nền nếp, tính tình đoan trang, phúc hậu, chăm chỉ làm ăn; lại có quí tướng sinh con quyền cao, chức trọng. Có lẽ do duyên trời đã định, nên gia đình cô thôn nữ đã chấp nhận lời cầu hôn của Vũ Huy, và ít lâu sau hôn lễ đã được cử hành. Cô thôn nữ là Nguyễn Thị Đức.

Hơn một năm sau, bà có thai. Ông đưa bà về Phúc Kiến (thuộc đất Mân Việt cũ).

Ngày 08 tháng Giêng năm Giáp Thân (804) bà Đức sinh con trai. Ông-bà đạt tên con là Vũ Hồn. Ngay từ thuở nhỏ, Vũ Hồn đã có dáng dấp khôi ngô, tuấn tú, rất chịu khó học hành, và rất thông minh. Năm 12 tuổi sức học đã làm cho các bậc đàn anh kính nể.

Năm 820 Vũ Hồn đã đỗ kỳ thi Đình khi mới có 16 tuổi. Vua Đường rất khen ngợi và cho là nhân tài, vì ngoài thơ hay và sách lược giỏi, Vũ Hồn còn tinh thông cả các khoa Thiên văn và Địa lý-Phong Thủy. Vua ban cho mũ, áo để về vinh quy. Tuy còn trẻ tuổi nhưng có tài, vì vậy ít lâu sau vua Đường xuống chiếu bổ dụng là Tả Thị Lang Bộ Lễ - một chức quan khá cao cấp trong triều đình - vì Bộ Lễ phụ trách việc nghi lễ, cúng tế và thi cử trong nước. Hai năm sau ông được thăng chức Đô Đài Ngự Sử.

Năm 825 („t Tỵ) đời vua Đường Kính Tông, niên hiệu Bảo Lịch thứ nhất, Vũ Hồn được cử sang An Nam làm Thứ Sử Giao Châu (3) .

Năm 841 (Tân Dậu), đời Đường Vũ Tôn, niên hiệu Hội Xương thứ nhất, Vũ Hồn được thăng chức Kinh Lược Sứ thay thế Hàn Ước (4) . Trong thời gian ở An Nam, Kinh Lược Sứ Vũ Hồn đã đi kinh lý và xem xét nhiều nơi, đồng thời để tâm chú ý việc tìm địa điểm để định cư sau này vì ngài đã muốn chọn quê ngoại làm quê hương. Ngài đã nhiều lần về Mạn Nhuế thăm mộ ông nội ở Đòng Dờm, và sau đó đi thăm tất cả các vùng lân cận. Một lần Ngài đến Làng Lập Trạch, Huyện Đường An, thấy về phía Tây thôn ấy có cánh đồng hoang, cỏ lau rậm rạp, rải rác có những gò đống tựa 5 con ngựa, 7 ngôi sao, hoặc những ao mà dưới đáy có doi đất nổi lên như hình quản bút, nghiên mực, quyển sách, v.v.. Theo kiến thức về địa-lý phong-thủy, đó là một kiểu đất kết, đẹp. Ngài đã ghi chép lại để khi cần thì sử dụng.

Trong thời gian Ngài giữ chức Kinh Lược Sứ tại An Nam, thì đất An Nam thường hay nổi dậy, do quân Nam Chiếu từ vùng Vân Nam hay sang quấy nhiễu và do dân tình đói khổ sinh ra nhiều giặc cướp. Các quan Đô Hộ trước đó, như Lý Nguyên Gia, Hàn Ước, nhiều khi ohải bỏ chạy; Do đó, sau này họ đã dời phủ thành từ Đông Quan (vùng ngoại thành Hà Nội) về bờ Sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Khu phủ thành mới sẽ có đủ đất để xây dựng hàng chục căn nhà với dân số có thể phát triển đến cả trăm ngàn người (Thành Tổng Bình).

Do công trình qúa lớn, xây dựng tốn kém, mà quân lính thì phải phục dịch xây dựng vất vả, nên sinh ra thái độ tiêu cực, chống đối. Do đó, phủ thành mới xây mãi không xong.

Đến khi Kinh Lược Sứ Vũ Hồn thay Hàn Ước, Ngài lại tiếp tục xây dựng công trình dở dang đó, khiến quân lính ngày đêm phải lao dịch cực nhọc, nên quân sĩ sinh ra bất mãn, nổi loạn, đốt phá lầu thành, cướp kho phủ. Ngài phải chạy về Quảng Châu. Sau đó giám quan Đoàn Sĩ Tắc đem quân sang tiếp viện, dụ yên binh sĩ làm loạn.

Vì Kinh Lược Sứ Vũ Hồn không dẹp được hoặc không muốn dẹp cuộc nổi loạn của quân sĩ và dân chúng mà bỏ chạy về Trung Quốc, nên vua Đường đã bãi chức Kinh Lược Sứ của Vũ Hồn và cử Bùi Nguyên Du sang thay.

Tuy Kinh Lược Sứ Vũ Hồn bị thất bại trong nhiệm vụ Đô Hộ Sứ bên An Nam vào năm 843, nhưng vì đã có nhiều công lao trong hơn 20 năm cống hiến cho vua Đường, nên vua Đường Vũ Tôn đã không có hình phạt nghiêm khắc, mà còn cho Vũ Hồn được hưởng đặc ân.

Một phần Ngài đã nản chuyện công danh, do không còn được trọng dụng, một phần nhà Đường lúc đó có 2 phe, Lý Đức Du và Ngưu Tăng Nhu, tranh dành quyền lực, lấn áp cả vua, mà Ngài thì không theo phe nào, nên xin vua Đường cho hưởng đặc ân "xin về trí sĩ".

Năm 843, đời vua Đường Võ Tôn, niên hiệu Hội Xương năm thứ ba, vua Đường chuẩn y, ban cho nhiều vàng-bạc, và Ngài Vũ Hồn được nghỉ việc quan từ đó. Năm đó Ngài mới 39 tuổi.

Lứ đương thời làm quan ở Giao Chỉ, ThủyTổ Vũ Hồn đã có ý định sau này định cư ở quê ngoại, nên đã chú ý tìm đất và đã tìm được vùng đất Lạp Trạch, sau này là Thôn Khả Mộ, rồi Mộ Trạch, Huyện Đường An như trên đã nói.

Sau khi nghỉ việc quan, ngài liền đưa mẹ và gia đình sang An Nam định cư (5).

Ngài xây dựng nhà cửa và dinh cơ cho gia đình, rồi gọi dân cư ở rải rác các vùng xung quanh cùng về ở; ngài giúp đỡ họ tiền bạc để xây dựng nhà cửa, và mở trường dạy học, lập nên một xóm nhỏ đặt tên là Khả Mộ Trang (có nghĩa là ấp đáng mến). Sau dân cư cứ đông đúc thêm, Khả Mộ Trang, đổi tên thành Khả Mộ Thôn, dần dần thành một thôn ấp có văn hóa, lễ nghĩa, và thịnh vượng.

Do công đức to lớn của ngài, và do dân làng Khả Mộ tôn kính ngài như cha-mẹ, do đó đã xin với ngài rằng: "Lâu đài Ngài hiện nay để Ngài ở; sau khi Ngài mất, dân làng sẽ dùng làm miếu để thờ phụng Ngài". Ngài ưng cho và lại bảo rằng: "Trang khu có hậu đạo với ta, thì phải trọng lời di chúc của ta, phải ngàn thu thờ phụng". Ngài lại cho thêm 5 nén vàng tậu ruộng, ao để cung ứng cho việc tế tự, khỏi phiền dân đóng góp. Khi mẹ ngài (cụ Bà Nguyễn Thị Đức) qua đời, ngài khóc than khôn xiết, rồ rước linh cữu Mẹ lên táng ở Xã Kiệt Đức, Huyện Thanh Lâm, sau này thuộc Huyện Ch1 Linh, Tỉnh Hải Dương, cũng là cùng lân cận với Mạn Nhuế, quê ngọa của ngài, và cũng là nơi có mộ ông nội ngài (6). Ngài đã ở quê ngoại trông nom ngôi mộ mẹ ngài ở Kiệt Đức trong thời gian 3 năm ròng, đúng như luân lý và lễ giáo thời xưa. Mãn tang, ngài trở về „p Khả Mộ sinh sống, dạy học cho dân làng.

Năm 853 (năm Qúy Dậu) ngài vừa đúng 49 tuổi. Một hôm vào ngày 03 tháng Chạp, ngài đương ngồi dạy học, thì thấy trong mình khó chịu, rồi thiếp đi, không bệnh gì mà hóa. Trang dân và gia thần bèn rước ngài lên Xứ Đống Can, một gò đát nhỏ trong cánh đồng Phía Tây Bắc thôn trang để an táng.

Bỗng nhiên trời đất tối sầm; mây mù phủ kín. Giờ lâu, khi trời quang mây tạnh, thì đã thấy kiến mối đùn lấp thành một ngôi mộ lớn. Trang dân và gia thần đều kinh hãi, nên họ khải báo lên quan dê quan báo lên vua. Vua Đường cho truy nguyên lúc bình nhật và sắc phong là một vị Phúc Thần.

Lại phong: Dương Cảnh Thánh Hoàng, Lâu dài cư sĩ, Linh Ứng Đõi Vương.

Và chuẩn cho khu thượng, Trang Khả Mộ, lên kinh thành rút mỹ tự về để lập miếu phụng thờ, cắm đất ấy gọi là Mả Thần Dung Mộ Chí (7) , và địa phương phải ngàn vạn năm thờ cúng.

Vì vậy, đến nay khu gò đất táng di hài Ngài có tên là Mả Thần (7) và cánh đồng ấy cũng gọi l2 cánh đồng Mả Thần, được tân tạo và tu bổ vào năm Qúy dậu (1993) và nay gọi là Thần Lăng. Tõi Mả Thần chỉ còn có một ngôi mộ của Ngài, dân ấp không một ai dám táng thân nhân vào đấy để tỏ lòng tôn kính Ngài. Sau khi Cụ Thủy Tổ qua đời, đến lượt Cụ Bà cũng được dân làng và con cháu táng liền kề bên, gọi là mộ song táng.

Dân làng tôn ngài làm Thần Hoàng. Mới đầu thì thờ Ngài tại dinh cơ ngài để lại, nhưng về sau thì xây đình va miếu thờ để ghi công ngài, vừa là người khai lập ấp Khả Mộ, vừa là người thầy dạy dỗ, đem học vấn, lễ nghĩ đến cho họ và con cháu các họ. Đối với thôn dân ngài có ơn nặng, tình sâu.

Xét công ơn to lớn của ngài và của các con cháu ngài đã đóng góp các thành tích đáng kể cho đất nước, các triều đại phong kiến Việt Nam lần lượt gia phong cho ngài làm Thần, Vương, tất cả 12 lần với 12 đạo sắc như sau:

Lần thứ nhất: Đời Lê Hoàn (980 - 1009).

Lần thứ hai : Triều vua Trần Nhân Tông, giặc Nguyên sang cướp nước ta, Đức Trần Quốc Tuấn, Hưng Đõo Đõi Vương, Phụng mệnh kỳ đảo bách thần. Đức Thần Tổ có hiển ứng âm phù. Khi dẹp xong giặc Nguyên - Phàn Tiếp, Ô Mã Nhi - vua Trần bèn phong: " Thông Minh, Tuệ Trí, hùng Liệt, Trác Vĩ Thượng Đẳng Thần".

Lần thứ ba : Đời vua Lê Thái Tổ - Ngài dấy quân khởi nghĩa ở Núi Lam Sơn, chống giặc Minh, dẹp được Mộc Thạch, Liễu Thăng, và sau mười năm dẹp yên thiên hạ- - lại phong: " Tế thế, An Dân, Linh Phù Ngưng Hữu Thượng Đẳng Thần".

Lần thứ : Triều Tây Sơn - Nguyễn Huệ, Ngài dược phong thần 1 lần.

Lần thứ năm : Triều Nguyễn - Gia Long, Ngài được phong thần 2 lần

Lần thứ sáu : Đời vua Tự Đức, sắc phong: " Tối Linh Sát Vận Đõi Vương".

Từ hơn một ngàn năm nay, dân làng Mộ Trạch vẫn thờ Đúc Thành Hoàng Vũ Hồn ở miếu và đình. Miếu và Đình đã được xây dựng từ thời xa xưa, và sau này đã được tu tạo và xây lại nhiều lần.

Thời gian đàu, miếu xây ở phía sau làng. Đến đời vua Lê ThầnTôn (1658-1662) miếu được dời về khu Long Nhãn (Mắt Rồng) như hiện nay. Năm Qúy Dậu, bên cạnh miếu đã xây thêm nhà khách để đón tiếp các hậu duệ họ Vũ ở tất cả mọi nơi về thăm đất Tổ.

Còn về đình thì đầu tiên đình cũ xây ở phía Tây đầu thôn, và dặt hưóng Tây. Đén đời vua Lê Thàn Tôn và Chúa Trịnh Tạc(1658-1662), đình được chuyển vào giữa làng và đặt theo hướng Nam. Mái lợp bằng cỏ tươi; hết hội làng, mái cỏ lại được bỏ đi.

Đến đời vua Lê Hi Tôn và Chúa Trịnh Cán (1697) đã được xây thành đ1nh lớn. Giữa đình thờ Thành Hoàng Vũ Hồn; hai bên tả và hữu thờ các giáp.

Năm 1740-174, đời vua Lê Hiến Tôn và Chúa Trịnh Doanh, đình làng bị Chúa Trịnh triệt hạ. Nguyên nhân là cuộc khởi nghĩa Nông Dân do Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển và Vũ Trác Oánh lãnh đạo. Vũ Trác Oánh, nười Làng Mộ Trạch, Huyện Đường An, năm 22 tuổi đã đỗ tiến sĩ, đời vua Lê Thàn Tông *1656). Cũng chính tại khoa thi này - khoa thi năm Bính Thân, niên hiệu Thịnh Đức thứ tư – toàn quốc chỉ có 6 người đỗ tiến sĩ; riêng Làng Mộ Trạch đã có 3 người. Tiến sĩ Vũ Trác Oánh, Tiến sĩ Vũ Đăng Long, và Tiến sĩ Vũ Công Lượng. Sau này, khi Vua Tự Đức nhà Nguyễn đọc tư liệu về Đăng Khoa Lục, đã hạ bút khen: " Nhất gia bán thiên hạ"; có nghĩa là "một nhà bằng nửa thiên hạ !"

Vũ Trác Oánh đã làm quan đến Tham Chánh và được Vua Lê phong Nam Tước. Tuy nhiên, do thấu hiểu sự mục tànt của Vua Lê-Chúa Trịnh và sự đói khát, thống khổ của nhân dân khắp các địa phương thời bấy giờ, nên Vũ Trác Oánh đã bỏ quan, về lãnh đạo nông dân nổi dậy. Vũ Trác Oánh kéo cờ nghĩa với tên xưng Minh Nghĩa Cong, đã phối hợp cùng Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ ( ở Ninh Xá, Hải Dương) chống lại triều đình. Vì sức yếu và tổ chức chưa tốt, chưa tạo dược cho quần chúng nhân dân một sụ giác ngộ bền vững; do đó sau 3 năm (1739-1741) đã bị quân đội nhà Trịnh dẹp tan. Nguyễn Tuyên tử trận, Nguyễn Cừ bị bắt, rrồi bị xử tử; còn Vũ Trác Oánh mất tích, không biết sau này chạy về đâu (8). Chính vì vậy mà dình Làng Mộ Trạch bị Chúa Tyrịnh triệt hạ năm 1741.

Mười sáu (16) năm sau, vào năm 1757, cũ đòi Vua Lê Hiền Tông, Bà Nhữ Thị Nhuận (9) và chồng là Vũ Phương Đẩu đã xin phép dân làng cho được xây dựng lại ngôi đình đã bị phá. Bà đã bỏ tiền riêng của gia đình, hơn ba ngàn quan tiền để xây lại đình làng. Đình làng làm xong, bà không nhận tiền của mọi người đóng góp. Bà lại còn công đức thêm 1o mẫu ruộng để lấy hoa lợi làm lễ cúng tế hàng năm. Vì vậy, dân làng rất kính trọng bà. Khi bà mất, dân làng đã phong bà làm hậu th62n. — đình làng hiện nay có bia đá ghi công đức của bà, đặt ở bên cạnh hậu cung.

Đình làng khi đó được xây dựng thành một quần thể kiến trúc gồm: Đình ngoài, đình trong, hậu cung, và sân đình với các cột trụ bo quanh.

Đình làng lại bị giặc Pháp phá hủy trong thời gian kháng chiến chống Pháp 1946-1954. Giặc Pháp đã phá đinh ngoài, lấy gạch xây đờn bót. Hiện nay chỉ còn lại đình trong và hậu cung. Đến nam 1991, dinh trong đã dược dân làng tạm thời tu bổ lại. Hiện nay đình làng đã được nhà nước Việt Nam xếp hạng là " Di tích lịch sử văn hóa quốc gia " cần được duy trì và bảo tồn - Quyết định số 154, ngày 15/01/1991 của Bộ Văn Hóa nước CHXHCN Việt Nam.

 

Đại Tự - Hoành Phi - Câu Đối ở Miếu và Đình Làng Mộ Trạch



Hoành Phi và Câu Đối tại Miếu Thờ

1.1. Trong miếu

a. Hoành phi :

Bức hoành phi thứ nhất viết bằng chữ Hán lối cổ tự:

THÁNH TRạCH VạN THŠ

(nghĩa : Ơn Thánh Vạn Đời)

Bức hoành phi thứ hai viết :

VạN THŠ TRạCH

(nghĩa : Ơn Vạn Đời)

b. Câu đối :

Câu đối thứ nhất :

TRUNG Hạ NHO TÔNG HƯƠNG THœY T‘

NAM THIÊN DÂN MụC QUC DANH TH…N

(nghĩa : Là Nhà Nho Đất Bắc là Ông Thần Của Làng

Chăn Nom Dân Nam, Vị Thần có Tiếng)

Câu đối thứ hai :

CAO H‡U DỮ THAM, VšNG QUC MƒC PHÙ LINH TRạC TRạC

THÔNG MINH NHƯ NH„T, DANH HƯƠNG HÌŒN TƯ•NG PHÚC NHƯƠNG NHƯƠNG

(nghĩa : Cao Dầy Cùng Trời Đất, Giúp Nước Linh Thiêng ngời ngợi

Sáng Suốt Trước Sau, Quê Hương Khanh Tướng Phúc Dạt Dào)

1.2 Tại Cổng Miếu Thờ

Có khằc 3 chữ :

ĐạO NGHĨA MÔN

(nghĩa: Cổng của của Đạo Nghĩa)

2. Đại Tự và Câu Đối tại Đình Làng

2.1. Đại Tự

a. Đại Tự 3 chữ:

Vạn Đại Cơ

(Nghĩa : Nền móng của vạn đời )

b. Đại Tự 4 chữ:

TIÊN T‘ TH˜ HOÀNG

(Nghĩa : Tiên Tổ đều là người danh gía )

2.2. Câu đối

 

V˜ TỬ TÔN L‡P VạN ĐạI CƠ; KHANH, TƯ•NG, CÔNG, H…U VÔ TR˜ LOạN.



DỮ THIÊN Đ˜A АNG NH„T NGUYÊN KHÍ; HOÀNG, VƯƠNG, ĐŠ, BÁ HỮU LONG Ô

 

(Nghĩa : Vì con cháu lập nền móng vạn đại; chức Khanh, Tướng, Công, Hầu đời trị hay loạn đều có .



Cùng một Nguyên khí với Trời, Đất; chức Hoàng, Vương, Đế, Bá đều có lúc thịnh, lúc suy .

 

------------------



(1) Có sách chép là Vũ Công Huy. Theo phong tục Trung Quốc, cách xưng hô tôn trọng thường gọi họ, không gọi tên. Gọi Vũ Công tức là Ông họ Vũ. Sau này trong sử sách Việt Nam khi viết đầy đủhọ và tên thì thành Vũ Công Huy. Chính vì vậy, khi sinh con, ngài chỉ đặt Vũ Hồn – không có tên đệm.

(2) Phúc Kiến, một tỉnh thuộc phía nam Trung Quốc. Xưa là đất Mân Việt thuộc vùng đất Bách Việt, không phải đất của dân tộc Hán.

(3) Trước năm 679, Giao Châu là đất Bắc Bộ vào tới Nghệ An. Năm 679 vua Đường Cao Tông nhập Giao Châu với một quận của tỉnh Quảng Đông lập ra An Nam Đo Hộ Phủ, và chia Giao Châu thành 12 châu; một trong 12 châu ấy cũng có tên là Giao Châu, gồm 3 huyện nằm trong vùng Hà Nội, Nam Định, Hải Dương.

(4) Theo Từ Điển Từ Hải của Trung Quốc, chúc Kinh Lược được nh2 Đường đạt ra từ năm 628 tại các nơi biên thùy trọng yếu để lo việc phòng thủ quân sự, và thường do một Tiết Độ Sứ (một chức Tướng) đảm nhiệm. Tại 3 quận Giao, Ái, Hoan thuộc đất An Nam, quyền cai trị thoạt đầu do một Đô Đốc nắm giữ. Năm 679 chức Đô Đốc được chuyển thành Đô Hộ, nhưng năm 768 Đô Hộ lại Về Đô Đốc. Đến năm 827-835 chứ Đô Đốc bị bỏ hẳn và các Châu , do Thứ Sử quản trị, thuộc cả vào Đô Hộ Phủ. Người đầu tiên giữ chức Đô Hộ Phủ tại An Nam là Hàn Ước.

(5) Theo Ngọc Phả hiện lưu giữ ở đình Làng Mộ Trạch, Ngài nói:

" Người xưa được một ngày nuôi mẹ, dẫu làm đến Tam Công cũng không sướng bằng. Ta nay còn có mẹ gìa, lại há tham giàu sang mà không nghĩ đến sự hiếu dưỡng hay sao ?"

(6) Mộ ông nội của Ngài Thũy Tổ Vũ Hồn hiện nay ở gò Đồng Dờm. Xã Mạn Nhuế, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương. Ngôi mộ lớn ấy đến nay đã được 1200 năm. Từ thời Lê có quan Tham Chính là Trần Xuân Án đem t1ng thân nhân vào đấy; khi thầy địa lý cho đào huyệt thì đụng phải bia đá có khắc chữ: "Đường An, Khả Mộ, Vũ Thị Chi Mộ"; quan Trần Xuân Án không dám cho đào tiếp, rồi báo cho dân Làng Mộ Trạch biết để tới nhận mộ Tổ. Bia đa ngày nay vẫn còn trên gò Đồng Dờm. Sau đó còn nhiều lần ngôi mộ Tổ lại bị xâm táng. Nhưng các lần đó, các hậu duệ họ Vũ đều đi kiện và đều thắng kiện. Ngay thời Pháp thuộc - vào năm 1934 - Công Sứ Massini khi đó cũng phải giải quyết một vụ xâm táng vào ngôi mộ Tổ. Công Sứ Massini đã can thiệp, không chophép x6m táng vì coi đó là ngôi mộ của vị Thần Tổ thuộc dòng tộc họ Vũ đã được các triều đại Việt Nam nhièu lần phong thần. Sau đó Công Sứ còn có công văn sức cho Tỉnh Hải Dương cùng Huyện Nam Sách, Xã Mạn Nhuế phải bảo vệdi tích này. Công văn này đã được khắc nguyên văn lên bia đá, 4 mặt, cao 1.50m, bằng 4 thứ tiếng Việt, Pháp, chữ Nôm, chữ Hán. Hiện bia đá còn nguyên vẹn trên gò Đồng Dờm, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Hưng.

(7) Mả Thần không có tài liệu lưu trữ nào được xác định để biết việc xây dựng ra sao, hoặc có xây dựng hay không, hay chỉ để gò đất tự nhiên ! Ngay đến thời Cụ Vũ Phương Đề, cách đây hơn 250 năm, vào khoảng giữa thế kỷ 18, trong tập CôngDư Tiệp Ký cũng chỉ ghi ngôi mộ Cụ Thủy Tổ chỉ là gò đất tự nhiên, trơ trọi... Trước đây 50 năm, khoảng năm 1945 chỉ thấy một bệ thờ bằng gạch còn lại ở gò Mả Thần.

Cuối năm 1993, Tiến sĩ Vật Lý Vũ Ngọc Thinh, Việt kiều ở Nhật Bản, cùng gia đình (gốc quê ở làng Mộ Trạch) ở TP. Hồ Chí Minh đã công đức xây cất lại Thần Lăng và khánh thành vào ngày 8 tháng Giêng năm Qúy Dậu (1993). Cùng ngày, cũng khánh thành nhà khách Miếu thờ Thầ Tổ do công đức của gia đình kỹ sư Vũ Mạnh Hà ở TP. Hà Nội. Kỹ sư Vũ Mạnh Hà là hậu duệ các Cu Tổ Vũ Phong, Trạng Vật, và Vũ Duy Chỉ, Tể Tướng, đều là gốc họ Vũ Làng Mộ Trạch, thuộc Tiền Ngũ Chi và Hậu Ngũ Chi. Cụ Tể Tướng Vũ Duy Chỉ hiện còn nh2 thờ Quang Trấn Đường ở Làng Mộ Trạch.



(8) Xem Việt Sử THông Giám Cương Mục, Viện Sử Học xuất bản tại hà Nội năm 1960 – tập 17, trang 1609-1690, tâp 18 trang 1749.

(9) Bà Nhữ Thị Nhuận, con gái Chiêm sư Dung Đốc Công Nhữ Tiến Duyệt, cháu Thượng Thư Thái Phó Nhữ Đình Hiến, vọ Cử Nhân Vũ Phương Đẩu ( Hiến Cung Đõi Phu – Chiêm Sứ Viện). Bà sinh được 2 con gái: Vũ Thị Vực, vợ Đại Tướng Phạm Ngô Cầu, và Vũ Thị Diễm, vợ Tiến Sĩ Vũ Miễn. Vì có công trong việc thu mua quế Thanh Hóa nộp cống nhà Thanh, và dùng quế này để chữa cho Quốc Mẫu nhà Thanh khỏi bệnh, mà trước đó các thày thuốc toàn quốc điều trị mãi khọng khỏi. Do đó đã được vua Nhà Thanh phong cho l2 Lưỡng Quốc Quế Hộ Thượng Quân Phu Nhân. Bà còn có công lớn trong việc dụ dân nổi loạn vì mất mùa đói kém ở Thanh Hóa; vì vậy đã được vua Le thưởng cho 20 mẫu ruộng làm lộc đìền.

 

Trích trong sách "Đặng Vũ Phả ký" của Đặng Phương Nghi



Phần Thứ Nhất - IV

IV- Họ Vũ Từ Thủy Tổ Vũ Hồn Đến Viễn Tổ Vũ Nạp

 

Năm 853, Cụ Thủy Tổ Vũ Hồn mất. Sau khi cụ Vũ Hồn mất, tài liệu gia phả bị thất lạc. Trong Ngọc Phả của đình làng không ghi rõ cụ Vũ Hồn có bao nhiêu vợ, bao nhiêu con và các thế hệ nối tiếp (1) .



Mãi cho đến năm 1226; nghĩa là, sau một thời gian gần 4 thế kỷ, chính xác là 373 năm, gia phả dòng họ Vũ mới nối lại được và duy trì cho đến ngày nay.

Vậy trong thời gian 373 năm đó, từ cuối thời kỳ Bắc Thuộc cho đến đầu Nhà Trần, họ Vũ đã đi đâu và ở đâu ? Đây cũng là một vấn đề tồn nghi của lịch sử dòng họ Vũ. Tuy nhiên, theo Đõi Viẹt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, chúng ta được biết, ngay sau khi lên ngôi vua, kế nghiệp của Lý Thái Tổ, Lý Thái Tôn đã phong quan chức cho môt loạt cận thần trong triều như sau:

Lương Nhậm Văn làm Thái Sư

Ngô Thượng Dinh làm Thái Phó

Đào Sứ Trung làm Thái Bảo

Vũ Bá Uy làm Uy Vệ Thượng Tướng, v.v. ...

Năm đó là năm 1028. Gỉa sử Thượng Tướng Quân Vũ Bá Uy lúc được phong đã trên hoặc dưới 40 tuổi, tuổi trung bình của các thượng tướng đời Lý-Trần, thì có thể ông sinh năm 988, tức là sau khi Cụ Vũ Hồn mất 135 năm.

Cũng vào đời Lý Thái Tôn, năm 1054, Nùng Trí Cao bị Tướng Địch Thanh nhà Tống đánh bại. Tướng tâm phúc là Hoàng Sư Mật cùng với thủ hạ, 57 người, đều chết tại trận. Quân Nhà Tống đuổi theo giết hơn 2000 người. Nùng Trí Cao đốt thành và bỏ chạy. Cùng năm, vào tháng 10, mùa đông, Nùng Trí Cao sai Lương Châu đến xin vua Nhà Lý cho quân cứu viện. Vua Lý Thái Tôn đã xuống chiéu cho Chỉ Huy Sứ Vũ Nhị đem quân cứu viện.

Như vậy, ngay từ đời Vua Lý Thái Tôn, họ Vũ đã có đồng thời 2 tướng trong triều.

Đến đời Vua Lý Anh Tôn (1138-1175), quyền thần Đỗ Anh Vũ (em ruột Đỗ Thái Hậu) tư thông cùng Lê Hoàng Thái Hậu, làm loạn triều đình. Quan lại trong triều không ai dám hé răng, chống đố. Vì Vua Lý Anh Tôn lên ngôi vua khi mới 3 tuổi, sau khi Lý Thái Tôn mất. Mọi việc trong triều đình Nhà Lý lúc bấy giờ đều do Lê Thái Hậu và quyền thần Đỗ Anh Vũ giải quyết. Họ Vũ lúc bấy gìờ có Ông Vũ Đái làm quan Điện Tiền Đô Chỉ Huy Sứ đã không chịu được cảnh chướng tai, gai mắt đó. Ông đã phối hợp với Phò Mã Lang Dương Tự Minh , và các ÔngTri Minh Vương, Bảo Ninh Hầu, cùng các Ông Vũ Đô Hỏa Đầu Lương Thượng Cả và Ngọc Giai Đô Hỏa Đầu Đông Lợi, mư trừ kẻ quyền thần Đỗ Anh Vũ.

Các ông đã đem quân cấm vệ vào cửa Việt Thành, đồng thanh hô to lên rằng " Anh Vũ ra vào cấm đình, làm bừa; tội ác ô uế; tiếng xấu đồn ra ngoài; không tội gì to bằng. Bọn thần xin sớm trừ đi, khỏi để mối lo về sau".

Vua Lý Anh Tôn xuống chiếu, sai cấm quân bắt giam Đỗ Anh Vũ và giao cho đình úy tra xét. Vì xét công của Đỗ Anh Vũ trước đây,Vua Lý Anh Tôn đã không xử tử Đỗ Anh Vũ, mà chỉ tước hết quan chức, đuổi về làm thường dân phục vụ ở thôn dã (có thể là Xã Nhật Tảo, ngoại thành Hà Nội ngày nay).

Nhưng có Lê Thái Hậu (mẹ Vua Lý Anh Tôn) bao che, bà đã dùng quyền lực của mình để cố cứu Đô Anh Vũ. Vào thời đó, nhà Lý rất tin vào Đõo Phật (Lý Công Uẩn, tức là Vua Lý Thái Tổ, người khởi nghiẹp của Nhà Lý lại là con nuôi nhà sư Vạn Hạnh; do đó, vào thời đầu của Vua Lý Thái Tổ, chùa chiềnđã được xây ở khắp mọi nơi), do đó, Lê Thái Hậu đã nghĩ mưu, tìm kế phục hồi lại chức vụ cho Đỗ Anh Vũ. Bà liên tiếp trong nhiều năm mở các hội chùa để xin xá tội cho các tội nhân. Ví vậy, Đỗ Anh Vũ, qua nhiều lần được xá tội, đã dần dần phục hồi và cuối cùng trở lại chức vụ Thái Úy Phụ Chính như cũ. Đến lúc nàyĐỗ Anh Vũ mới raặt báo thù. Đỗ Anh Vũ tự tổ chức đội Phụng Quốc Vệ, gồm toàn thủ hạ, tay chân thân tín. Bất kỳ ai phạm tội đều do đội Phụng Quốc Vệ đi bắt; ví vậy nếu vu cho ai phạm tội, thì ngườ đó rất khó trốn thoát.

Đỗ Anh Vũ được sự đồng tình của Lê Thái Hậu đã vào cung mật tấu với vua: "...Trước kia bọn Vũ Đái tự tiện đem quân cấm vệ vào cung đình; tội ấy không gì to bằng. Nếu không trừng trị sớm đi, sợ một ngày kia sinh biến, không thể tính được." Vua chẳng hiểu gì cả, cũng chuẩn y lời tâu.

Đỗ Anh Vũ sai đội Phụng Quốc Vệ bắt Vũ Đái giam vào ngục để trị tội. Xuống chiếu giáng Tri Minh Vương làm tước Hầu, Bảo Minh Hầu làm tước Minh Tử, Bảo Thắng Hầu làm phung chức; bọn nội thị là Đỗ „t, 5 người, phải tội "cuỡi ngựa gỗ"; bọn Hỏa Đô Đầu Ngọc Giai là Đồng Lợi, 8 người, bị chém ở chợ Tây Nhai; bọn Đìện Tiền Đô Chỉ Huy Sứ Vũ Đái, 20 người, bị chém bêu đầu ở các bến sông; bọn Phò Mã Lang Dương Tư Minh, 30 người, bị lưu ở những nơi rừng-thiêng-nước-độc xa xôi...(2) .

Thương thay, một con người cương trực của dòng họ Vũ vì đấu tranh với cường quyền mà đã bị chết thê thảm như vậy ! Và phải chăng, vì cái chết của Ông Vũ Đái mà các cụ họ Vũ thời xưa ở làng Mộ Trạch đã ngại không đưa danh tính ông vào gia phả; và bởi đó đã gây ra sự đứt đoạn trong dòng họ Vũ như vậy (3).

Đến đời Vua Lý Cao Tôn (1176-1210), dòng họ Vũ có Ông Vũ Tá Đường làm đến chức Tham Tá Chính Sự (một chức quan to trong triều Nhà Lý).

Sự tích về Ông Vũ Tá Đường vẫn lưu truyền trong truyền thuyết dân gian, trong sử sách, và gần đây trong cả các sách giáo khoa:

 

... Quan Thái Úy Tô Hiến Thành bị bệnh. Vì thương ông, quan Tham Chính Sự ngày đêm hầu bên cạnh; còn quan Gián Nghị Đại Phu Trần Trung Tá vì bận việc, nên it1 đến thăm hỏi. Đén khi bệnh nguy kịch, Thái Hậu thân đến thăm và hỏi:

Ông đau yếu; nếu có mệnh hệ nào, ai thay được ông ?

Tô Hiến Thành trả lời:

Trần Trung Tá có thể thay được.

Thái Hậu nói:

Vũ Tá Đường hết lòng vì ông ! Sao (ông) không cử ông ta ?

Tô Hiến Thành đáp:

Vì Bệ Hạ hỏi người nào đáng thay tôi, nên tôi nói : (là) Trần Trung Tá. Nếu như Bệ hạ hỏi (về ) người hầu nuôi, (giả như) không phải Tá Đường thì còn ai nữa !

Thái Hậu khen là trung, nhưng cũng không dùng lời ấy, mà lấy Đỗ An Di làm Phụ Chính (4) .

Đọc đoạn Việt sử này, chúng ta thấy khó chịu, không phải vì thái độ thiếu trong sáng của ông cha, mà vì nhà viết sử không khách quan, thiếu suy xét và cân nhắc khi trình bày sự việc, Sự thực có phải là Vũ Tá Đường ngày đêm chăm nom, trông sóc quan Thái Úy Tô Hiến Thành chỉ vì mong được quan Thái Úy đề nghị mình làm Phụ Chính ? Điều đó nhiều phần không đúng:



 

Thứ nhất : Ông Vũ Tá Đường là một đại thần Nhà Lý, hà tất phải hạ thấp mình một cách nhỏ mọn để đạt mục đích như Tô Hiến Thành nhận xét. Điều này hoàn toàn trái với bản chất dòng tộc họ Vũ mà cả ngàn năm sau con cháu vẫn duy trì; đó là lòng tự hào về khí tiết của dòng họ.

 

Thứ hai : Trong lời đối đáp mà nhà viết sử ghi lại trên đây ( có thể từ nhà sử học Lê Văn Hưu, tác gỉa cuốn Đại Việt Sử Ký mà sau này Ngô Sĩ Liên dựa vào đó để biên soạn lại), chúng ta thấy đó không phải khẩu khí của Ông Tô Hiến Thành, một con người tài ba và cương trực, như đã được sử sách nhiều lần nhắc tới. Tại sao khi trả lời Đỗ Thái Hậu, Tô Hiến Thành lại đáp, "Vì Bệ Hạ hỏi ..." Là quan Đại Thần Nhiếp Chính, sao Tô Hiến Thành lại có đã xưng hô một cách tùy tiện như vậy ? Chắc chắn là ông không thể dùng lầm lẫn hai tước hiệu Bệ Hạ với Thái Hậu, và ngược lại, Thái Hậu với Bệ Hạ. Thật lại càng vô lý khi gán ghép cho Tô Hiến Thành câu nói : Nếu như hỏi người hầu nuôi, không phải Tá Đường thì còn ai nữa ?

Đó là một loại văn phong miệt thị của sử gia sau này, chứ không thể là ngôn từ của một vị đại thần trước lúc lâm chung ! Nhất là vị đại thần đó lại là Thái Sư Tô Hiến Thành. Là một người có tấm lòng trung quân và ái quốc cao độ, Thái Sư Tô Hiến Thành biết rõ hơn ai hết sự suy đồi của Nhà Lý, như đã khởi đầu từ cuối đời Vua Lý Nhân Tôn (1072-1127).

Vua Lý Nhân Tôn không có con, do đó người kế vị không phải là người trực hệ, lại càng không phải là người được đào tạo để kế vị ngôi vua. Vì vậy, Vua Lý Thần Tôn khi lên ngôi mới có 13 tuổi. Hai vị vua kế tiếp sau đó lại còn tệ hại hơn: Vua Lý Anh Tôn (1138-1175) và Vua Lý Cao Tông (1176-1210) đều lên làm vua lúc mới có 3 tuổi. Vì các vị vua này lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi hoặc quá ít tuổi, nên việc các bà Thái Hậu, Thái Phi tham gia quyền bính là điều không tránh khỏi. Trong thực tế thời đó, các bà Thái Hậu không có và cũng không được tiếp thụ nền giáo dục khả dĩ đào tạo cho bản thân mình có đủ trình độ và kiến thức của một người lãnh đạo đất nước.

Ngay đến Bà Thái Hậu nổi tiếng nhất và được nhiều nhà viết sử ca ngợi - và hiện nay vẫn còn đền thờ ở Làng Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội - là bà Nguyên Phi µ Lan, cũng có những vết đen trong cuộc đời.

Khi Vua Lý Thánh Tôn đột ngột băng hà, triều đìinh Nhà Lý đã gặp nhiều rối ren. Mãi 4 tháng sau, µ Lan Nguyên Phi mới được làm Thái Hậu và nắm quyền nhiếp chính. Khi đã có quyền lực trong tay, bà đã bắt giam Hoàng Hậu Thương Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung và bỏ đói họ cho đến chết. Phải chăng vì tội ác đó mà Vua Lý Nhân Tôn đã không có con để thừa kế sau này ?

Tiếp đó đến đời Vua Lý Anh Tôn, quyền bính trong triều đình thực tế do quyền thần Đỗ Anh Vũ và Bà Lê Thái Hậu thao túng. Hai người tư thông với nhau. Thái Tử Long Xưởng lại thông dâm với Cung Phi, nên bị phế làm thứ dân và bị giam.

Triều đình điên loạn ! Chính vì thế mà Đỗ Anh Vũ đã bị bắt, bị đày làm thứ dân, rồi lại được phục hồi để làm Phụ Chính Đại Thần với quyền lực làm nghiêng ngả triều đình, và đã gây ra cái án oan khốc, làm cho 30-40 người cùng Vũ Đái bị chém, bị bêu đầu trên các bến sông, bên chợ.

Vai trò của Thái Sư Tô Hiến Thành trong vụ này thế nào? Các nhà viết sử không thấy đề cập. Nhưng rõ ràng quyền hành trong triều đình Nhà Lý đâu còn ở trong tay Thái Sư ! Thái Sư chỉ còn là cái bóng để cho bọn quyền thần mặc sức hoành hành!

Đến khi già ốm, không có người trông nom, săn sóc. Có thể vì cám cảnh cho một ông già đầy quyền lực trước đây mà bây giờ bị cô đơn, ốm đau không người chăm sóc, nên Ông Vũ Tá Đường, với tấm lòng nghĩa hiệp vốn có của dòng họ Vũ, đã thường xuyên qua lại thăm hỏi (? ).

Ông Vũ Tá Đường và Ông Vũ Đái chắc chắn cùng một dòng tộc họ Vũ, lại cùng làm quan đại thần nhà Lý qua các triều đại, thì làm sao mà Ông Vũ Tá Đường lại không biết Ông Vũ Đái bị chết oan (? ); ngay cả quan Thái Sư Tô Hiến Thành cũng biết là vậy nhưng đành bất lực (? ). Có lẽ vì có cùng tâm tư, cùng tình cảm lo buồn cho đát nước, và cùng cám cảnh cho thân phận, mà 2 ông già đã thường xuyên gặp nhau để cùng chia sẻ nỗi niềm (? ). Chứ lẽ đâu Ông Vũ Tán Đường đến với Ông Tô Hiến Thành để đi tìm cái gì đó không trong sáng cho bản thân mình!

Do đó khi được hỏi ai sẽ thay mình, Tô Hiến Thành đã nói ngay: Trần Trung Tá, quan Giản Nghị Đại Phu, chứ không phải là Đỗ An Thuân (Đỗ Thái Hậu lúc bấy giờ đã được phong làm Hoàng Thái Hậu). Khi đó Đỗ An Thuân đã được phong làm Thái Sư Đông Bình Chương Sự, và Tô Hiến Thành chỉ còn giữ chức Thái Úy (5). Đỗ Anh Vũ lúc đó đã chết. Vì câu trả lời của quan Thái Úy không hợp ý mình, nên Hoàng Thái Hậu đã hỏi kháy lại: Tá Đường ngày nào cũng hầu thuốc thang, mà ông lại không nói đến là làm sao?

Câu trả lời, "... Nếu như hỏi người hầu nuôi, thì không phải Tá Đường còn ai nữa? ", thật là qúa quắt. Khẩu khí đó chỉ có thể là của Đỗ Hoàng Thái Hậu, người chị ruột của Đỗ Anh Vũ - đã bị qưan đại thần Vũ Đái vạch mặt trong vụ án " Đỗ Anh Vũ " - Do tư thông vơi Lê Hoàng Thái Hậu, Đỗ anh Vũ đã bị bắt giam, bị tước hết quan chức, và bị giáng xuống làm thứ dân; sau đó Đỗ Thái Hậu đã âm mưu cùng Đỗ Anh Vũ báo thù: sát hại 30-40 người cùng một lúc. Chính vì căm ghét họ Vũ mà người đàn bà ấy đã bịa khẩu ra lời nói của Tô Hiến Thành để bôi nhọ thanh danh của Vũ Tá Đường - một vị quan họ Vũ đồng thời với Vũ Đái.

Có thể xác tín như vậy vì rõ ràng là sau buổi gặp đó, người thay thế Tô Hiến Thành không phải là quan Giản Nghị Đại Phu Trần Trung Tá, mà là Đỗ An Di, một người anh-em của Đỗ Hoàng Thái Hậu, làm phụ chính, và cùng với Đỗ An Thuần đã nắm hết quyền bính của triều đình Nhà Lý lúc bấy giờ. Vì vậy, việc Đỗ Hoàng Thái Hậu đến hỏi Thái Úy Tô Hiến Thành, về việc người thay ông, không nhằm mục đích sáng - ích quốc, lợi dân - mà rõ ràng chỉ nhằm mục đích bịa khẩu để bôi nhọ thanh danh của Vũ Tá Đường.

Sự thực về Vũ tá Đường chúng ta phải hiểu như vậy! 820 năm qua, Ông Vũ Tá Đường vẫn bị miệng đời đàm tiếu, và con cháu họ Vũ vẫn bị cay đắng vì bị hiểu lầm.

Đã đến lúc chúng ta cần minh chứng cho Vũ Tá Đường cùng giải cái oan khuất của Vũ Đái.

Lịch sử cần phải được xác minh lại một cách nghiêm túc, rõ ràng. Ít nhất, trong dòng tôc họ Vũ cũng phải hiểu được cái oan ức của ông-cha, để - trong những trường hợp cần thiết - yêu cầu giới chức có thẩm quyền (các sử gia, dĩ nhiên) đính chính lại lịch sử cho hợp lý.

Phải chăng vì hiểu được nỗi oan bịa khẩu này mà Ông Vũ Nạp (Vũ Vị Phú), Viễn Tổ của họ Vũ sau này, đã lấy tên đệm của ông-cha để đặt tên cho con trưởng của mình là Vũ Nghiêu Tá?

Nếu qủa như vậy thì dòng họ Vũ đã có thể nối liền từ Ông Vũ Tá Đường sang Ông Vũ Nạp; nghĩa là từ cuối đời Nhà Lý sang đầu đới Nhà Trần. Do đó khỏang thời gian bị mất thông tin về gia phả dòng tộc họ Vũ dã từ 372 năm còn có 135 năm, tức là rút ngắn được 238 năm. Như vậy phần thông tin gia phả chỉ còn lại có 4, 5 đời kể từ sau Cụ Thủy Tổ Vũ Hồn.

Gần đây, trong tư liệu "Phả họ Vũ ở Làng Lương Ngọc, Phủ Bình Giảng, Tỉnh Hải Dương," do Ông Vũ Huy Chân biên soạn tại Sài Gòn năm 1972, có viết:

Vị Tổ họ Vũ được phân nhánh tới làng Ngọc Cục, Huyện Đường An, Tỉnh Hải Dương, lập nghiệp từ đời Đinh hoặc đời Tiền Lê. Nhiều đời con cháu nối nhau sinh trưởng ở đó qua đời Lý và khoảng đầu đới Trần.

Trong thời gian đó, khoảng 300 năm, , có chừng 10 đời đã sống trên đát ngọc Cục.

Sau khi Giặc Nguyên sang xâm lấn nước ta vào thời kỳ Nhà Trần, một chi nhánh lại ra lâp nghiệp ở Thôn Bông và định cư ở đấy. Đến đời vua Nhà Mạc, Mạc Mậu Hợp, niên hiẹu Diên Thánh (1578-1583), Thôn Bông được lập thành làng gọi tên là Hoa Đường (sau đổi tên là Lương Đường và hiện nay là Lương Ngọc).

Như vậy chi nhánh họ Vũ phân nhánh từ Mộ Trạch sang Ngọc Cục, và từ Ngọc Cục đến Hoa Đường đã kéo dài khỏang 20 thé hệ, trên dưới 600 năm.

Từ thời gian thành lập Làng Hoa Đường cho đến đời Vua Lê Hân Đức Công, Lê Duy Phương (1729-1732), khoảng 150 năm; như vậy nối tiếp thêm 5 đời nữa.

Cộng chung cả 3 thời kỳ, phân nhánh họ Vũ ở Làng Lương Ngọc đạ có 25 đời nối tiếp, khoảng 750.

Người viết phả họ Vũ đầu tiên ở Làng Lương Ngọc là Ông Vũ Đình Lâm, tự Pháp Chân. Ông Viết phả vào thời gian Vua Lê và Chúa Trịnh.

 

Đem so với cuốn "Phả họ Vũ Làng Mộ Trạch" do các Ông Vũ Phương Lan (Cử Nhân), Vũ Tông Hải (Tú Tài), Vũ Thế Nho (Tú Tài) viết, và Ông Vũ Huy Đỉnh (Tiến Sĩ) nhuận đính - cuốn phả này được viết từ năm 1769 và hoàn thành vào năm 1769, tức là vào đời Vua Lê Hiển Tông (1740-1786) và Chúa Trịnh Giang - ta sẽ thấy 2 cuốn phả này coi như cùng đưọc viết đòng thời.

Đáng tiếc nguyên bản cuốn " Phả họ Vũ làng Lương Ngọc" đã bị thất lạc. Nếu như có thể tìm lại được, chúng ta có khả năng ghép nối dòng họ Vũ từ Cụ Thủy Tổ Vũ Hồn cho đến con cháu họ Vũ ngày nay.

------------------

(1). Theo bia đá ở nhà thờ Cụ Vũ Uy ở Đa Căng, Huyện Nông Cống, Tỉnh Thanh Hóa, Cụ Thủy Tổ Họ Vũ có bà vợ họ Hoàng, sinh hạ được 3 người con trai. Đẹ nhất lang thi trúng Tiến Sĩ Nam Quốc; đệ nhị lang thi trúng Tiến Sĩ Bắ Quốc; đệ tam lang văn và võ kiêm toàn, biệt phù Chiêm Quốc. Cụ Vũ Uy, một trong 18 công thần khai quốc nhà Lê thuộc về phân nhánh này. Trong bia đá này có ghi rõ " Vũ Hồn Tiên Tổ, Trung Quốc nhân, Phúc Kiến nhân".

(2). Trích nguyên văn trong Dõi Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, tập I, kỷ nhà Lý, trang 283, NXBKHXH, 1972.

(3). Về việc "ngại" đưa vào gia phả của dòng họ Vũ ở Làng Mộ Trạch cũng đã thể hiện 1 lần ở trường hợp Vũ TRác Oánh, lãnh tụ Nông Dân Khởi Nghĩa ở thế kỷ 17. Danh sách tiến sĩ của làng đề tên ông là Vũ Trác Lạc, đỗ tiến sĩ khoa 1656 khi ông 42 tuổi. Thực tế Ông Vũ Trác Oánh đỗ tiến sĩ khoa 1656 khi ông 22 tuổi, và đã l2m quan đến chức Tham Chính, tướ Nam; sau đó bị họ Trịnh truy lùng, nên đã bỏ làng đi nơi khác lập nghiệp.

(4). Đõi Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển IV, tr.294, nhà XHKHXH, 1972.

(5). Khi Long Trất còn là Hoàng Thái Tử, chưa lên ngôi Hoàng Đế, thì Tô Hiến Thành đã được Vua Lý Anh Tôn phong làm Nhập Nội Kiêm Thái Phó Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, tước Vương, giúp Đông Cung

 

Trích trong sách "Đặng Vũ Phả ký" của Đặng Phương Nghi



tải về 471.47 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương