Ăn chay và SỨc khỏE



tải về 0.51 Mb.
trang4/17
Chuyển đổi dữ liệu14.06.2018
Kích0.51 Mb.
#39993
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

Lời Nói Đầu


Lúc còn bé, tôi thường theo cha mẹ đến chùa để lễ Phật, sau đó được thưởng thức các món ăn chay ngon lành do quý vị tín nữ khéo tay nấu nướng. Chùa chiền sau những ngày lễ lạc linh đình, đã trở lai cảnh vắng lặng bình thường. Quý tăng, ni và chư vị Phật tử đến chùa để công quả sống những chuỗi ngày bình dị, vui cùng câu kinh tiếng kệ và an nhiên với những bữa ăn đơn giản bằng dưa, cà, rau, trái.

Khi còn ở trong nước, tôi cho rằng ăn chay chỉ là cách thức ăn uống thanh đạm của những bậc tu hành để tránh không bị phạm vào giới cấm sát sanh theo quy luật của nhà Phật. Ăn chay chỉ gồm toàn những thức ăn thảo mộc nên không đầy đủ sinh tố và khoáng chất cần thiết cho cơ thể của con người. Do đó chúng ta sẽ bị yếu đuối và không đủ sức khỏe để làm việc, nhất là không thể đảm đang các công việc nặng nhọc. Thậm chí cũng còn có thể làm cho con người khó tránh được những bịnh tật nguy hiểm. Đa số Phật tử, có lẽ cũng đồng một quan niệm như vậy, cho nên dù đã thọ Tam quy ngũ giới rồi, nhưng vẫn còn e ngại, nên đã nửa chừng bỏ cuộc, không còn ăn chay nữa hoặc đã trở lại cách thức ăn chay định kỳ.

Tuy nhiên sau biến cố lịch sử 30 tháng 4 năm 1975, gia đình chúng tôi đã may mắn vượt biển thành công và được định cư tại Úc. Có cơ hội đọc được sách báo nước ngoài, tôi mới hiểu rằng ăn chay ngày nay không còn có ý nghĩa quanh quẩn trong vấn đề quy luật tôn giáo mà nó có liên hệ mật thiết đến việc bảo vệ sức khỏe và phòng ngừa một số bệnh tật.

Một hôm cách nay đã lâu, các con tôi tan học về, có trao cho tôi một quyển sách nhan đề là The Higher Tastes (Những khẩu vị Cao Quý) và bảo rằng do các ông Đạo Hare Krishna cho chúng nó. Tôi vốn có thành kiến không mấy ngưỡng mộ đối với các ông đạo này nên không màng để ý tới quyển sách đó. Tuy nhiên một bữa nọ tôi lục lạo kệ sách để sắp đặt lại cho đàng hoàng. Tôi vô tình nhặt lại quyển sách ấy và cố ý đọc thử một vài trang để xem những gì đề cập trong đó. Tôi thấy nội dung cũng khuyên mình ăn chay, làm lành lánh dữ và mở rộng lòng từ bi bác ái cũng như nói đến luân hồi, nhân quả và nghiệp báo...giống như giáo lý nhà Phật. Tín đồ của đạo này cũng có một nếp sống đạo đức hiền lương, dạy dỗ con cái đàng hoàng mẫu mực. Đối với họ, ăn chay không là một thứ giáo lý suông mà phải tuân hành môt cách nghiêm chỉnh. Hàng tuần họ thường tổ chức các buổi giảng pháp và khoản đãi cơm chay miễn phí cho công chúng để giới thiệu sự ăn chay không những chỉ nhằm mục đích để trưởng dưỡng lòng từ bi mà còn có tính cách dinh dưỡng nữa. Từ đó quan niệm của tôi đã thay đổi hoàn toàn, đồng thời có thiện cảm đối với quý vị tu sĩ của đạo Hare Krishna. Tôi cố gắng tìm đọc thêm những tài liệu mà quyển sách này đã tham khảo tiêu biểu như quyển Diet For A New America (Phương pháp ăn uống cho một nước Hoa Kỳ Mới) của John Robbins, các quyển sách và tạp chí xuất bản định kỳ của Hội Sức Khỏe Tự Nhiên (Natural Health Association) và Hội Ăn Chay (Vegetarian Society ) tại Úc Châu. Để chia xẻ những tài liệu quý báu mà tôi đã sưu tập được với qúy vị độc giả, tôi đã soạn lại thành các bài ngắn gọn và đã đăng trên các tạp chí định kỳ Chánh Tâm của Chùa Phật Đà ở Brisbane và tạp chí Phước Huệ Công Đức Tòng Lâm của Chùa Phước Huệ tại Sydney, đồng thời cũng gởi cho chương trình phát thanh Tiếng Gọi Tình Thương của Hội Quốc Tế Thanh Hải Vô Thượng Sư trung tâm Sydney để phổ biến rộng rãi. Để tiện lợi, nay tôi sắp xếp các tài liệu này lại thành tiết mục đàng hoàng và in thành sách để cống hiến quý vị tín hữụ tùy nghi suy nghiệm.

Cách đây hơn 2 ngàn 5 trăm năm, khi nền văn minh khoa học vẫn còn ẩn tàng trong bóng tối, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật đã bảo trong một chén nước có vô vàn vi sinh vật (vi khuẩn), thì Ngài há lại chẳng biết ăn chay là thói quen ăn uống thích hợp với cơ thể của con người, gia tăng sức khỏe và phòng ngừa được các loại bệnh tật. Chính vì thế, chúng tôi hy vọng với sự đóng góp nhỏ bé của quyển sách này sẽ mang đến cho quý vị độc giả và quý vị tu hành một sự vững tâm hơn trong vấn đề ăn chay và trì giới.

Sau hết tôi xin chân thành cảm tạ quý thân hữu và quý đồng hương đã khuyến khích tinh thần, đóng góp ý kiến và giúp đỡ phương tiện để chu toàn việc ấn tống quyển sách này một cách hoàn mỹ. Đồng thời kính xin quý vị thức giả bốn phương vui lòng chỉ giáo cho những điều thiếu sót và bổ túc thêm tài liệu để quyển sách này sẽ được hoàn chỉnh hơn trong những kỳ tái bản sắp tới.

Tôi cũng không quên thân thương gởi lòng trìu mến đến vợ và các con của tôi đã dành cho tôi thì giờ quý báu, bổ túc kiến thức chuyên môn và phụ trách kỹ thuật để quyển sách này được chào đời một cách tốt đẹp.

Viết tại Sydney tháng 10 năm 1999

Trần Anh Kiệt
---o0o---

PHẦN MỘT - ĂN CHAY THEO QUAN NIỆM
CỦA MỖI THỜI ĐẠI

Bài I - ĂN CHAY VÌ LÒNG THƯƠNG YÊU LOÀI VẬT


Hiện nay một số nhà truyền giáo trên thế giới vẫn còn rao giảng với tín đồ của họ rằng "loài vật là những cái máy không linh hồn và không cảm giác". Do đó người ta có thể sát sinh các loại động vật một cách vô tội vạ để lấy thịt cung cấp cho thị trường tiêu thụ. Tại một số quốc gia trên thế giới, người ta còn lập ra các hội hoặc câu lạc bộ săn bắn. Họ coi việc đi săn như một môn thể thao hay một trò vui tiêu khiển. Ở Úc Châu có câu lạc bộ săn bắn vịt trời. Hàng năm nhân đến mùa vịt trời tụ hội về, các xạ thủ thi đua nhau bắn chúng để xem ai đạt được thành tích kỷ lục, rồi vứt bỏ các xác của vịt trời ấy một cách tàn nhẫn và hoang phí mà không hề lấy thịt.

Tuy nhiên phong trào bảo vệ môi sinh và thương yêu cầm thú đã ra đời. Họ cố gắng tranh đấu bằng mọi phương tiện truyền thông, báo chí vân vân nhằm bênh vực sự hiện hữu của các sinh vật đáng thương này trên quả địa cầu. Ông John Robbins, tác giả quyển Diet For A New America (Phương pháp ăn uống cho một nước Hoa Kỳ mới), một quyển sách thuộc hàng bán chạy nhất hiện nay trên thế giới đã có số phát hành trên 450 ngàn quyển, đã phản bác luận điệu vô ý thức và đầy bạo lực trên đây bằng những câu chuyện thật mà ông đã sưu tầm được qua các phóng sự của báo chí khắp nơi. Chuyện của ông kể thì nhiều, nhưng chúng tôi chỉ trưng dẫn ra đây một vài sự kiện tiêu biểu để quý độc giả tiện việc suy xét.

---o0o---

1. Cá Heo Cứu Người


Vào năm 1971, cô Yvonne Vladislavich đã lái thuyền buồm vượt đại dương. Đến vùng biển Ấn Độ thì tàu của cô bị lâm nạn. Mạn thuyền bị bể, nước tràn vào và dần dần chìm xuống đáy biển. Nơi Yvonne bị đắm thuyền là vùng biển rất nguy hiểm vì có nhiều cá mập sinh sống. Trong khi đang vật lộn với sóng to gió lớn thì bất thình lình một cái phao từ dưới đáy biển trồi lên và nâng thân hình của cô nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Cô quan sát và rất ngạc nhiên khi biết rằng đây không phải là một cái phao mà chính là một con cá heo to lớn đang thực hiện việc cấp cứu. Ngoài ra còn có hai con cá heo khác bơi chung quanh để che chở cho cô khỏi bị tấn công bởi đàn cá mập quái ác. Ba con cá heo đó cứ thế mà bảo vệ cô và từ từ đưa cô đến một cái phao lớn mà người ta dùng để làm dấu hải phận để cô bám chặt vào một cách an toàn. Sau khi Yvonne được một tàu hải hành cứu thoát, người ta kiểm chứng biết được từ chỗ cô được đàn cá heo bảo vệ đến cái phao an toàn có khoảng cách dài trên 200 hải lý.

Ngoài ra vào ngay 28 tháng 5 năm 1978, một chiếc tàu biển gồm bốn thủy thủ đã bị thất lạc ở ngoài khơi đảo Dassen thuộc quốc gia Nam Phi vì bị sương mù dầy đặc. Họ rất lo sợ vì biết rằng tàu đang trôi giạt trên vùng biển có nhiều đá ngầm hiểm trở. Trong lúc mọi người đang âu lo để tìm phương thoát hiểm thì bỗng thình lình tàu của họ bị húc nhẹ và bị đẩy đi theo một hướng khác nên may mắn thoát ra khỏi vùng sương mù bao phủ. Ra nơi quang đãng, mọi người trông thấy một đàn cá heo đang đẩy mạnh chiếc tàu về nơi an toàn. Sau đó chúng phóng lên khỏi mặt nước và nhào lộn nhiều vòng như hân hoan bái biệt mọi người rồi biến dạng vào lòng biển cả.

---o0o---

2. Rùa Biển Cứu Người


Một câu chuyện khác vào năm 1975, một chiếc tàu bị đắm ở ngoài khơi hải phận Manilla, thủ đô của nước Phi Luật Tân. Mọi người trên tàu nhốn nháo dành giựt xuống bè cấp cứu. Một người đàn bà chẳng may không còn chỗ trên bè và đang vẫy vùng trên sóng nước trong tình trạng vô cùng nguy ngập. Bỗng người ta trông thấy một con rùa biển bơi nhanh về phía nạn nhân tuyệt vọng đó. Như may mắn vớ được phao cấp cứu, người đàn bà này bèn bám chặt trên lưng rùa một cách an toàn. Suốt hai ngày liền, rùa đã nhịn ăn để làm phao cấp cứu cho nạn nhân được sống sót. Sau cùng người đàn bà này đã được cứu thoát bởi một chiếc tàu biển khác. Có người lầm tưởng rằng nạn nhân được sống sót là nhờ bám vào một vật nổi ở trên biển. Đến khi người đàn bà được vớt lên tàu rồi, mọi người mới trông thấy rõ rùa biển trồi lên trên mặt nước, vờn qua vờn lại nhiều vòng rồi mới biến dạng vào lòng đại dương.

Theo sự nghiên cứu của nhà sinh vật học Henry Bergh, rùa biển này là loài động vật sống lâu năm trên thế giới. Có con đã sống trên 600 năm. Thịt của nó rất quý và rất đắt tiền. Một số tàu đánh cá đã bắt được những con rùa biển này, đâm thủng mai của nó rồi xỏ dây lôi theo sau con tàu, hành hạ và bỏ đói chúng sau bao chặng đường thủy lộ, trước khi thịt của chúng được hân hạnh xuất hiện trên dĩa của những bàn tiệc sang trọng trong các nhà hàng quốc tế. Đáng tiếc thay! Loài người chúng ta đã trả ơn những nghĩa cử cao đẹp đó bằng cách hành xử không tương xứng như thế.

---o0o---

3. Chim Hoàng Oanh Cứu Chủ


Vào năm 1950, một cụ bà hiền lành cư ngụ tại thị trấn Hemingtage được nhiều bạn láng giềng cảm mến và gọi cụ một cách thân mật là cụ Tess. Cụ sống cô đơn trong một căn nhà cũ kỹ nên nuôi một con mèo và một con chim hoàng oanh để làm bạn hầu vơi bớt nỗi quạnh quẽ. Người ta không biết cụ có con cái gì không ngoại trừ người cháu gái ở cách nhà cụ vài trăm mét thường hay tới lui thăm viếng.

Một đêm nọ, vợ chồng người cháu gái bị đánh thức bởi tiếng vỗ cửa ở bên ngoài. Người chồng lười biếng bảo: "Gió phe phẩy cành lá các cây kiểng ngoài sân đó mà", rồi kéo chăn trùm lên tiếp tục ngủ nữa. Tuy nhiên tiếng vỗ cửa càng ngày càng dồn dập và khẩn cấp hơn. Người cháu gái bèn xuống giường và đến vén màn cửa sổ để xem việc gì động tịnh ở bên ngoài. Cô rất lấy làm ngạc nhiên khi trông thấy con chim hoàng oanh của bà cô mình đang xòe đôi cánh đập mạnh vào kính cửa sổ. Cô giục chồng: "Chắc có việc gì xảy ra ở nhà cô của mình nên con chim hoàng oanh mới bay đến vỗ cửa nhà mình một cách khẩn cấp như thế". Người chồng bèn tung chăn xuống giường và vội vàng đưa vợ đến nhà người cô trong khi con chim hoàng oanh đã sải cánh rớt độp xuống khung cửa sổ mà chết vì quá kiệt sức. Đến nơi, hai vợ chồng người cháu mới phát giác cô mình đã té, nằm bất tỉnh trên sàn nhà với mình mẫy bê bết máu. Nếu không nhờ sáng kiến của con chim hoàng oanh bay đi cấp báo thì vợ chồng người cháu gái đâu có đến kịp thời để cấp cứu, thì biết đâu cụ Tess đã chết từ lúc nào rồi.

---o0o---

4. Loài Vật Cũng Có Tình Mẫu Tử


Ngoài ra tại Úc Châu, vào năm 1998, theo tin tức báo chí và đài truyền hình ở Sydney loan tải, một dã nhân cái tại sở thú Taronga đã bỏ ăn bỏ uống và vô cùng buồn thảm trong nhiều ngày liên tiếp trước cái chết của dã nhân con.

Frala là tên của dã nhân cái được các nhân viên sở thú đặt cho. Nó thuộc gống dã nhân ở vùng đồng bằng và được đưa từ một sở thú khác ở Hòa Lan về sở thú Taronga tại Sydney để tiếp tục nuôi dưỡng. Khi thấy con dã nhân cái 17 tuổi này có thai, các nhân viên trách nhiệm ai nấy cũng đều vui mừng vì biết rằng nó đã thích ứng với cách thức nuôi dưỡng của họ.

Frala sinh ra một dã nhân con bé bỏng. Đây là đứa con thứ ba của Frala và là đứa con thứ bảy của dã nhân đực Kibau do nhân viên sở thú Taronga cho lai giống trong điều kiện tự nhiên ở Úc. Khi dã nhân con này được 3 tuần tuổi, thì nó chết một cách đột ngột vào cuối tháng 3 năm 1998 khiến cả bầy dã nhân nói chung và Frala nói riêng đau khổ vô cùng. Người ta chưa từng thấy loài khỉ hay dã nhân khóc bao giờ. Nhưng cử chỉ đau buồn của một người mẹ mất con đã biểu lộ một cách rõ rệt ở Frala bằng cách ôm chặt xác chết của đứa con vào lòng trong suốt 3 ngày liền và bỏ ăn bỏ uống. Sự kiện này đã làm cho nhân viên sở thú nào trông thấy cũng đều mũi lòng. Vì tôn trọng tình mẫu tử và để chia xẻ sự mất mát một đồng loại của bầy dã nhân, các nhân viên sở thú bèn che kín chuồng lại để chúng được tự do thích ứng với hoàn cảnh đau buồn. Ba ngày sau, khi họ đến mở cửa chuồng, Frala nguôi ngoai được đôi chút. Nhưng nó không ra ngoài cùng đàn mà lặng lẽ chui vào chuồng nằm ngủ. Các nhân viên trách nhiệm cũng đặc biệt quan tâm đến dã nhân đực Kibau để tránh gây thêm đau buồn cho nó.

Suốt mấy ngày liền, nhân viên sở thú cũng cảm thấy xót xa vì đã mất đi một con vật thân thương do chính bàn tay họ đã nhiều ngày săn sóc. Nhiều cú điện thoại và nhiều thư chia buồn cũng đã được gởi đến từ những người thương yêu súc vật để chia xẻ sự mất mát này với Ban Giám Đốc và nhân viên của sở thú Taronga.

Qua những sự kiện trình bày trên đây, chúng ta thấy loài vật cũng có tình cảm, trí thông minh, lòng nhân ái và saün sàng xả thân để cứu nguy tánh mạng của những chủng loại khác. Chính vì thế mà Đức Phật đã dạy chúng ta phải ăn chay để trì giới sát hầu tôn quý sinh mạng của tất cả mọi chúng sinh. Vì thế chúng ta nên thương yêu loài vật vì chúng cũng được Tạo Hóa sinh ra và có quyền bình đẳng để hiện diện trên quả địa cầu này. Cũng cùng một lý tưởng cao đẹp đó, các hội Bảo vệ Môi sinh Thiên nhiên và Thương yêu loài vật khắp nơi trên thế giới cổ động mọi người ăn chay, có nơi còn chống báng cả việc sử dụng lông thú vật để may áo nữa.

---o0o---




tải về 0.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương