Muhammad Thiên Sứ Của Allah Là Ai ?


Những hình ảnh về lòng nhân từ của Nabi



tải về 2.91 Mb.
trang4/5
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích2.91 Mb.
#38726
1   2   3   4   5

Những hình ảnh về lòng nhân từ của Nabi e đối với những người không phải Muslim

Hình ảnh thứ nhất:

Bà A’ishah  nói với Nabi e: Có ngày nào đến với Người nặng nề hơn ngày của trận chiến Uhud không? Người nói:

« لَقَدْ لَقِيتُ مِنْ قَوْمِكِ مَا لَقِيتُ ، وَكَانَ أَشَدُّ مَا لَقِيتُ مِنْهُمْ يَوْمَ الْعَقَبَةِ ، إِذْ عَرَضْتُ نَفْسِى عَلَى ابْنِ عَبْدِ يَالِيلَ بْنِ عَبْدِ كُلاَلٍ ، فَلَمْ يُجِبْنِى إِلَى مَا أَرَدْتُ ، فَانْطَلَقْتُ وَأَنَا مَهْمُومٌ عَلَى وَجْهِى ، فَلَمْ أَسْتَفِقْ إِلاَّ وَأَنَا بِقَرْنِ الثَّعَالِبِ ، فَرَفَعْتُ رَأْسِى ، فَإِذَا أَنَا بِسَحَابَةٍ قَدْ أَظَلَّتْنِى ، فَنَظَرْتُ فَإِذَا فِيهَا جِبْرِيلُ فَنَادَانِى فَقَالَ إِنَّ اللهَ قَدْ سَمِعَ قَوْلَ قَوْمِكَ لَكَ وَمَا رَدُّوا عَلَيْكَ ، وَقَدْ بَعَثَ إِلَيْكَ مَلَكَ الْجِبَالِ لِتَأْمُرَهُ بِمَا شِئْتَ فِيهِمْ ، فَنَادَانِى مَلَكُ الْجِبَالِ ، فَسَلَّمَ عَلَىَّ ثُمَّ قَالَ يَا مُحَمَّدُ ، فَقَالَ ذَلِكَ فِيمَا شِئْتَ ، إِنْ شِئْتَ أَنْ أُطْبِقَ عَلَيْهِمِ الأَخْشَبَيْنِ ، فَقَالَ النَّبِىُّ - صلى الله عليه وسلم - بَلْ أَرْجُو أَنْ يُخْرِجَ اللهُ مِنْ أَصْلاَبِهِمْ مَنْ يَعْبُدُ اللهَ وَحْدَهُ لاَ يُشْرِكُ بِهِ شَيْئًا » رواه البخاري.

Quả thật Ta gặp cộng đồng của nàng (ở Ta-if), và đó là ngày nặng nề nhất đối với Ta, khi Ta đến trình bày về bản thân Ta cho Ibnu Yalail bin Abdul Kilal nhưng y đã không tiếp nhận những gì Ta muốn, thế là Ta rời đi với tâm trạng rất buồn, khi Ta đến Qarnul Aththa’a-lib (tên địa danh), Ta ngẫng đầu lên, Ta thấy một đám mây che ngay trên đầu Ta, Ta quan sát nhìn thì thấy Đại Thiên thần Jibril trong đó, y hô gọi Ta và nói: Quả thật Allah đã nghe thấy lời của cộng đồng của Ngươi về Ngươi, họ đã không đáp lại lời kêu gọi của Ngươi, quả thật, Allah đã cử đến cho Ngươi một vị Thần núi để Ngươi có thể ra lệnh cho y xử lý bọn họ theo ý muốn của Ngươi. Thế là, vị Thần núi chào Salam đến Ta, sau đó y nói: Này Muhammad! Ngươi muốn thế nào, nếu muốn Ta sẽ cho hai dãy núi hai bên đè lên bọn họ? Nabi nói: Không, tôi không muốn, tôi hy vọng Allah sẽ hướng dẫn con cháu của họ sau này biết thờ phượng Allah, Đấng duy nhất, không tổ hợp Shirk với Ngài một điều gì.” (Abukhari).

Hình ảnh thứ hai:

Ông Ibnu Umar t thuật lại: Có một số phụ nữ được tìm thấy xác trong một số trận chinh chiến của Thiên sứ của Allah. Thế là Thiên sứ của Allah lên án và ra lệnh nghiêm cấm giết phụ nữ và trẻ em. (Albukhari, Muslim).

Hình ảnh thứ ba:

Ông Anas bin Malik t thuật lại: Có một cậu thiếu niên Do thái làm người hầu cho Nabi e và bị bệnh. Nabi đã đến thăm cậu ta và ngồi sát cạnh đầu của cậu ta, Người nói: “Hãy qui thuận Islam!”. Cậu bé nhìn cha cậu đang ngồi ngay bên cạnh mình? Thế là cha cậu bảo: Hãy vâng lời Abu Qasim (ý nói Nabi e). Vậy là cậu bé qui thuận Islam. Nabi e ra ngoài và nói:

« الْحَمْدُ لِلهِ الَّذِى أَنْقَذَهُ مِنَ النَّارِ » رواه البخاري.

Hình ảnh thứ tư:

Ông Abdullah bin Amru t thuật lại, Thiên sứ của Allah e nói:

« مَنْ قَتَلَ مُعَاهَدًا نَفْساً لَمْ يَجِدْ رِيحَ الْجَنَّةِ، وَإِنَّ رِيحَهَا لَيُوجَدُ مِنْ مَسِيرَةِ أَرْبَعِيْنَ عَاماً » رواه البخاري.

Ai giết một mạng người thuộc diện những người nằm trong hiệp ước hòa bình thì y sẽ không ngửi thấy mùi hương của Thiên Đàng, và quả thật mùi hương của Thiên Đàng tỏa hương đi xa bằng khoảng thời gian bốn mươi năm.” (Albukhari).

Hình ảnh thứ năm:

Ông Baridah bin Al-Husaib t thuật lại rằng khi Nabi e ra lệnh cho một người thống lĩnh quân binh đi chính chiến thì Người thường dặn dò riêng y phải kính sợ Allah và những người đi với y điều tốt lành. Sau đó Người e nói:

« اغْزُوا بِاسْمِ اللهِ فِى سَبِيلِ اللهِ قَاتِلُوا مَنْ كَفَرَ بِاللهِ اغْزُوا وَ لاَ تَغُلُّوا وَلاَ تَغْدِرُوا وَلاَ تَمْثُلُوا وَلاَ تَقْتُلُوا وَلِيدًا وَإِذَا لَقِيتَ عَدُوَّكَ مِنَ الْمُشْرِكِينَ فَادْعُهُمْ إِلَى ثَلاَثِ خِصَالٍ - أَوْ خِلاَلٍ - فَأَيَّتُهُنَّ مَا أَجَابُوكَ فَاقْبَلْ مِنْهُمْ وَكُفَّ عَنْهُمْ ثُمَّ ادْعُهُمْ إِلَى الإِسْلاَمِ فَإِنْ أَجَابُوكَ فَاقْبَلْ مِنْهُمْ وَكُفَّ عَنْهُمْ ثُمَّ ادْعُهُمْ إِلَى التَّحَوُّلِ مِنْ دَارِهِمْ إِلَى دَارِ الْمُهَاجِرِينَ وَأَخْبِرْهُمْ أَنَّهُمْ إِنْ فَعَلُوا ذَلِكَ فَلَهُمْ مَا لِلْمُهَاجِرِينَ وَعَلَيْهِمْ مَا عَلَى الْمُهَاجِرِينَ فَإِنْ أَبَوْا أَنْ يَتَحَوَّلُوا مِنْهَا فَأَخْبِرْهُمْ أَنَّهُمْ يَكُونُونَ كَأَعْرَابِ الْمُسْلِمِينَ يَجْرِى عَلَيْهِمْ حُكْمُ اللهِ الَّذِى يَجْرِى عَلَى الْمُؤْمِنِينَ وَلاَ يَكُونُ لَهُمْ فِى الْغَنِيمَةِ وَالْفَىْءِ شَىْءٌ إِلاَّ أَنْ يُجَاهِدُوا مَعَ الْمُسْلِمِينَ فَإِنْ هُمْ أَبَوْا فَسَلْهُمُ الْجِزْيَةَ فَإِنْ هُمْ أَجَابُوكَ فَاقْبَلْ مِنْهُمْ وَكُفَّ عَنْهُمْ فَإِنْ هُمْ أَبَوْا فَاسْتَعِنْ بِاللهِ وَقَاتِلْهُمْ. وَإِذَا حَاصَرْتَ أَهْلَ حِصْنٍ فَأَرَادُوكَ أَنْ تَجْعَلَ لَهُمْ ذِمَّةَ اللهِ وَذِمَّةَ نَبِيِّهِ فَلاَ تَجْعَلْ لَهُمْ ذِمَّةَ اللهِ وَلاَ ذِمَّةَ نَبِيِّهِ وَلَكِنِ اجْعَلْ لَهُمْ ذِمَّتَكَ وَذِمَّةَ أَصْحَابِكَ فَإِنَّكُمْ أَنْ تُخْفِرُوا ذِمَمَكُمْ وَذِمَمَ أَصْحَابِكُمْ أَهْوَنُ مِنْ أَنْ تُخْفِرُوا ذِمَّةَ اللهِ وَذِمَّةَ رَسُولِهِ. وَإِذَا حَاصَرْتَ أَهْلَ حِصْنٍ فَأَرَادُوكَ أَنْ تُنْزِلَهُمْ عَلَى حُكْمِ اللهِ فَلاَ تُنْزِلْهُمْ عَلَى حُكْمِ اللهِ وَلَكِنْ أَنْزِلْهُمْ عَلَى حُكْمِكَ فَإِنَّكَ لاَ تَدْرِى أَتُصِيبُ حُكْمَ اللهِ فِيهِمْ أَمْ لاَ » رواه مسلم.

Hãy nhân danh Allah mà chinh chiến cho con đường chính nghĩa của Ngài, hãy chiến đấu tiêu diệt những kẻ nghịch lại Allah, hãy chinh chiến và đừng quá mức, đừng bội ước khi có thỏa hiệp, hãy chinh chiến và đừng có hành vi man rợ, hãy chinh chiến và đừng giết trẻ con. Và khi ngươi gặp kẻ thù của ngươi những người đa thần thì ngươi hãy mời gọi họ đến với ba điều. Nếu họ chấp nhận ngươi thì hãy cho họ cơ hội. Sau đó, ngươi hãy mời gọi họ vào Islam. Nếu họ đáp lại thì hãy chấp nhận họ. Sau đó hãy mời gọi họ di cư đến nơi của những người di cư đến (Madinah), và hãy cho họ biết nếu họ đồng ý họ sẽ được hưởng quyền lợi và chịu nghĩa vụ giống như những người Muhajir (những người di cư trước đây), nếu họ từ chối thì hãy cho họ biết rằng sẽ giống như những người Ả rập Muslim khác, họ phải tuân thủ theo luật của Allah giống như những người có đức tin phải tuân thủ, họ sẽ không được chia phần chiến lợi phẩm một thứ gì trừ phi họ cùng tham chiến với những người Muslim. Nếu họ từ chối thì yêu cầu họ trả phần thuế còn nếu họ đồng ý thì hãy chấp nhận họ. Nếu họ không đồng ý thì cầu xin Allah phù hộ và chiến đấu với họ, và khi những người phòng thủ đã bị bao vây và họ muốn thỏa thuận được bảo vệ dưới sự kiểm soát của Allah và Nabi của Ngài thì ngươi chớ cho họ như thế mà hãy để họ thỏa thuận được bảo vệ dưới sự kiểm soát của ngươi và của các vị đồng hành cùng ngươi. Các ngươi bảo vệ những người thỏa hiệp hòa bình này dưới quyền của các ngươi sẽ dễ dàng hơn việc các ngươi bảo vệ họ dưới sự kiểm soát của Allah và Thiên sứ của Ngài. Và khi những người phòng thủ bị bao vây và họ muốn ngươi áp dụng luật của Allah với họ thì các ngươi đừng áp dụng luật của Allah đối với họ mà hãy các ngươi hay tự phán xét họ theo luật của ngươi bởi ngươi không biết là luật của Allah có thật sự có được họ áp dụng hay không.” (Muslim).

Hadith thứ sáu:

Ông Abu Huroiroh t thuật lại: Nabi e đã gởi một số chiến mã đến vùng Najdi, và họ mang về một người đàn ông thuộc tộc Hanifah với tên thường gọi là Thama-mah bin Uthal. Họ đã buộc y ở một góc của Masjid, rồi Nabi e đi ra gặp y nói: “Này Thama-mah, ngươi có điều gì?”. Y nói: Này Muhammad, ta có điều tốt, nếu ngươi giết ta thì ngươi chỉ giết một sinh vật có máu, nếu ngươi cư xử tốt với ta thì ngươi cư xử tốt với một kẻ biết ơn, và nếu ngươi muốn tài sản và của cải thì ngươi cứ yêu cầu tùy thích. Người e bỏ đi cho đến ngày hôm sau, Người e hỏi: “Này Thama-mah, ngươi có điều gì?”. Y nói: Những gì ta đã nói với ngươi, nếu ngươi cư xử tử tế với ta là ngươi cư xử tử tế với một kẻ biết ơn. Thế rồi Người lại bỏ đi cho đến ngày hôm sau, Người lại hỏi: Ngươi có điều gì, Thama-mah? Y nói: Những gì ta đã nói với ngươi. Thế là Người e nói: Các người hãy cởi trói cho Thama-mah! Sau khi được cởi trói, y tiến đến cây chà là gần Masjid, y tắm rồi vào Masjid và nói: Tôi chứng nhận không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Allah và tôi chứng nhận Muhammad là Thiên sứ của Allah. Này Muhammad! Thề bởi Allah, trước kia trên mặt đất này không có gương mặt nào đáng ghét đối với tôi hơn Người nhưng bây giờ quả thật gương mặt của Người đã trở thành gương mặt yêu thương nhất đối với tôi. Thề bởi Allah! Trước đây, không có tôn giáo nào đáng ghét đối với tôi hơn tôn giáo của Người nhưng giờ đây nó đã trở thành tôn giáo yêu thương nhất đối với tôi. Thề bởi Allah! Không một xứ sở nào đáng ghét đối với tôi hơn xứ sở của Người nhưng nó đã trở thành xứ sở yêu thương nhất đối với tôi, và con ngựa của Người mang tôi đến, tối muốn thực hiện Umrah, Người thấy sao? Thế là Thiên sứ của Allah chia vui và ra lệnh cho ông làm Umrah. Rồi khi đến Makkah, một người đã nói với ông: Sabawta! (có nghĩa là thật đáng tội nghiệp cho ông! Đây lời nói mỉa mai, ý nói ông thật hèn hạ vì đã đầu hàng và qui thuận Muhammad). Ông nói: Không, Ta chỉ qui thuận Islam cùng với Muhammad, Thiên sứ của Allah. Thề bởi Allah, kể từ bây giờ sẽ không có một hạt lúa mì nào từ Alyama-mah được mang đến cho các người nữa trừ phi có phép của Nabi.” (Vào thời điểm đó, hầu như tất cả những nguồn lúa mì ở Makkah đều được nhập từ Alyama-mah, và Thama-mah là chủ thương buôn lớn nhất ở đó). (Albukhari, Muslim).

Hình ảnh thứ bảy:

Ông Khalid bin Walid t thuật lại: Tôi đã tham gia chinh chiến cùng với Thiên sứ của Allah e trong trận Khaibar, những người Do thái đến phàn nàn rằng có nhiều người đã đổ xô đến giành lấy lúa thóc và gia súc của họ. Thế là Thiên sứ của Allah e nói:

« أَلاَ لاَ تَحِلُّ أَمْوَالُ الْمُعَاهِدِينَ إِلاَّ بِحَقِّهَا » رواه أبو داود بسند حسن.

Chẳng phải là tài sản và của cái của những người nằm trong sự thỏa hiệp hòa bình là không được phép xâm phạm ngoại trừ để thực hiện điều chân lý.” (Abu Dawood ghi lại với đường dẫn truyền tốt).

Hình ảnh thứ tám:

Ông Sahl bin Sa’ad Assa’idi t thuật lại rằng ông đã nghe Nabi e nói vào ngày Khaibar: “Ta sẽ giao lá cờ chiến cho một người mà dưới bàn tay của y Allah sẽ ban cho sự thắng lợi trong việc chinh phục”. Nghe vậy, các Sahabah đứng dậy, ai nấy cũng đều hy vọng mình sẽ là người được Người e giao cho lá cờ chiến. Thế là Người nói: “Ali đâu?”. Có lời đáp: Y than là đang bị đau mắt. Người e lập tức cho người gọi Ali đến và thổi nhẹ vào mắt của ông, tức khắc đôi mắt của ông khỏi hẳn hoàn toàn như chưa có chuyện gì xảy ra, và ông nói: Chúng tôi sẽ chiến đấu cho tới khi nào họ như chúng ta! Người e nói:

« عَلَى رِسْلِكَ حَتَّى تَنْزِلَ بِسَاحَتِهِمْ ، ثُمَّ ادْعُهُمْ إِلَى الإِسْلاَمِ ، وَأَخْبِرْهُمْ بِمَا يَجِبُ عَلَيْهِمْ ، فَوَاللهِ لأَنْ يُهْدَى بِكَ رَجُلٌ وَاحِدٌ خَيْرٌ لَكَ مِنْ حُمْرِ النَّعَمِ » رواه البخاري و مسلم.

Ngươi hãy ra chiến trường, hãy mời gọi họ đến với Islam, và cho họ biết những gì mà họ bắt buộc phải thực hiện, và Ta thề bởi Allah rằng nếu Allah hướng dẫn một người bởi ngươi thì điều đó tốt hơn việc ngưoi có được một con lạc đà quý.” (Albukhari, Muslim).


Hình ảnh thứ chín:

Ông Abu Huroiroh t thuật lại rằng ông đã nói: Thưa Thiên sứ của Allah! Người hãy cầu xin điều dữ giáng xuống bọn đa thần đi. Người e nói:

« إِنِّى لَمْ أُبْعَثْ لَعَّانًا وَإِنَّمَا بُعِثْتُ رَحْمَةً » رواه مسلم.

Quả thật, Ta không được cử đến để nguyền rủa mà Ta được cử đến vì lòng nhân từ.” (Muslim).

Hình ảnh thứ mười:

Ông Abu Huroiroh t thuật lại: Quả thật, mẹ tôi trước kia là một người phụ nữ thờ đa thần và tôi đã từng kêu gọi bà quy thuận Islam nhưng bà đã từ chối, và có một ngày tôi kêu gọi bà nhưng bà đã có lời không hay đến Thiên sứ của Allah e. Thế là tôi đã đến gặp Thiên sứ của Allah e, tôi khóc và nói: Thưa Thiên sứ của Allah e! Quả thật, tôi đã kêu gọi mẹ tôi quy thuận Islam nhưng bà đã từ chối và hôm nay khi tôi kêu gọi bà thì bà lại có lời không hay đến Người, xin Người hãy cầu xin Allah hướng dẫn cho mẹ của Abu Huroiroh với. Vậy là Thiên sứ của Allah e nói:

« اللَّهُمَّ اهْدِ أُمَّ أَبِى هُرَيْرَةَ »

Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy hướng dẫn mẹ của Abu Huroiroh!

Nghe xong, tôi vội chạy nhanh về để báo tin vui cho bà về lời cầu xin của Thiên sứ của Allah. Khi tôi đến thì cửa không cài then, tôi nghe tiếng khuấy nước và tôi nghe tiếng bước chân và mẹ tôi lên tiếng: Này Abu Huroiroh, chắc là con phải không, rồi bà mở cửa, bà đã mặc chiếc áo dài phủ toàn thân và phủ khăn trùm đầu, bà nói: Mẹ chứng nhận không có Thượng Đế đích thực nào khác ngoài Allah và Muhammad là người bề tôi và Thiên sứ của Ngài. Thế là tôi chạy trở lại gặp Thiên sứ của Allah e, tôi khóc vì quá vui sướng, tôi khóc giống như tôi gặp phải chuyện buồn, tôi nói: Thưa Thiên sứ của Allah e! Xin báo tin vui, quả thật Allah đã đáp lại lời cầu xin của Người, quả thật Ngài đã hướng dẫn mẹ của Abu Huroiroh. Tôi nói: Thưa Thiên sứ của Allah e! Xin Người hãy cầu xin Allah làm cho tôi và mẹ của tôi trở thành người được tất cả những bề tôi có đức tin của Ngài yêu thương và họ là những người yêu thương đối với chúng tôi. Thiên sứ của Allah e nói:

« اللَّهُمَّ حَبِّبْ عُبَيْدَكَ هَذَا وَأُمَّهُ إِلَى عِبَادِكَ الْمُؤْمِنِينَ وَحَبِّبْهُمْ إِلَيْهِمَا »

Lạy Thượng Đế, xin Ngài làm cho người bề tôi nhỏ bé này của Ngài và mẹ của nó thành người được những bề tồi có đức tin của Ngài thương yêu và làm cho những bề tôi có đức tin của Ngài thành những người được hai người họ yêu thương”. Do đó, không một tạo vật có đức tin nào nghe đến tôi hay nhìn thấy tôi và mẹ của tôi mà không yêu thương tôi và mẹ tôi. (Muslim).

Hình ảnh thứ mười một:

Ông Abu Huroiroh t thuật lại: Tafil bin Amru Addawsi cùng với các bạn hữu của ông đến gặp Nabi e và nói: Thưa Thiên sứ của Allah! Những người thuộc bộ tộc Daws sẽ bị hủy diệt (vì không theo Islam), xin Người hãy cầu xin Allah cho họ. Người nói:

« اللَّهُمَّ اهْدِ دَوْسًا وَائْتِ بِهِمْ » رواه البخاري ومسلم.

Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy hướng dẫn bộ tộc Daws và xin Ngài đưa họ đến đây.” (Albukhari, Muslim).

Hình ảnh thứ mười hai:

Ông Jabi bin Abdullah t thuật lại, các Sahabah nói: Thưa Thiên sứ của Allah! Bộ tộc Saqif đang chiến đấu, xin Ngài hãy cầu xin cho họ. Người e nói: “Lạy Thượng Đế, xin Ngài hãy hướng dẫn bộ tộc Saqif!”. (Tirmizhi ghi lại với đường dẫn truyền xác thực).

d / f
Những hành động của Nabi Muhammad e là gì? Yusuf Estes.

Ngày nay, hầu như mọi người, những ai sống trên bề mặt trái đất này đều bàn tán về Nabi Muhammad e. Mọi người đều muốn biết “Đích thực ông ta là ai?”, “Giáo lý mà ông truyền dạy là gì?”, “Vì sao lại một số người yêu mến ông ta còn một số khác thì ghét ông?”, “Ông có phải là người muốn đạt được danh vị?”, “Ông có phải là người thánh thiện?”, “Ông thực sự là vị Nabi, vị Sứ giả được Thượng Đế Allah cử phải đến?”, “Sự thật về người đàn ông Muhammad này thế nào?” ...

Làm thế nào chúng ta có thể khám phá ra sự thật với cam kết rằng chúng ta sẽ luôn trung thực trong đánh giá và nhận xét của mình?

Chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách liệt kê ra những bằng chứng, những sự kiện lịch sử được truyền tải đến chúng ta bởi hàng ngàn người, và trong số họ có người đã từng biết rõ về cá nhân của Người e cùng với những gì mà chúng ta sẽ liệt kê ra đây đều được dựa trên các cuốn sách và bản thảo viết tay cũng như các tư liệu từ những người đã tận mắt chứng kiến ​​và tất cả đều được lưu giữ ở dạng nguyên thủy không có sự thay đổi và bóp méo từ phía những người Muslim và những người không phải Muslim.

Người tên là Muhammad bin Abdullah bin Abul-Muttalib, sinh năm 570 sau công nguyên tại Makkah (Mecca) giờ là một thành phố thuộc vương quốc Ả rập Xê-út, và mất năm 633 sau công nguyên tại Yathrib, nay là thành phố Madinah Munawwarah cũng thuộc vương quốc Ả rập Xê-út.



A. Các tên gọi của Người e: Ông nội của Người đã đặt tên cho Người với cái tên Muhammad khi vừa trào đời, nó có nghĩa là (người đáng được khen ngợi, người rất vinh dự). Sau đó, Người được mọi người đặt cho là Siddiq (người luôn trung thực) vì qua cung cách cư xử và quan hệ của Người với mọi người, mọi người vào thời của Người ai nấy cũng đều biết sự chân thật và ngay thẳng của Người, Người chưa bao giờ từng nói ngoài trừ là sự thật. Mọi người còn đặt cho Người với cái tên Amin (người ngay thẳng và đáng tin cậy) vì Người luôn giữ lời hứa và chưa bao giờ bội tín. Và khi các bộ tộc giao tranh với nhau thì họ thường ủy thác tài sản cho Người trong suốt trận đấu, họ ủy thác tài sản cho người ngay cả khi họ chiến đấu với một số người thuộc bộ lộc của Người. Và đó là điều mà họ biết về Người rằng Người là người ngay thẳng và vô cùng đáng tin. Tất cả nhưng tên gọi mà Người được mọi người đặt cho đều nói lên nhân cách và phẩm chất tốt đẹp của Người, sự trung thực và uy tín một cách toàn vẹn. Và Người luôn được biết đến là một người rất nhiệt tình trong việc hòa giải các xích mích cũng như các tranh chấp giữa các bộ tộc cũng như giữa những người thân tộc. Và quả thật, Người luôn kêu gọi những tín đồ của Người phải tôn trọng tình thân tộc và luôn duy trì kết chặt tình thâm.

Và điều này phù hợp với lời tiên tri được đề cập trong Injil (Kinh tân ước) ở chương 14, 16 về sự xuất hiện của một vị Nabi với (thần khí đích thực) hoặc (niềm an ủi) hoặc (một sự dâng hiến).



B. Và Người e thuộc dòng dõi Nabi Ibrahim (Abraham) u tính theo dòng hậu duệ của Nabi Isma-il (Ishmael) u là bộ tộc Quraish, một bộ tộc đã giành quyền quản lý và kiểm soát Makkah lúc bấy giờ. Và mối quan hệ huyết thống của Muhammad e với Nabi Ibrahim, điểm này đã chỉ ra một sự thật về lời tiên tri trong Kinh cựu ước cũ (Tawrah) trong Đệ Nhị Luật (chương 18: 15) về sự xuất hiện một vị Nabi giống như Musa (Moses) u từ anh em của Người.

C. Và quả thật, Người e đã duy trì và giữ gìn các lời dạy của Thượng Đế Allah cũng giống như các vị ông cha Nabi của Người trước đây. Và những gì được Allah mặc khải xuống cho Muhammad e từ Qur’an qua trung gian Đại Thiên thần Jibril đã tiết lội điều đó:

﴿ قُلۡ تَعَالَوۡاْ أَتۡلُ مَا حَرَّمَ رَبُّكُمۡ عَلَيۡكُمۡۖ أَلَّا تُشۡرِكُواْ بِهِۦ شَيۡ‍ٔٗاۖ وَبِٱلۡوَٰلِدَيۡنِ إِحۡسَٰنٗاۖ وَلَا تَقۡتُلُوٓاْ أَوۡلَٰدَكُم مِّنۡ إِمۡلَٰقٖ نَّحۡنُ نَرۡزُقُكُمۡ وَإِيَّاهُمۡۖ وَلَا تَقۡرَبُواْ ٱلۡفَوَٰحِشَ مَا ظَهَرَ مِنۡهَا وَمَا بَطَنَۖ وَلَا تَقۡتُلُواْ ٱلنَّفۡسَ ٱلَّتِي حَرَّمَ ٱللَّهُ إِلَّا بِٱلۡحَقِّۚ ذَٰلِكُمۡ وَصَّىٰكُم بِهِۦ لَعَلَّكُمۡ تَعۡقِلُونَ ١٥١ ﴾ [سورة الأنعام : 151]

{Hãy bảo họ (Muhammad!): Đến đây, Ta sẽ đọc cho các người điều lệnh mà Thượng Đế của các ngườ đã cấm các người rằng chớ đừng bao giờ làm Shirk với Allah một điều gì, hãy ăn ở tử tế với cha mẹ của các người, chớ vì sợ nghèo mà các người giết con cái của của các người bởi TA mới là Đấng cung dưỡng các người và con cái của các người. Và các người chớ đến gần những điều sàm bậy một cách công khai hay kín đáo, và chớ giết sinh mạng mà Allah đã nghiêm cấm trừ phi vì lý do chính đáng. Đó là điều chỉ thị cho các người mong rằng các người biết suy nghĩ. } (Chương 6 – Al-An’am, câu 151).



D. Muhammad e đã sống trọn đời trong thờ phượng một mình Allah duy nhất, không tổ hợp bất cứ một thần linh nào khác, và đây cũng là điều được dạy trong các giáo lý của Kinh cựu ước cũ (Exodus )2( : 20, Đệ Nhị Luật: 5) và trong Tân ước cũng vậy (Mac-cô(3) ở chương 12, câu 2).

E. Và quả thật, Muhammad e đã bảo các tín đồ của Người phải tuân lệnh Allah, Đấng Tối Cao và phải thực hành theo giáo lý của Ngài như những gì Đại Thiên thần Jibril mang lời mặc khải xuống từ Allah:

﴿ إِنَّ ٱللَّهَ يَأۡمُرُ بِٱلۡعَدۡلِ وَٱلۡإِحۡسَٰنِ وَإِيتَآيِٕ ذِي ٱلۡقُرۡبَىٰ وَيَنۡهَىٰ عَنِ ٱلۡفَحۡشَآءِ وَٱلۡمُنكَرِ وَٱلۡبَغۡيِۚ يَعِظُكُمۡ لَعَلَّكُمۡ تَذَكَّرُونَ ٩٠ ﴾ (سورة النحل : 90 )

{Quả thật, Allah ra lệnh phải công bằng và liêm chính, phải làm điều thiện tốt, bố thí giúp đỡ bà con ruột thịt, và Ngài nghiêm cấm làm điều xấu và ác đức, cấm làm điều tội lỗi, nghịch lý và bất công. Ngài chỉ bảo các ngươi mong rằng các ngươi luôn biết lưu ý đến phúc và tội.} (Chương 16 – Annaml, câu 90).



F. Muhammad e chưa từng thờ phượng bụt tượng hay các thần linh qua những biểu tượng, bức tượng bằng đá do con người nắn tạo ra, một thói quen rất phổ biến trong đời sống của bộ tộc của người lúc bấy giờ. Quả thật, Người e đã nghiêm cấm các tín đồ của Người thờ phượng bất cứ điều gì ngoài Allah, Thượng Đế duy nhất của vũ trụ, Thượng Đế của Adam, Ibrahim (Abraham), Musa (Moses), và tất cả các vị Nabi (cầu xin Allah ban bằng an và phúc lành cho họ), như Allah đã phán:

﴿ وَمَا تَفَرَّقَ ٱلَّذِينَ أُوتُواْ ٱلۡكِتَٰبَ إِلَّا مِنۢ بَعۡدِ مَا جَآءَتۡهُمُ ٱلۡبَيِّنَةُ ٤ وَمَآ أُمِرُوٓاْ إِلَّا لِيَعۡبُدُواْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ حُنَفَآءَ وَيُقِيمُواْ ٱلصَّلَوٰةَ وَيُؤۡتُواْ ٱلزَّكَوٰةَۚ وَذَٰلِكَ دِينُ ٱلۡقَيِّمَةِ ٥ ﴾ [سورة البينة: 4، 5]

{Và những ai đã được ban Kinh sách chỉ chia rẽ nhau sau khi họ đã gặp minh chứng (Nabi Muhammad). Và họ được lệnh chỉ phải thờ phụng riêng Allah, triệt để thần phục Ngài một cách chính thức và dâng lễ nguyện Salah một cách chu đáo và đóng Zakah và đó là tôn giáo đúng đắn.} (Chương 98 – Al-Bayyinah, câu 4, 5).

Muhammad e xem thường việc thờ phượng bụt tượng và những thần linh mà chính con người tự tạo ra giống như Người ghét những tín ngưỡng ngông cuồng dẫn đến sự thờ phượng như thế này.

G. Quả thật, Muhammad e đã luôn vĩ đại hóa và tôn vinh tên của Allah tối đa có thể và Người không lợi dụng Ngài để đề cao hay thánh hóa bản thân, mà trái lại, Người nghiêm cấm các tín đồ của Người tôn vinh bản thân Người và bắt họ phải dùng lời xưng hô rằng Người là người bề tôi của Allah.

H. Quả thật Muhammad e đã thực hiện và thi hành sự thờ phượng và lễ nghi đúng mực được truyền lại từ Ibrahim và Isma-il (cầu xin Allah ban bằng an và phúc lành cho hai người họ). Sau đây là các lời kinh Qur’an cho chúng ta biết về điều đó:

﴿ وَإِذِ ٱبۡتَلَىٰٓ إِبۡرَٰهِ‍ۧمَ رَبُّهُۥ بِكَلِمَٰتٖ فَأَتَمَّهُنَّۖ قَالَ إِنِّي جَاعِلُكَ لِلنَّاسِ إِمَامٗاۖ قَالَ وَمِن ذُرِّيَّتِيۖ قَالَ لَا يَنَالُ عَهۡدِي ٱلظَّٰلِمِينَ ١٢٤ وَإِذۡ جَعَلۡنَا ٱلۡبَيۡتَ مَثَابَةٗ لِّلنَّاسِ وَأَمۡنٗا وَٱتَّخِذُواْ مِن مَّقَامِ إِبۡرَٰهِ‍ۧمَ مُصَلّٗىۖ وَعَهِدۡنَآ إِلَىٰٓ إِبۡرَٰهِ‍ۧمَ وَإِسۡمَٰعِيلَ أَن طَهِّرَا بَيۡتِيَ لِلطَّآئِفِينَ وَٱلۡعَٰكِفِينَ وَٱلرُّكَّعِ ٱلسُّجُودِ ١٢٥ وَإِذۡ قَالَ إِبۡرَٰهِ‍ۧمُ رَبِّ ٱجۡعَلۡ هَٰذَا بَلَدًا ءَامِنٗا وَٱرۡزُقۡ أَهۡلَهُۥ مِنَ ٱلثَّمَرَٰتِ مَنۡ ءَامَنَ مِنۡهُم بِٱللَّهِ وَٱلۡيَوۡمِ ٱلۡأٓخِرِۚ قَالَ وَمَن كَفَرَ فَأُمَتِّعُهُۥ قَلِيلٗا ثُمَّ أَضۡطَرُّهُۥٓ إِلَىٰ عَذَابِ ٱلنَّارِۖ وَبِئۡسَ ٱلۡمَصِيرُ ١٢٦ وَإِذۡ يَرۡفَعُ إِبۡرَٰهِ‍ۧمُ ٱلۡقَوَاعِدَ مِنَ ٱلۡبَيۡتِ وَإِسۡمَٰعِيلُ رَبَّنَا تَقَبَّلۡ مِنَّآۖ إِنَّكَ أَنتَ ٱلسَّمِيعُ ٱلۡعَلِيمُ ١٢٧ رَبَّنَا وَٱجۡعَلۡنَا مُسۡلِمَيۡنِ لَكَ وَمِن ذُرِّيَّتِنَآ أُمَّةٗ مُّسۡلِمَةٗ لَّكَ وَأَرِنَا مَنَاسِكَنَا وَتُبۡ عَلَيۡنَآۖ إِنَّكَ أَنتَ ٱلتَّوَّابُ ٱلرَّحِيمُ ١٢٨ رَبَّنَا وَٱبۡعَثۡ فِيهِمۡ رَسُولٗا مِّنۡهُمۡ يَتۡلُواْ عَلَيۡهِمۡ ءَايَٰتِكَ وَيُعَلِّمُهُمُ ٱلۡكِتَٰبَ وَٱلۡحِكۡمَةَ وَيُزَكِّيهِمۡۖ إِنَّكَ أَنتَ ٱلۡعَزِيزُ ٱلۡحَكِيمُ ١٢٩ وَمَن يَرۡغَبُ عَن مِّلَّةِ إِبۡرَٰهِ‍ۧمَ إِلَّا مَن سَفِهَ نَفۡسَهُۥۚ وَلَقَدِ ٱصۡطَفَيۡنَٰهُ فِي ٱلدُّنۡيَاۖ وَإِنَّهُۥ فِي ٱلۡأٓخِرَةِ لَمِنَ ٱلصَّٰلِحِينَ ١٣٠ إِذۡ قَالَ لَهُۥ رَبُّهُۥٓ أَسۡلِمۡۖ قَالَ أَسۡلَمۡتُ لِرَبِّ ٱلۡعَٰلَمِينَ ١٣١ وَوَصَّىٰ بِهَآ إِبۡرَٰهِ‍ۧمُ بَنِيهِ وَيَعۡقُوبُ يَٰبَنِيَّ إِنَّ ٱللَّهَ ٱصۡطَفَىٰ لَكُمُ ٱلدِّينَ فَلَا تَمُوتُنَّ إِلَّا وَأَنتُم مُّسۡلِمُونَ ١٣٢ ﴾ [سورة البقرة: 124 - 132]

{Và hãy nhớ lại khi Ibrahim đã được Thượng Đế của Y thử thách bằng những Mệnh lệnh mà Y đã hoàn tất mỹ mãn. TA đã phán: “Quả thật TA sẽ cử ngươi làm một nhà lãnh đạo cho nhân loại”. (Ibrahim) thưa: “Và từ con cháu của bề tôi nữa”. TA (Allah) đáp: “Lời hứa của TA không can hệ gì đến những kẻ làm điều sai quấy”.



Và hãy nhớ lại khi TA (Allah) đã chỉ định Ngôi đền (Ka’bah) làm một nơi an toàn cho thiên hạ tới lui thăm viếng và (phán cho khách viếng): “Hãy lấy chỗ đứng của Ibrahim làm địa điểm dâng lễ nguyện Salah”. Và TA bắt Ibrahim và Isma-il cam kết giữ Ngôi đến của TA cho trong sạch (để khách đi thập phương đến thăm và) đi vòng quanh Nó và cho những người lánh trần và cho những người đến cúi đầu thần phục và cho những người đến phủ phục.

Và hãy nhớ lại khi Ibrahim cầu nguyện thưa: “ Lạy Thượng Đế của bề tôi! Xin Ngài làm cho thành phố (Makkah) này an toàn và nuôi sống dân cư của nó với hoa quả, nuôi người nào trong bọn chúng tin tưởng nơi Allah và Ngày phán xứ cuối cùng”. (Allah) phán: “Và ai không có đức tin thì TA sẽ cho y hưởng thụ ngắn ngủi rồi TA sẽ lôi đầu y đến chỗ trừng phạt của Hỏa ngục; và đó là một nơi đến cuôi cùng tồi tệ nhất”.

Và hãy lại khi Ibrahim và Isma-il xây móng của Ngôi đền và cầu nguyện thưa: “Lạy Thượng Đế của chúng con! Xin Ngài chấp nhận việc làm này từ chúng tôi, bởi vì Ngài là Đấng Hằng nghe và Hằng biết. Lạy Thượng Đế của chúng con! Xin Ngài hãy làm cho chúng con thành hai người Muslim thần phục Ngài và xin Ngài hãy tạo ra một cộng động Islam thần phục Ngài từ con cháu của chúng con và chỉ cho chúng con những nghi lễ bắt buộc và lượng thứ cho chúng con bởi vì chắc chắn Ngài là Đấng Hằng Lượng thứ, Đấng Rất mực Khoan dung. Lạy Thượng Đế của chúng con! Xin Ngài hãy dựng lên trong chúng (con cháu của chúng con) một Sứ giả (xuất thân) từ chúng. Y sẽ đọc các Lời Mặc khải của Ngài cho chúng và sẽ dạy chúng Kinh sách và Lẽ Đúng đắn Khôn ngoan; và Y sẽ thanh sạch hóa chúng. Quả thật, Ngài là Đấng Toàn năng, Đấng Rất mực Sáng suốt.”

Và chỉ ai tự lừa dối bản thân mình mới bỏ tín ngưỡng của Ibrahim bởi vì TA đã chọn Y làm một nhà lãnh đạo ở trân gian này; và ở Đời sau chăc chắn Y sẽ ở trong hàng ngũ những người lương thiện.

Và hãy nhớ lại khi Thượng Đế của Y (Ibrahim) đã phán bảo Y rằng hãy thần phục TA thì Y đã nói: Bề tôi xin hạ mình thần phục Thượng Đế của muôn loài. Và Ibrahim đã truyền bảo điều đó cho các con của Y, và Yaqub (Jacob) ( cũng dặn dò các con y như thế, Y nói: Này các con! Quả thật, Allah đã chọn cho các con một tôn giáo, bởi thế, các con hãy đừng chết trừ phi các con là những người Muslim (thần phục Allah).} (Chương 2 – Albaqarah, câu 124 – 132).

I. Quả thật, Muhammad e đã hoàn tất các nghi lễ thờ phượng giống như các vị Nabi trước Người và đó là Sujud (cúi đầu quỳ lạy mọp xuống đất) trong lúc dâng lễ nguyện Salah. Quả thật, Người đã hướng mặt đến Ngôi đền thiêng Al-Maqdis – Jerusalem trong thờ phượng và bảo các tín đồ của Người đứng giống như vậy cho đến khi Allah cử Đại Thiên thần Jibril lời mặc khải thay đổi hướng Qibah được nói trong Qur’an.

K. Quả thật, Muhammad e đã thiếp lập quyền hạn và trách nhiệm cho tất cả những thành viên trong gia đình, đặc biệt Người qui định quyền hạn của cha mẹ, quyền lợi của phụ nữ cho con bú, quyền lợi các trẻ mồ côi và những người vợ. Và như đã được biết từ trong Qur’an rằng Muhammad e đã ra lệnh bảo các tín đồ phải tuyệt đối kính trọng cha mẹ, ngay cả chỉ một tiếng thở dài “Oof” đối với cha mẹ cũng không được phép:

﴿ وَقَضَىٰ رَبُّكَ أَلَّا تَعۡبُدُوٓاْ إِلَّآ إِيَّاهُ وَبِٱلۡوَٰلِدَيۡنِ إِحۡسَٰنًاۚ إِمَّا يَبۡلُغَنَّ عِندَكَ ٱلۡكِبَرَ أَحَدُهُمَآ أَوۡ كِلَاهُمَا فَلَا تَقُل لَّهُمَآ أُفّٖ وَلَا تَنۡهَرۡهُمَا وَقُل لَّهُمَا قَوۡلٗا كَرِيمٗا ٢٣﴾ [سورة الإسراء: 23]

{Và Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) đã sắc lệnh rằng các ngươi chỉ được thờ phượng một mình Allah duy nhất và phải ăn ở tử tế với cha mẹ. Nếu một trong hai người họ hoặc cả hai sống với Ngươi trong tuổi già thì chớ đừng nói tiếng uf (tiếng thở dài vô lễ) với họ, và chớ buông lời xúc phạm hai người họ, mà phải ăn nói với hai người họ lời lẽ tôn kính.} (Chương 17 – Al-Isra’, câu 23).

L. Muhammad e luôn ủng hộ và bảo vệ quyền lợi của trẻ mồ côi và trẻ sơ sinh. Quả thật, Người e bảo các tín đồ phải ủng hộ giúp đỡ trẻ mồ côi và nuôi ăn những người nghèo để được Allah thu nhận vào Thiên Đàng như Allah đã phán:

﴿ ٱلَّذِينَ يُنفِقُونَ أَمۡوَٰلَهُم بِٱلَّيۡلِ وَٱلنَّهَارِ سِرّٗا وَعَلَانِيَةٗ فَلَهُمۡ أَجۡرُهُمۡ عِندَ رَبِّهِمۡ وَلَا خَوۡفٌ عَلَيۡهِمۡ وَلَا هُمۡ يَحۡزَنُونَ ٢٧٤ ﴾ [البقرة: 274].

{Những ai chi dùng tài sản của họ (vào việc từ thiện) cả đêm lẫn ngày một cách kín đáo hay công khai, sẽ được nhận phần thưởng nơi Thượng Đế của họ và họ sẽ không phải lo sợ và buồn phiền.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 274).

Và Người cũng nghiêm cấm hành động man rợ phổ biến của người Ả rập, đó là họ giết những bé gái mới sinh vì coi đó là một sự không may mắn và khổ nhục. Qur’an đã ám chỉ điều này trong câu kinh sau:

﴿ وَإِذَا ٱلۡمَوۡءُۥدَةُ سُئِلَتۡ ٨ بِأَيِّ ذَنۢبٖ قُتِلَتۡ ٩ ﴾ (سورة التكوير: 8، 9)

{Và khi các đứa bé gái bị chôn sống sẽ được tra hỏi vì tội gì mà chúng phải bị giết?} (Chương 81 – Attakwir, câu 8, 9).



M. Và quả thật, Muhammad e đã ra lệnh bảo người đàn ông không được kế thừa tài sản của phụ nữ một cách cưỡng ép và không được cưới phụ nữ trừ phi họ đồng ý và chấp thuận, không được hành hạ giam cầm họ để họ trả lại tiền cưới.

﴿ يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ لَا يَحِلُّ لَكُمۡ أَن تَرِثُواْ ٱلنِّسَآءَ كَرۡهٗاۖ وَلَا تَعۡضُلُوهُنَّ لِتَذۡهَبُواْ بِبَعۡضِ مَآ ءَاتَيۡتُمُوهُنَّ إِلَّآ أَن يَأۡتِينَ بِفَٰحِشَةٖ مُّبَيِّنَةٖۚ وَعَاشِرُوهُنَّ بِٱلۡمَعۡرُوفِۚ فَإِن كَرِهۡتُمُوهُنَّ فَعَسَىٰٓ أَن تَكۡرَهُواْ شَيۡ‍ٔٗا وَيَجۡعَلَ ٱللَّهُ فِيهِ خَيۡرٗا كَثِيرٗا ١٩﴾ [سورة النساء: 19]

{Hỡi những ai có đức tin! Các ngươi không được phép cưỡng bức vợ để thừa hưởng gia tài của họ, cũng không được giam (hành hạ) họ để lấy lại một phần nào tiền cưới mà các ngươi đã tặng họ ngoại trừ trường hợp họ công khai pham tội ngoại tình. Các ngươi hãy sống tử tế với họ bởi vì nếu như các ngươi ghét bỏ họ thì có lẽ các ngươi ghét một sinh vật mà Allah đã ban cho nó nhiều điều tốt lành.} (Chương 4 – Annisa’, câu 19).

Người e cũng nghiêm cấm đàn ông đánh đập và hành hạ vợ. Các bà vợ của Người nói rằng Người chưa bao giờ đánh họ dù chỉ một lần. Và Người cũng không hề có một mối quan hệ nam nữ nào ngoài hôn nhân cả mặc dù thời đó việc một người đàn ông quan hệ trai gái bên ngoài là điều rất bình thường và phổ biến. Quả thật, Người e chỉ có mối quan hệ vơi phụ nữ trong khuôn khổ hôn nhân hợp pháp của thời đó tức được chính quyền thời đó công nhận giống như mối quan hệ của Người với bà A’ishah cũng là mối quan hệ hôn nhân, chỉ có điều Người chưa ăn ở với bà trong lần đầu tiên mà Abu Bakr đã hứa gả cho Người mà mãi đến một thời gian sau đó khi bà A’ishah đã có thể đưa ra quyết định. Và quả thật, ngay cả bản thân của A’ishah cũng tự miêu tả về mối quan hệ của bà với Nabi e một cách chi tiết cho thấy giữa họ là một tình yêu và quý trọng lẫn nhau. Và bà A’ishah t được xem là một đại học giả trong các đại học giả của Islam, và bà đã sống trọn đời là một người vợ của Nabi Muhammad e và không hề nghĩ đến một người đàn ông nào khác và bà không bao giờ có bất cứ hành động tiêu cực nào đối với Người e cả.

N. Muhammad e bảo đàn ông phải chu cấp và nuôi đưỡng cho phụ nữ, phải bảo vệ họ dù đó là mẹ, hoặc chị (em) gái, hoặc vợ hoặc các con gái, hoặc các con gái của người khác, dù là người Muslim hay không phải Muslim.

﴿ ٱلرِّجَالُ قَوَّٰمُونَ عَلَى ٱلنِّسَآءِ بِمَا فَضَّلَ ٱللَّهُ بَعۡضَهُمۡ عَلَىٰ بَعۡضٖ وَبِمَآ أَنفَقُواْ مِنۡ أَمۡوَٰلِهِمۡۚ فَٱلصَّٰلِحَٰتُ قَٰنِتَٰتٌ حَٰفِظَٰتٞ لِّلۡغَيۡبِ بِمَا حَفِظَ ٱللَّهُۚ وَٱلَّٰتِي تَخَافُونَ نُشُوزَهُنَّ فَعِظُوهُنَّ وَٱهۡجُرُوهُنَّ فِي ٱلۡمَضَاجِعِ وَٱضۡرِبُوهُنَّۖ فَإِنۡ أَطَعۡنَكُمۡ فَلَا تَبۡغُواْ عَلَيۡهِنَّ سَبِيلًاۗ إِنَّ ٱللَّهَ كَانَ عَلِيّٗا كَبِيرٗا ٣٤ ﴾ [سورة النساء: 34]

{Người đàn ông là trụ cột (của gia đình) trên đàn bà bởi vì Allah ban cho người này sức lực hơn người kia và bởi vì họ (đàn ông) phải chi dung tài sản của họ vào việc cấp dưỡng gia đinh. Do đó, người đàn bà đức hạnh nên phục tùng chồng và trông cói nhà cửa trong lúc chồng vắng mặt với sự giúp đỡ và trông chừng của Allah. Còn đối với các bà vợ mà các ngươi sợ họ thất tiết và bướng bỉnh, trước hết hãy cảnh cáo họ, rồi từ chối ăn nằm với họ, rồi cuối cùng mói đánh họ (nhẹ tay). Nhưng nếu họ chịu nghe theo các ngươi thì chớ kiếm chuyện với họ bởi vì Allah Rất mực Tối cao và Vĩ đại.} (Chương 2 – Annisa’, câu 34).



O. Muhammad e nghiêm cấm giết con cái vì sợ nghèo đói giống như giết một sinh mạng vô tội:

﴿ قُلۡ تَعَالَوۡاْ أَتۡلُ مَا حَرَّمَ رَبُّكُمۡ عَلَيۡكُمۡۖ أَلَّا تُشۡرِكُواْ بِهِۦ شَيۡ‍ٔٗاۖ وَبِٱلۡوَٰلِدَيۡنِ إِحۡسَٰنٗاۖ وَلَا تَقۡتُلُوٓاْ أَوۡلَٰدَكُم مِّنۡ إِمۡلَٰقٖ نَّحۡنُ نَرۡزُقُكُمۡ وَإِيَّاهُمۡۖ وَلَا تَقۡرَبُواْ ٱلۡفَوَٰحِشَ مَا ظَهَرَ مِنۡهَا وَمَا بَطَنَۖ وَلَا تَقۡتُلُواْ ٱلنَّفۡسَ ٱلَّتِي حَرَّمَ ٱللَّهُ إِلَّا بِٱلۡحَقِّۚ ذَٰلِكُمۡ وَصَّىٰكُم بِهِۦ لَعَلَّكُمۡ تَعۡقِلُونَ ١٥١ ﴾ [سورة الأنعام : 151]

{Hãy bảo họ (Muhammad!): Đến đây, Ta sẽ đọc cho các người điều lệnh mà Thượng Đế của các ngườ đã cấm các người rằng chớ đừng bao giờ làm Shirk với Allah một điều gì, hãy ăn ở tử tế với cha mẹ của các người, chớ vì sợ nghèo mà các người giết con cái của của các người bởi TA mới là Đấng cung dưỡng các người và con cái của các người. Và các người chớ đến gần những điều sàm bậy một cách công khai hay kín đáo, và chớ giết sinh mạng mà Allah đã nghiêm cấm trừ phi vì lý do chính đáng. Đó là điều chỉ thị cho các người mong rằng các người biết suy nghĩ. } (Chương 6 – Al-An’am, câu 151).



P. Muhammad e không bao giờ đến gần hành vi Zina (quan hệ nam nữ ngoài hôn nhân) và Người bảo các các tín đồ của Người chỉ được có mối quan hệ với phụ nữ qua hôn nhân.

﴿ ٱلشَّيۡطَٰنُ يَعِدُكُمُ ٱلۡفَقۡرَ وَيَأۡمُرُكُم بِٱلۡفَحۡشَآءِۖ وَٱللَّهُ يَعِدُكُم مَّغۡفِرَةٗ مِّنۡهُ وَفَضۡلٗاۗ وَٱللَّهُ وَٰسِعٌ عَلِيمٞ ٢٦٨ ﴾ [سورة البقرة: 268]

{Shaytan hù dọa làm cho các ngươi trở thành nghèo khó và bắt các ngươi làm điều thô bỉ (quan hệ nam nữ bừa bãi ngoài hôn nhân) trong lúc Allah hứa tha thứ và làm cho các ngươi phát đạt với thiên lộc của Ngài. Quả thật, Allah là Đấng Rộng rãi Bao la, Đấng biết hết mọi sự việc.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 268).



﴿ قُلۡ إِنَّمَا حَرَّمَ رَبِّيَ ٱلۡفَوَٰحِشَ مَا ظَهَرَ مِنۡهَا وَمَا بَطَنَ وَٱلۡإِثۡمَ وَٱلۡبَغۡيَ بِغَيۡرِ ٱلۡحَقِّ وَأَن تُشۡرِكُواْ بِٱللَّهِ مَا لَمۡ يُنَزِّلۡ بِهِۦ سُلۡطَٰنٗا وَأَن تَقُولُواْ عَلَى ٱللَّهِ مَا لَا تَعۡلَمُونَ ٣٣ ﴾ [سورة الأعراف : 33 ]

{Hãy bảo chúng (Muhammad!) Thượng Đế của Ta chỉ cấm làm các điều thô bỉ và sàm bậy, dù công khai hay thầm kín, Ngài cấm làm những điều tội lỗi, cấm việc áp bức và chèn ép kẻ khác bất chấp lẽ phải và sự thật, cấm làm điều Shirk với Allah điều mà Ngài không bao giờ chấp thuận và Ngài cấm việc nói bậy cho Allah những điều mà các ngươi không biết.} (Chương 7 – Al-‘Araf, câu 33).



﴿ وَلَا تَقۡرَبُواْ ٱلزِّنَىٰٓۖ إِنَّهُۥ كَانَ فَٰحِشَةٗ وَسَآءَ سَبِيلٗا ٣٢ ﴾ [سورة الإسراء: 32]

{Và các ngươi không được đến gần Zina, bởi quả thật nó là một con đường dâm loạn đồi bại.} (Chương 17 – Al-Isra, câu 32).



﴿ ٱلزَّانِي لَا يَنكِحُ إِلَّا زَانِيَةً أَوۡ مُشۡرِكَةٗ وَٱلزَّانِيَةُ لَا يَنكِحُهَآ إِلَّا زَانٍ أَوۡ مُشۡرِكٞۚ وَحُرِّمَ ذَٰلِكَ عَلَى ٱلۡمُؤۡمِنِينَ ٣﴾ [سورةالنور: 3]

{Người đàn ông phạm tội gian dâm không được kết hôn với ai khác ngoài ngời đàn bà phạm tội thông dâm hoặc người đàn bà thờ đa thần. Và người đàn bà phạm tội gian dâm không được kết hôn với ai khác ngoài người đàn ông phạm tội thông dâm hoặc người đàn ông thờ đa thần. Và điều đó bị cấm đối với những người có đức tin.} (Chương 24 – Annur, câu 3).



﴿ إِنَّ ٱلَّذِينَ يُحِبُّونَ أَن تَشِيعَ ٱلۡفَٰحِشَةُ فِي ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ لَهُمۡ عَذَابٌ أَلِيمٞ فِي ٱلدُّنۡيَا وَٱلۡأٓخِرَةِۚ وَٱللَّهُ يَعۡلَمُ وَأَنتُمۡ لَا تَعۡلَمُونَ ١٩﴾ [سورةالنور: 19]

{Và những ai trong hàng ngũ những người có đức tin thích hành động đồi bại này (Zina) được phổ biến rộng rãi thì sẽ chịu một sự trừng phạt đau đớn ở đời này lẫn Đời sau. Quả thật, Allah biết rõ mọi sự việc trong lúc các ngươi không biết.} (Chương 24 – Annur, câu 19).



﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّبِيُّ إِذَا جَآءَكَ ٱلۡمُؤۡمِنَٰتُ يُبَايِعۡنَكَ عَلَىٰٓ أَن لَّا يُشۡرِكۡنَ بِٱللَّهِ شَيۡ‍ٔٗا وَلَا يَسۡرِقۡنَ وَلَا يَزۡنِينَ وَلَا يَقۡتُلۡنَ أَوۡلَٰدَهُنَّ وَلَا يَأۡتِينَ بِبُهۡتَٰنٖ يَفۡتَرِينَهُۥ بَيۡنَ أَيۡدِيهِنَّ وَأَرۡجُلِهِنَّ وَلَا يَعۡصِينَكَ فِي مَعۡرُوفٖ فَبَايِعۡهُنَّ وَٱسۡتَغۡفِرۡ لَهُنَّ ٱللَّهَۚ إِنَّ ٱللَّهَ غَفُورٞ رَّحِيمٞ ﴾ [سورةالممتحنة: 12]

{Này hỡi Nabi! Khi những người phụ nữ tin tưởng đến gặp Ngươi để tuyên thệ với Ngươi rằng họ sẽ không tổ hợp và gán ghép cùng với Allah bất kỳ một thứ gì, họ sẽ không ăn cắp, không Zina, không giết con cái của họ, không làm điều dối trá với chồng của họ, và sẽ không bất tuân mệnh lệnh của Ngươi về bất cứ điều thiện tốt nào, thì Ngươi hãy chấp nhận lời tuyên thệ của họ và xin Allah tha thứ cho họ. Quả thật, Allah là Đấng hằng tha thứ và rất mực khoan dung.} (Chương 60 – Al-Mumtahinah, câu 12).

Con người đã hành động Zina (dâm loạn) trong tất cả các nơi trên thế giới tại thời điểm của Muhammad e nhưng Người không bao giờ thực hiện hành động này và nghiêm cấm các tín đồ của Người một cách tuyệt đối.

Q. Muhammad e nghiêm cấm trao đổi giao dịch dưới hình thức Riba (cho vay lấy lãi) và việc vay mượn có lời giống như Nabi Ysa (Jesus) u đã nghiêm cấm trước đó vài thế kỷ. Và rõ ràng rằng việc cho vay lấy lãi là ăn tài sản không chính đáng và hủy hoai hệ thống kinh tế qua các thời đại như đã được răn dạy trong các nền giáo lý của các Thiên sứ thời trước đó. Muhammad e đã xem việc giao dịch và trao đổi này là một hành động xấu và vô nhân đạo, răng nó phải được tránh xa một cách triệt để nhằm khẳng định Islam (sự qui thuận) của một người đối với Allah, Đấng Tạo hóa.

﴿ ٱلَّذِينَ يَأۡكُلُونَ ٱلرِّبَوٰاْ لَا يَقُومُونَ إِلَّا كَمَا يَقُومُ ٱلَّذِي يَتَخَبَّطُهُ ٱلشَّيۡطَٰنُ مِنَ ٱلۡمَسِّۚ ذَٰلِكَ بِأَنَّهُمۡ قَالُوٓاْ إِنَّمَا ٱلۡبَيۡعُ مِثۡلُ ٱلرِّبَوٰاْۗ وَأَحَلَّ ٱللَّهُ ٱلۡبَيۡعَ وَحَرَّمَ ٱلرِّبَوٰاْۚ فَمَن جَآءَهُۥ مَوۡعِظَةٞ مِّن رَّبِّهِۦ فَٱنتَهَىٰ فَلَهُۥ مَا سَلَفَ وَأَمۡرُهُۥٓ إِلَى ٱللَّهِۖ وَمَنۡ عَادَ فَأُوْلَٰٓئِكَ أَصۡحَٰبُ ٱلنَّارِۖ هُمۡ فِيهَا خَٰلِدُونَ ٢٧٥ يَمۡحَقُ ٱللَّهُ ٱلرِّبَوٰاْ وَيُرۡبِي ٱلصَّدَقَٰتِۗ وَٱللَّهُ لَا يُحِبُّ كُلَّ كَفَّارٍ أَثِيمٍ ٢٧٦ إِنَّ ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَعَمِلُواْ ٱلصَّٰلِحَٰتِ وَأَقَامُواْ ٱلصَّلَوٰةَ وَءَاتَوُاْ ٱلزَّكَوٰةَ لَهُمۡ أَجۡرُهُمۡ عِندَ رَبِّهِمۡ وَلَا خَوۡفٌ عَلَيۡهِمۡ وَلَا هُمۡ يَحۡزَنُونَ ٢٧٧ يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ ٱتَّقُواْ ٱللَّهَ وَذَرُواْ مَا بَقِيَ مِنَ ٱلرِّبَوٰٓاْ إِن كُنتُم مُّؤۡمِنِينَ ٢٧٨ فَإِن لَّمۡ تَفۡعَلُواْ فَأۡذَنُواْ بِحَرۡبٖ مِّنَ ٱللَّهِ وَرَسُولِهِۦۖ وَإِن تُبۡتُمۡ فَلَكُمۡ رُءُوسُ أَمۡوَٰلِكُمۡ لَا تَظۡلِمُونَ وَلَا تُظۡلَمُونَ ٢٧٩ ﴾ [سورة البقرة: 275 - 279].

{Những ai ăn tiền lời cho vay sẽ không đứng vững trừ phi đứng như một kẻ đã bị Shaytan sờ mó và làm cho điên cuồng. Sở dĩ như thế là vì họ nói: “Thương mại có khác gì với việc cho vay lấy lãi đâu”. Nhưng Allah cho phép buôn bán và cấm cho vay lấy lãi. Bởi thế, ai đã nhận được lệnh cảnh cáo của Allah và ngưng (việc cho vay lấy lãi) thì sẽ được (Allah) tha thứ về quá khứ của y; và công việc của y sẽ được trình lên cho Allah quyết định. Ngược lại, ai tái phạm thì sẽ làm bạn với Lủa của Hỏa ngục; họ sẽ ở trong đó đời đời.



Allah xóa bỏ (định chế) Riba (cho vay lấy lãi) và làm phát đạt việc bố thí Sadaqah, và Allah không thương những kẻ phụ ơn và tội lỗi.

Quả thật những ai có đức tin và làm việc thiện, và chu đáo dâng lễ nguyện Salah và đóng Zakah thì sẽ nhận phần thưởng của họ nơi Thượng Đế của họ; họ sẽ không lo sợ cũng sẽ không buồn phiền.

Hỡi những ai có đức tin! Nếu các ngươi là những người có đức tin thực sự thì hãy sợ Allah và bỏ phần còn lại của tiền lời cho vay.

Nhưng nếu các ngươi không thi hành thì hãy coi chừng chiến tranh từ Allah và Sứ giả của Ngài; nếu các ngươi hối cải thì sẽ được tiền vốn của các ngươi trở lại. Chớ đối xử bất công với người khác thì các ngươi sẽ không bị đối xử bất công trở lại.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 275 – 279).

R. Muhammad e không bao giờ có hành vi cơ bạc và Người đã cấm nó giống như cấm Riba vì nó cũng hủy hoại nguồn tài sản.

﴿يَسۡ‍َٔلُونَكَ عَنِ ٱلۡخَمۡرِ وَٱلۡمَيۡسِرِۖ قُلۡ فِيهِمَآ إِثۡمٞ كَبِيرٞ وَمَنَٰفِعُ لِلنَّاسِ وَإِثۡمُهُمَآ أَكۡبَرُ مِن نَّفۡعِهِمَاۗ وَيَسۡ‍َٔلُونَكَ مَاذَا يُنفِقُونَۖ قُلِ ٱلۡعَفۡوَۗ كَذَٰلِكَ يُبَيِّنُ ٱللَّهُ لَكُمُ ٱلۡأٓيَٰتِ لَعَلَّكُمۡ تَتَفَكَّرُونَ ٢١٩ ﴾ [سورة البقرة: 219]

{Họ hỏi Ngươi (Muhammad) về rượu và cờ bạc. Hãy bảo họ: Trong hài điều đó vừa có một tội lớn vừa có một vài cái lợi cho nhân loại, nhưng tội của hai thứ đó lơn hơn cái lợi của chúng mang lại. Và họ lại hỏi Ngươi phải chi dùng các gì để làm việc thiện. Ngươi hãy bảo họ: Những gì còn lại sau khi đã thỏa mãn những nhu cầu cần thiết. Đó là những lời mặc khải Allah đã trình bày rõ cho các ngươi mong rằng các ngươi biết suy ngẫm.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 219).

Cơ bạc không được xem là hành vi xấu và tội ác ngay thời của Muhammad e nhưng hôm nay nó được biết rằng cờ bác chính là nguyên nhân gây thiệt hại cho các gia đình và ngay cả đối với sức khỏe tinh thần, và ý tưởng kiếm tiền từ cái không có gì không phải là cách ngay chính mà Muhammad e cổ vũ và ủng hộ.

S. Muhammad e không bao giờ uống rượu hoặc bất cứ loại thức uống nào gây say giống như vậy mặc dù những thứ này là thức uống phổ biến thường này của mọi người trong thời đó.

﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُوٓاْ إِنَّمَا ٱلۡخَمۡرُ وَٱلۡمَيۡسِرُ وَٱلۡأَنصَابُ وَٱلۡأَزۡلَٰمُ رِجۡسٞ مِّنۡ عَمَلِ ٱلشَّيۡطَٰنِ فَٱجۡتَنِبُوهُ لَعَلَّكُمۡ تُفۡلِحُونَ ٩٠ إِنَّمَا يُرِيدُ ٱلشَّيۡطَٰنُ أَن يُوقِعَ بَيۡنَكُمُ ٱلۡعَدَٰوَةَ وَٱلۡبَغۡضَآءَ فِي ٱلۡخَمۡرِ وَٱلۡمَيۡسِرِ وَيَصُدَّكُمۡ عَن ذِكۡرِ ٱللَّهِ وَعَنِ ٱلصَّلَوٰةِۖ فَهَلۡ أَنتُم مُّنتَهُونَ ٩١ ﴾ [سورة المائدة: 90، 91 ]

{Này hỡi những người có đức tin! Quả thật, uống rượu, cờ bạc, thờ cúng trên bàn thờ bắng đá vầ dùng tên bắn để làm quẻ xin xăm là điều khả ố thuộc những việc làm của Shaytan. Các ngươi hãy từ bỏ và tránh xa chúng mong rằng các ngươi mới có thể thành đạt. Shaytan chỉ muốn tạo ác cảm và hận thù giữa các ngươi qua việc uống rượu và cờ bạc, nó muốn cản trở các ngươi nhớ đến Allah và dâng lễ nguyện Salah. Thế các ngươi không chịu ngưng hay sao?} (Chương 5 – Al-Ma-idah, câu 90, 91).

Quả thật, những người Ả rập cũng giống như các nền văn minh khác thời đó, họ đều uống rượu bất kể tác hại của nó đến sức khỏe hay nhân cách của họ, và có người đã trở thành con nghiện của rượu. Còn ngày nay, vào thời đại của chúng ta, chúng ta không cần đưa ra bằng chứng chỉ mức độ nghiêm trọng của thói quen tệ hại này. Rượu ngoài việc gây ra sự tàn phá sức khỏe của con người, nó còn là nguyên nhân gây ra các tai nạn giao thông làm thiệt hại tài sản và tính mạng con người. Trong thời gian ban đầu, Muhammad e chỉ cấm các tín đồ uống rượu đến gần sự thờ phượng và sau đó mệnh lệnh cấm rượu mới được thực thi hoàn toàn và triệt để.

T. Muhammad e không bao giờ tung tin đồn nhảm hoặc mách lẻo chuyện của người khác, Người thường quay mặt bỏ đi khi nghe ai đó có hành vi như vậy.

﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُوٓاْ إِن جَآءَكُمۡ فَاسِقُۢ بِنَبَإٖ فَتَبَيَّنُوٓاْ أَن تُصِيبُواْ قَوۡمَۢا بِجَهَٰلَةٖ فَتُصۡبِحُواْ عَلَىٰ مَا فَعَلۡتُمۡ نَٰدِمِينَ ٦﴾ [سورة الحجرات: 6]

{Hỡi những ai có đức tin! Nếu có một kẻ gây rối mang tin tức đến báo cáo với các ngươi thì các ngươi hãy kiểm tra nó cho thật kỹ e rằng vì ngu xuẩn, các ngươi có thể làm hại đến người khác rồi sau đó đâm ra hối hận về điều các ngươi đã làm.} (Chương 49 – Al-Hujurat, câu 6).



﴿ يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ لَا يَسۡخَرۡ قَوۡمٞ مِّن قَوۡمٍ عَسَىٰٓ أَن يَكُونُواْ خَيۡرٗا مِّنۡهُمۡ وَلَا نِسَآءٞ مِّن نِّسَآءٍ عَسَىٰٓ أَن يَكُنَّ خَيۡرٗا مِّنۡهُنَّۖ وَلَا تَلۡمِزُوٓاْ أَنفُسَكُمۡ وَلَا تَنَابَزُواْ بِٱلۡأَلۡقَٰبِۖ بِئۡسَ ٱلِٱسۡمُ ٱلۡفُسُوقُ بَعۡدَ ٱلۡإِيمَٰنِۚ وَمَن لَّمۡ يَتُبۡ فَأُوْلَٰٓئِكَ هُمُ ٱلظَّٰلِمُونَ ١١ يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ ٱجۡتَنِبُواْ كَثِيرٗا مِّنَ ٱلظَّنِّ إِنَّ بَعۡضَ ٱلظَّنِّ إِثۡمٞۖ وَ لَا تَجَسَّسُواْ وَلَا يَغۡتَب بَّعۡضُكُم بَعۡضًاۚ أَيُحِبُّ أَحَدُكُمۡ أَن يَأۡكُلَ لَحۡمَ أَخِيهِ مَيۡتٗا فَكَرِهۡتُمُوهُۚ وَٱتَّقُواْ ٱللَّهَۚ إِنَّ ٱللَّهَ تَوَّابٞ رَّحِيمٞ ١٢﴾ [سورة الحجرات: 11 - 12]

{Này hỡi những ai có đức tin! Mọt đám người này chớ nên cười chê một đám người nọ. Biết đâu đám người này tốt hơn đám người nọ (và ngược lại). Và một số phụ nữ này không nên cười chê một số người phụ nữ nọ. Biết đâu nhóm phụ nữ nọ tốt hơn nhóm phụ nữ kia (và ngược lại). Chớ nói xấu lẫn nhau và chớ mắng nhiếc nhau bằng cách bêu tên tục (của nhau ra trước công chúng). Việc bêu tên xấu của một người sau khi y đã tin tưởng là một việc xấu xa. Và ai không chừa bỏ (thói xấu đó) thì là những người làm điều sai quấy.



Hỡi những ai có đức tin! Hãy tránh nghi kỵ càng nhiều càng tốt. Quả thật, nghi kỵ trong một vài trường hợp là một tội. Chớ dọ thám cũng chớ nói xấu lẫn nhau. Phải chăng một trong các ngươi thích ăn thịt của người anh em mình đã chết hay sao? Bởi thế, nên gớm ghiếc việc đó. Và hãy sợ Allah. Quả thật, Allah hằng tha thứ và khoan dung.} (Chương 49 – Al-Hujurat, câu 11, 12).

Tất nhiên, những giáo lý này là nói nhân cách và đặc biệt là trong thời đại của chúng ta hiện nay, con người luôn tích cực tham gia vào các loại tồi tệ nhất của tin đồn và những lời lăng mạ nhau và thậm chí những điều đó lại xảy giữa người thân thích với nhau.



U. Quả thật, Muhammad e là rất rộng lượng và bao dung, và Người luôn kêu gọi các tín đồ của Người nên đối xử và quan hệ một cách rộng lượng và bao dung với nhau, thậm chí Người thúc giục họ bỏ qua và xí xóa cho những khoản nợ của một số người vì Allah, Đấng Độ lượng và Khoan dung.

﴿ وَإِن كَانَ ذُو عُسۡرَةٖ فَنَظِرَةٌ إِلَىٰ مَيۡسَرَةٖۚ وَأَن تَصَدَّقُواْ خَيۡرٞ لَّكُمۡ إِن كُنتُمۡ تَعۡلَمُونَ ٢٨٠ وَٱتَّقُواْ يَوۡمٗا تُرۡجَعُونَ فِيهِ إِلَى ٱللَّهِۖ ثُمَّ تُوَفَّىٰ كُلُّ نَفۡسٖ مَّا كَسَبَتۡ وَهُمۡ لَا يُظۡلَمُونَ ٢٨١ ﴾ [سورة البقرة: 280 ، 281]

{Và nếu người thiếu nợ lâm vào hoàn cảnh khó khăn, hãy gia hạn cho y đến khi y cảm thấy nhẹ gánh lo (trong việc trả nợ); nhưng nếu các ngươi bố thí (tiền nợ đó) cho họ thì điều đó tốt nhất cho các ngươi nếu các ngươi biết. Và hãy sợ Ngày mà các ngươi được đưa gặp Allah trở lại (để chịu xét xử). Rồi một linh hồn sẽ được trả lại đầy đủ về những điều (tội lỗi) mà nói đã phạm và họ sẽ không bị đối xử bất công.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 280, 281).



V. Quả thật, Muhammad e bảo phải bố thí Sadaqah (phần hảo tâm) cho người nghèo, đặc biệt đối với những phụ nữ góa phụ và trẻ mồ côi.

﴿ فَأَمَّا ٱلۡيَتِيمَ فَلَا تَقۡهَرۡ ٩ ﴾ [سورة الضحى: 9]

{Còn đối với trẻ mồ côi thì chớ nên bạc đãi chúng.} (Chương 93 – Dhuha, câu 9).



﴿ لِلۡفُقَرَآءِ ٱلَّذِينَ أُحۡصِرُواْ فِي سَبِيلِ ٱللَّهِ لَا يَسۡتَطِيعُونَ ضَرۡبٗا فِي ٱلۡأَرۡضِ يَحۡسَبُهُمُ ٱلۡجَاهِلُ أَغۡنِيَآءَ مِنَ ٱلتَّعَفُّفِ تَعۡرِفُهُم بِسِيمَٰهُمۡ لَا يَسۡ‍َٔلُونَ ٱلنَّاسَ إِلۡحَافٗاۗ وَمَا تُنفِقُواْ مِنۡ خَيۡرٖ فَإِنَّ ٱللَّهَ بِهِۦ عَلِيمٌ ٢٧٣﴾ [سورة البقرة: 273]

{Của bố thí là dành cho người nghèo, những ai vì chính nghĩa của Allah đã bị hạn chế trong việc đi đây đó trên mặt đất (để tìm kế sinh nhai), những kẻ kém hiểu biết thấy tư cách của họ kém khiêm tốn tưởng rằng họ đã đầy đủ không cần gì khác; Ngươi (Muhammad) có thể nhận biết hoàn cảnh của họ (qua những nét đặc biệt) trên gương mặt của họ, họ không trơ trẽn xin xở quấy rầy thiên hạ. Bởi thế, bất cư các vật tốt nào các ngươi tiêu ra cho họ chắc chắn Allah biết rõ nó.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 273).



Z. Quả thật, Muhammad e dạy mọi người đối mặt với những tai ương và bất hạnh trong cuộc sống của họ rằng họ phải kiên nhẫn chịu đựng, bởi biết kiên nhẫn và chịu đưng sẽ giúp họ nghị lực và đức tin vào sự an bài của cuộc sống để đứng dậy và tiếp tục bước đi trên cuộc đời.

﴿ يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ ٱسۡتَعِينُواْ بِٱلصَّبۡرِ وَٱلصَّلَوٰةِۚ إِنَّ ٱللَّهَ مَعَ ٱلصَّٰبِرِينَ ١٥٣ ﴾ [سورة البقرة: 153]

{Này hỡi những người có đức tin! Hãy cầu xin sự cứu giúp (của Allah) bằng sự kiên nhẫn và lễ nguyện Salah. Quả thật, Allah luôn ở cùng với những ai biết kiên nhẫn chịu đựng.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 153).

Và Người e cũng trình bày rõ rằng cuộc sống trên thế gian này là một sử thử thách từ Allah, Đấng Tối cao:

﴿ وَلَنَبۡلُوَنَّكُم بِشَيۡءٖ مِّنَ ٱلۡخَوۡفِ وَٱلۡجُوعِ وَنَقۡصٖ مِّنَ ٱلۡأَمۡوَٰلِ وَٱلۡأَنفُسِ وَٱلثَّمَرَٰتِۗ وَبَشِّرِ ٱلصَّٰبِرِينَ ١٥٥﴾ [سورة البقرة: 155]

{Và quả thật TA (Allah) sẽ thử thách các ngươi với những điều sợ hãi, sự đọi khát, mất mát tài sản, thiệt hại tính mạng và thất bát mùa màng và hoa quả. Nhưng hãy báo tin vui cho những người biết kiên nhẫn.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 155).



W. Quả thật, Muhammad là người thường nhịn chay để được gần Allah và lánh xa ham muốn vật chất trần gian.

﴿ يَٰٓأَيُّهَا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ كُتِبَ عَلَيۡكُمُ ٱلصِّيَامُ كَمَا كُتِبَ عَلَى ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِكُمۡ لَعَلَّكُمۡ تَتَّقُونَ ١٨٣ ﴾ [سورة البقرة: 183]

{Hỡi những ai có đức tin, việc nhịn chay đã được sắc lệnh cho các ngươi giống như nó đã được sắc lệnh cho những người trước các ngươi, mong rằng các ngươi sẽ ngay chính và ngoan đạo.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 183).

X. Quả thật, Muhammad e đã kêu gọi việc loại bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc và bộ lạc kể từ lúc bắt đầu sự truyền bá cho đến khi kết thúc sứ mệnh của Người, Người đích thực là sứ giả của hòa bình cho mọi người ở mọi thời đại.

﴿ يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ إِنَّا خَلَقۡنَٰكُم مِّن ذَكَرٖ وَأُنثَىٰ وَجَعَلۡنَٰكُمۡ شُعُوبٗا وَقَبَآئِلَ لِتَعَارَفُوٓاْۚ إِنَّ أَكۡرَمَكُمۡ عِندَ ٱللَّهِ أَتۡقَىٰكُمۡۚ إِنَّ ٱللَّهَ عَلِيمٌ خَبِيرٞ ١٣ ﴾ [سورة الحجرات : 13]

{Này hỡi nhân loại, quả thật TA (Allah) đã tạo hóa các ngươi từ một người nam và một người nữ và làm cho các ngươi thành quốc gia và bộ lạc để các ngươi nhận biết lẫn nhau. Quả thật, sự cao quý của các ngươi ở nơi Allah là lòng kính sợ và ngoan đạo của các ngươi. Quả thật, Allah là Đấng thông lãm và am tượng mọi sự việc.} (Chương 49 – Al-Hujurat, câu 13).

Và trong các câu kinh khác trong Qur’an:

﴿ يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ ٱتَّقُواْ رَبَّكُمُ ٱلَّذِي خَلَقَكُم مِّن نَّفۡسٖ وَٰحِدَةٖ وَخَلَقَ مِنۡهَا زَوۡجَهَا وَبَثَّ مِنۡهُمَا ٗا كَثِيرٗا وَنِسَآءٗۚ وَٱتَّقُواْ ٱللَّهَ ٱلَّذِي تَسَآءَلُونَ بِهِۦ وَٱلۡأَرۡحَامَۚ إِنَّ ٱللَّهَ كَانَ عَلَيۡكُمۡ رَقِيبٗا ١ ﴾ [سورة النساء: 1]

{Này hỡi nhân loại! Hãy kính sợ Thượng Đế của các ngươi, Đấng đã tạo hóa các ngươi từ một cá thể duy nhất (Adam) và từ Y Ngài đã tạo ra người vợ của Y (Hauwa) rồi từ hai người họ Ngài đã rải ra vô số đàn ông và đàn bà (trên khắp trái đất). Và hãy kính sợ Allah, Đấng mà các người đòi hỏi (quyền hạn) lẫn nhau và hãy (kính trọng) dạ con bởi vì quả thật Allah luôn theo dõi các ngươi.} (Chương 4 - Annisa’, câu 1).

Còn đối với những gì liên quan đến cách cư xử trong mối quan hệ giữa con người với nhau cũng như sự hòa giải giữa những người gây gỗ và tranh chấp nhau thì Qur’an cũng có nói:

﴿ وَإِن طَآئِفَتَانِ مِنَ ٱلۡمُؤۡمِنِينَ ٱقۡتَتَلُواْ فَأَصۡلِحُواْ بَيۡنَهُمَاۖ فَإِنۢ بَغَتۡ إِحۡدَىٰهُمَا عَلَى ٱلۡأُخۡرَىٰ فَقَٰتِلُواْ ٱلَّتِي تَبۡغِي حَتَّىٰ تَفِيٓءَ إِلَىٰٓ أَمۡرِ ٱللَّهِۚ فَإِن فَآءَتۡ فَأَصۡلِحُواْ بَيۡنَهُمَا بِٱلۡعَدۡلِ وَأَقۡسِطُوٓاْۖ إِنَّ ٱللَّهَ يُحِبُّ ٱلۡمُقۡسِطِينَ ٩ إِنَّمَا ٱلۡمُؤۡمِنُونَ إِخۡوَةٞ فَأَصۡلِحُواْ بَيۡنَ أَخَوَيۡكُمۡۚ وَٱتَّقُواْ ٱللَّهَ لَعَلَّكُمۡ تُرۡحَمُونَ ١٠ ﴾ [سورة الحجرات : 9، 10]

{Nếu có hai nhóm tín đồ giao chiến, hãy hòa giải giữa đôi bên. Nhưng nếu nhóm này áp bức và lấn át nhóm kia thì hãy đánh nhóm áp bức cho đến khi họ trở về phục tùng mệnh lệnh của Allah. Bởi thế, nếu họ chiêu hồi thì hãy giải hòa giữa hai nhóm một cách công bằng và vô tư. Quả thật, Allah yêu thương những người công bằng vô tư. Những người có đức tin là anh em với nhau. Do đó, hãy giải hòa giữa hai anh em của các ngươi. Hãy kính sợ Allah, mong rằng các ngươi được khoan dung.} (Chương 49 – Al-Hujurat, câu 9, 10).



Y. Quả thật, Muhammad e đã trình bày rõ ràng rằng Nabi Ysa (Jesus) u là một bào thai tinh khiết được sinh ra một cách kì diệu từ bà Maryam, một người phụ nữ tốt nhất trong nhân loại. Đồng thời, Muhammad e đã xác nhận với những người Do thái rằng Nabi Ysa (Jesus) u là một vị Masih được nói đến trong Tawrah (Kinh Cựu ước: Torah), và quả thật Người e cũng đã cho biết rằng Ysa u đã mang đến nhiều phép màu theo ý chỉ của Allah, trong những phép màu đó tiêu biểu như chửa lành bệnh, làm cho người mù sáng mắt, làm cho người chết sống lại, và Nabi Ysa u chưa chết mà được Allah đưa lên trời. Và Người e cũng thông điệp rằng Nabi Ysa u sẽ trở lại trần gian vào cận ngày Tận thế để thống lĩnh những người có đức tin đi tiêu diệt những điều xấu và tôi lỗi, và Nabi Ysa u sẽ hủy diệt Masih Dajjal (Antichrist).

Z. Quả thật, Muhammad e cấm giết chóc ngay cả các tín đồ của Người bị giết cho đến khi có lệnh từ Allah bảo vùng dậy chiến đấu, và ngay cả khi có lệnh chiến đấu thì vẫn có những nguyên tắc và giới hạn nhất định (được nói ở phần trên) và chỉ được phép chiến đấu với những ai chiến đấu chống lại Islam và những người Muslim.
d / f

Muhammad e đã nói gì?

Yusuf Estes

Quả thật, Muhammad đã thiết lập nhiều nguyên tắc và đạo đức, đồng thời cũng thiết lập các nguyên tắc nhất định trong các cuộc chinh chiến vượt hơn cả công ước Genéve trong vấn đề này.



Hãy xem những gì dưới đây:

Sống là một quyền thiêng liêng cho tất cả và trên cơ sở này không được phép xâm phạm và làm hại nó ngoại trừ đối với những ai giao chiến với Islam. Nếu giải cứu được một sinh mang xem như đã giải cứu toàn nhân loại và tương tự nếu hủy diệt một sinh mạng coi như đã hủy diệt cả toàn nhân loại.

Không áp dụng nguyên tắc diệt chủng đối với bất kỳ bộ lạc nào, ngay cả khi một số các bộ lạc đã áp dụng hình thức diệt chủng đối với người Muslim. Thay vào đó, Muhammad e, đã nhiều lần ân xá và bảo vệ chung của tất cả bao gồm cả một số người đã vi phạm thỏa thuận với Người nhiều lần. Người e không cho phép tấn công họ cho đến khi nào đã chứng minh rõ rằng họ là những kẻ phản bội hiệp ước và thỏa thuận, họ là những người đang cố gắng tìm cách hãm hại người Muslim và Thiên Sứ Muhammad e trong suốt cuộc chiến. Và tất nhiên hoàn toàn hợp lý rằng có quyền đáp trả lại người Do Thái đã phản bội người Muslim.

Quả thật, chế độ chiếm hữu nô lệ là một trong những điều phổ biến ở các quốc gia và các bộ lạc trong giai đoạn này, và Islam đến đã khuyến khích việc giải phóng nô lệ và dạy con người biết rằng Allah sẽ ban thưởng nếu họ trả tự do cho nô lệ. Ví dụ cho điều này như người giúp việc của Thiên sứ Muhammad e, Zaid bin Harithah, đã được Người coi như con trai của Người, Bilal, một nô lệ đã được Abu Bakr Assiddiq t mua lại và trả tự do cho ông. Mặc dù kẻ thù đã nhiều lần âm mưu ám sát Thiên sứ e (nổi tiếng nhất trong âm mưu ám sát Người đó là đêm Người e và Abu Bakr t rời Makkah để đến Madinah và Ali đã nằm ngủ tại chỗ của Người) nhưng Người e không cho phép bất cứ ai trong bạn đạo của Người giết hại bất kỳ một ai đã tham gia trong âm mưu ám sát Người. Bằng chứng cho điều đó là khi Thiên sứ e vào Makkah sau khi đã giành được thắng lợi thì lời nói đâu tiên Người nói với các bạn đạo của Người rằng không được gây hại cho các bộ lạc và dòng tộc thế này thế này. Và đây là một trong những hành động nổi bật nhất biểu hiện rõ nhất về sự tha thứ, bao dung và khiêm nhường.

Quả thật, cuộc chiến quân sự đã bị cấm trong suốt mười ba năm đầu của sứ mạng Thiên sứ mặc dù người Ả rập là những người giàu kinh nghiệm trong chiến đấu, họ không cần đến việc truyền dạy cách chiến đấu bởi lẽ họ đã trải một quá trình nội chiến triền miên nhiều thể kỷ qua. Người không cho phép đứng lên chiến đấu cho tới khi Allah thiết lập và định ra các nguyên tắc cho chiến tranh trong Qur’an trong đó bao gồm các giới hạn và quyền nhất định. Quả thật, giáo lý thiêng liêng đã trình bày rõ ràng và cụ thể như ai là người phải bị tấn công, tấn công thế nào, khi nào và ở mức độ nào và tiếp tục cuộc chiến đến bao giờ. Và sự tàn phá các cơ sở hạ tầng bị nghiêm cấm hoàn toàn ngoại trừ trong các trường hợp được xác định bởi Allah, Đấng Toàn năng, và trong các trường hợp cụ thể.

Quả thật, Thiên sứ e luôn hứng chịu từ phía kẻ thù những lời nhục mạ và xúc phạm nhưng đối với họ Người chỉ mời gọi đến với sự Chỉ đạo. Và một trong những ví dụ tiêu biểu nhất về điều đó là cuộc hành trình của Thiên sứ e đến vùng Ta-if, chẳng những các vị chức sắc, những người cầm quyền trong vùng không lắng nghe lời của Người, không tiếp đón Người như một vị khách mà thay vào đó, họ xúi giục trẻ con và thanh thiếu niên xua đuổi và ném đá vào Người e khiến Người bị thương và chảy máu rất nhiều, trong lúc đó, Đại Thiên thần Jibril xuất hiện để trở giúp Người trả thù họ, chỉ cần Người muốn Allah sẽ ra lệnh cho Thiên thần núi tàn phán vùng đất và làng mạc của họ. Tuy nhiên, thay vì Người e cầu Allah hủy diệt họ, Người lại cầu xin Allah hướng dẫn họ đến với sự thờ phượng Ngài duy nhất.

Thiên sứ e đã nói rõ cho chúng ta nghe rằng tất cả con người đều được sinh ra theo bản năng của Islam (tức thần phục Allah và tuân theo ý chí và giáo lý của Ngài), và Allah đã tạo ra mỗi người với hình dáng mà Ngài đã định đoạt cho họ và tất cả các tinh thân của họ là do Ngài kiểm soát, rồi sau đó khi họ lớn lên, họ bắt đầu bị quấy nhiễu đức tin của họ bởi những tác động và ảnh hưởng của môi trường và xã hội cũng như những dục vọng của chính bản thân họ.

Thiên sứ của Allah e đã dạy các tín đồ của Người phải có đức tin nơi Thượng Đế của Adam, Nuh (Noah), Ibrahim (Abraham), Yaqub (Jacob), Musa (Moses), Dawood (David), Sulayman (Solomon), Ysa (Jesus) (cầu xin Allah ban bằng an và phúc lành cho tất cả họ), phải có đức tin rằng tất cả họ là các vị Nabi, các vị Thiên sứ của Allah và cũng là những người bề tôi của Ngài, không được phân biết hơn kém giữa họ, và Người e bảo các tín đồ của Người nói (u) có nghĩa là (cầu xin bằng an cho Người) mỗi khi nhắc đến một vị Nabi nào đó trong số họ. Và quả thật Người e đã thông báo cho họ rằng Tawrah (Torah: Kinh Cựu ước), Zabur (Psalter: Sách thánh thi), Injil (New Testament: Kinh Tân ước) đều có cùng nguồn gốc giống như Qur’an rằng được Allah truyền khải xuống qua Đại Thiên thần Jibril (Gabriel) u, và quả thật Người e đã bảo những người Do thái áp dụng luật theo những gì được ban xuống trong Kinh sách của họ nhưng vì họ đã thay đổi và bóp méo và che giấu một số nội dung và điều luật trong Kinh sách của họ, bởi lẽ họ biết rằng Người e không biết đọc.

Quả thật, Qur’an đã nói về cầu chuyện Fir’aun (Pharaon) bị nhấn chìm trong biển hồng hải khi rược đuổi giết Nabi Musa (Moses) u, và Allah đã phán rằng Ngài sẽ giữ lại thân xác của Fir’aun (Pharaon) làm minh chứng cho hậu thế mai sau. Và trong cuốn sách có nhan đề “Kinh thánh, Kinh Qur’an và Khoa học”, tiến sĩ Maurice Bucaille nói rằng đây chính là những gì đã xảy ra với cơ thể của Pha-ra-ôn được phát hiện ở Ai Cập và hiện đang được trưng bày cho tất cả mọi người đến xem. Điều này đã xảy ra hàng ngàn năm trước khi Nabi e xuất hiện nhưng nó chỉ được chứng minh là sự thật trong vài thập kỷ sau khi Người qua đời.

Muhammad e không bao bao giờ tự xưng với các tín đồ của Người rằng Người là con của Allah, hoặc thân xác của Allah hay là thần linh gì cả mà Ngài luôn khẳng định Người là một vị Thiên sứ được Allah, Đấng Tối Cao lựa chọn. Người e nhấn mạnh rằng mọi người phải tôn vinh một mình Allah duy nhất, không được thề thốt bởi Người hay bởi bất cứ người bạn đạo nào của Người dưới mọi hình thức. Bởi đa số người thường tôn vinh một ai đó đến nỗi đưa người đó lên thành thánh và thần linh của họ.

Và một lý do chủ chốt làm cho Thiên sứ e đoàn kết loài người lại với nhau đó là mục đích thờ phượng một mình Allah, một Thượng Đế duy nhất, Thượng Đế của Adam và các vị Thiên sứ (cầu xin Allah ban bằng an và phúc lành cho họ), và Người e đã nỗ lực phấn đấu nhằm đạt được mục tiêu duy nhất đó là làm cho tất cả mọi người hiểu được các nguyên tắc đạo đức mà Allah đã qui định và ban xuống cho Người và những tín đồ theo nó.

Và ngày nay sau hơn mười bốn thế kỷ trôi qua, cuộc sống và giáo lý của Thiên sứ e vẫn còn được lưu truyền nguyên vẹn không thay đổi, không bị bóp méo, chỉnh sửa hay thêm bớt, và những gì vẫn không thay đổi đó sẽ là niềm hy vọng vĩnh hằng để điều trị các chứng bệnh khác nhau của loài người giống như cả cuộc đời của Người đã làm. Và đây không phải là lời khẳng định của Muhammad e hay các tín đồ của Người mà nó là do kết quả không thể thay đổi đã được lịch sử phân tích và ghi nhận.

Muhammad e nói rằng Người là bề tôi của Allah, là vị Nabi của Ngài, vị Thiên sứ của Ngài, và Allah là Thượng Đế của Adam, Ibrahim, Musa, Dawood, Sulayman và Ysa con trai của Maryam (cầu xin Allah ban bằng an và phúc lành cho tất cả họ). Người nói rằng Qur’an được mặc khải xuống cho Người e từ Allah thông qua Đại Thiên thần Jibril u. Người e bảo mọi người có đức tin nơi Allah, một mình Ngài duy nhất, đó là tuân thủ theo giáo lý của Ngài theo khả năng của họ. Và Người e đã cấm bản thân Người và những ai theo Người làm chuyện xấu và gian ác đồng thời dạy họ phương pháp thích hợp về thức ăn thức uống, các cung cách sinh hoạt ngay cả cách vào nhà vệ sinh, tất cả đều được mặc khải xuống từ Allah.

d / f


Каталог: uploads -> books
books -> Tầm Quan Trọng Của Tâuhid & Sự Nguy Hiểm Của Bùa Ngải ] Tiếng Việt Vietnamese فيتنامي [
books -> Imam Muhammad Bin Abdul-Wahab
books -> Chữa Bệnh Bằng Những Lời Niệm Chú Từ Qur’an Và Sunnah
books -> حصن المسلم Husnun Al- muslim
books -> Bạn Biết Gì Về Shi’ah (Shiite – Si-ai)?
books -> Riyadh Saaliheen (Những Ngôi Vườn Của Những Người Ngoan Đạo) Chương Sabr (Kiên Nhẫn)
books -> Ương Haj Các Sai Sót Khi Hành Hương Haj
books -> Dịch Thuật: Abu Hisaan Ibnu Ysa
books -> Kế Hoạch Cho Gia Đình 30 dự án hữu ích cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trong tháng Ramadan
books -> Imam Muhammad Bin Abdul-Wahab Tiểu sử và sự tuyên truyền của ông

tải về 2.91 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương