MỘt số TÌnh hình thời sự quốc tế, trong nưỚc quý i-2016 (Tài liệu phục vụ Hội nghị báo cáo viên tháng 4/2016) I- tình hình thế giớI



tải về 248.16 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích248.16 Kb.
#31289
1   2   3   4

III- TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC

1- Kỷ niệm 70 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam (6/1/1946 - 6/1/2016)

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Cuộc bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội đầu tiên, là “kết quả của hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già, trẻ, lớn, bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối, hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”.

Trong quá trình hình thành và phát triển, Quốc hội Việt Nam đã trải qua 13 khóa hoạt động, thông qua 5 bản Hiến pháp với nhiều đổi mới về tổ chức và hoạt động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đất nước.



* Phương hướng tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội

Với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với Quốc hội là rất nặng nề. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Quyết định của Quốc hội có ảnh hưởng và chi phối đối với các lĩnh vực khác nhau của hoạt động Nhà nước và đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi việc xem xét và quyết định của quốc hội phải thực chất, có hiệu lực, hiệu quả. Do đó, việc đổi mới Quốc hội trong thời gian tới phải hướng tới mục tiêu bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Nghị quyết của Đảng đã đề ra một số phương hướng cụ thể đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bao gồm:

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách; có cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri.

Thứ hai, cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, chất lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội.

Thứ ba, nghiên cứu, giao quyền chất vấn cho Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội.

Thứ tư, tiếp tục phát huy dân chủ, tính công khai, đối thoại trong thảo luận, hoạt động chất vấn tại diễn đàn Quốc hội.

Thứ năm, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống.

Thứ sáu, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là các công trình trọng điểm của quốc gia, việc phân bổ và thực hiện ngân sách; giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

2- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII

Cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân dành sự quan tâm đặc biệt theo dõi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Ngay sau khi Đại hội bế mạc, nhiều đảng viên và Nhân dân đã bày tỏ sự vui mừng, tin tưởng và đánh giá cao kết quả của Đại hội; cho rằng đó là do có sự chuẩn bị nhân sự kỹ lưỡng, khoa học của Ban chấp hành Trung ương khóa XI và do các đại biểu đã thực hiện tốt Quy chế bầu cử được Đại hội thông qua. Đại đa số các ý kiến của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đều có chung nhận xét: Đại hội XII được tiến hành hết sức thận trọng, công phu, dân chủ, khoa học từ việc chuẩn bị văn kiện, lấy ý kiến Nhân dân và nhất là việc chuẩn bị nhân sự và bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI và các đại biểu đã thể hiện đúng tinh thần vì Đảng, vì nước, vì nhân dân để lựa chọn những người xứng nhất vào vị trí định hướng và chèo lái con thuyền đất nước trong nhiệm kỳ tới. Công tác chuẩn bị nhân sự chu đáo, dân chủ, chất lượng, đảm bảo cơ cấu Ban Chấp hành khóa mới được trẻ hóa; đồng thời dư luận đánh giá cao công tác bầu cử diễn ra dân chủ. Cán bộ, đảng viên và Nhân dân mong muốn các đại biểu được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương nhiệm kỳ này sẽ có nhiều đổi mới, đưa đất nước phát triển hơn nữa trong tương lai.

Không chỉ vấn đề nhân sự nhận được sự đồng thuận cao trong Nhân dân mà các Văn kiện trình Đại hội lần này được dư luận đánh giá cao, cho rằng nội dung các văn kiện cô đọng, hàm chứa trí tuệ và đánh giá rất xác đáng những thành tựu, hạn chế trong 5 năm qua và trong 30 năm đổi mới. Các vấn đề như công tác đối ngoại, quốc phòng an ninh, công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội… được xem xét toàn diện và có phương hướng, giải pháp cụ thể trong thời gian tới. Đảng đã mạnh dạn đánh giá những hạn chế trên tất cả các lĩnh vực, nhất là trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) vừa qua. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã thành công rất tốt đẹp, Nhân dân cả nước đang đặt niềm tin sâu sắc và kỳ vọng lớn vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp của Đảng để đưa đất nước vượt ra khỏi thách thức, vững bước đi trên con đường đổi mới. Cán bộ, đảng viên cùng các tầng lớp Nhân dân cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài mong muốn Đảng, Nhà nước tiếp tục đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng; chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; xây dựng và phát huy hiệu quả hơn nữa sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của Nhân dân như Bác Hồ căn dặn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng diễn ra có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống chính trị xã hội nước ta. Để chuẩn bị cho sự kiện trọng đại này, Đảng đã tập trung chỉ đạo, chuẩn bị từ rất sớm về mọi mặt, từ đại hội cấp cơ sở, cấp trên trực tiếp cơ sở, cấp trực thuộc Trung ương và đến thời điểm này, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thành công tốt đẹp; với 180 ủy viên chính thức, 20 ủy viên dự khuyết được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương khóa mới. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã được bầu đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đúng về tỷ lệ độ tuổi quy định; lựa chọn những đại diện ưu tú đủ đức, đủ tài, giàu tâm huyết đại diện cho hơn 4,5 triệu đảng viên gánh vác sứ mệnh lãnh đạo đất nước trong nhiệm kì 5 năm tới, xứng đáng với niềm tin yêu, kì vọng của Đảng, của Dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thể hiện tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ cương và đổi mới. Có thể khẳng định, thành công của Đại hội lần này không hề là kết quả ngẫu nhiên, mà là kết quả tất yếu thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo chủ động, thống nhất và có hiệu quả của Đảng về đổi mới công tác xây dựng Đảng trong suốt nhiệm kỳ Đại hội.

Quán triệt sâu sắc lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở đúc kết các bài học kinh nghiệm quốc tế, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào Trung ương Đảng không có nghị quyết về xây dựng Đảng, về đổi mới chỉnh đốn Đảng.

Chúng ta đã tiến hành thường xuyên liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động nhưng kết quả vẫn còn khá khiêm tốn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí, hư hỏng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi mà thậm chí có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Nghị quyết Trung ương 4 ban hành đúng lúc, kịp thời, thể hiện quyết tâm chính trị và là giải pháp cấp bách, cần làm ngay để khắc phục tình hình, mong muốn tạo ra được các kết quả cụ thể, rõ rệt để củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Về thực chất, Nghị quyết Trung ương 4 tập trung trước hết nhằm khắc phục một số vấn đề vô cùng khó khăn lâu nay là công tác đánh giá cán bộ. Bằng việc triển khai ba nhiệm vụ cấp bách và bốn nhóm giải pháp, việc đánh giá cán bộ theo Nghị quyết Trung ương 4 được yêu cầu nhấn mạnh hơn, quyết liệt hơn các tiêu chuẩn: lập trường tư tưởng chính trị, năng lực thực tiễn thể hiện bằng hiệu quả công việc; uy tín trong Đảng và trong nhân dân; tư duy đổi mới và sáng tạo; có khả năng nắm bắt, xử lý có hiệu quả các vấn đề mới phát sinh; đoàn kết, quy tụ đội ngũ cán bộ; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; minh bạch, công tâm, khách quan trong công tác cán bộ; khả năng phát hiện và sử dụng người có đức, có tài; không tham ô, tham nhũng; có thái độ kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tham ô, tham nhũng, tiêu cực và phản bác các luận điệu xuyên tạc, phản động, trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Những tiêu chuẩn này là cụ thể, rõ ràng và mang tính định lượng hơn, là tấm gương soi cho cán bộ, đảng viên tự sửa mình trong công việc. Đây là cơ sở quan trọng và là điều kiện tiên quyết để đánh giá, lựa chọn, quy hoạch đào tạo luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ cũng như cho việc chuẩn bị nhân sự của đại hội đảng bộ các cấp sau này; các tiêu chuẩn này đã được lưu ý rất rõ ràng trong hướng dẫn công tác nhân sự cho đại hội đảng bộ các cấp nêu trong Chỉ thị 36 ngày 30-5-2014 của Bộ Chính trị. Đồng thời, để tạo sự khách quan trong đánh giá, lựa chọn cán bộ, lần đầu tiên, Đảng ta quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể và theo đó, những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ sẽ được xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Rõ ràng, Đảng bắt mạch đúng bản chất của vấn đề, xác định điểm nghẽn sâu xa của mọi sự trì trệ, yếu kém trong Đảng hiện nay nằm ở công tác cán bộ, nhất là công tác đánh giá cán bộ. Chỉnh đốn Đảng bắt đầu từ công tác cán bộ là sự lựa chọn đột phá đúng và trúng của Đảng ta ở nhiệm kỳ Đại hội XI.

Ngay sau khi ban hành, Nghị quyết Trung ương 4 đã được đại đa số cán bộ đảng viên và nhân dân đón nhận với tình cảm hồ hởi, vui mừng, đồng tình, nhất trí cao, coi đây là "cẩm nang" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là cơ sở để lập kế hoạch kiểm điểm và tổ chức thực hiện kiểm điểm. Các tổ chức cơ sở đảng, từ Trung ương đến địa phương, đã tiến hành kiểm điểm nghiêm túc, khẳng định đây là công việc thường xuyên, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm; xác định kiểm điểm không phải là đi tìm đối tượng để xử lý kỷ luật, là bới lông tìm vết, mà để răn đe phòng ngừa, ngăn chặn, để cán bộ tự giác tu dưỡng, tự điều chỉnh hành vi của mình, gột rửa cái xấu, cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, đánh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tệ hại. Nghị quyết đã thể hiện sự trung thực chính trị đáng trân trọng của Đảng ta, thể hiện tinh thần “tự chỉ trích” để hoàn thiện và phát triển; dũng cảm, thẳng thắn tiến hành tự kiểm điểm phê bình từ trên xuống, mạnh dạn chỉ ra những yếu kém, hạn chế trong nội bộ Đảng đồng thời đưa ra giải pháp khắc phục mà không e ngại đến vai trò cầm quyền của Đảng. Để dân tin Đảng, Đảng phải thẳng thắn nhận trách nhiệm trước Nhân dân về sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt. Điều đó cũng có nghĩa là, Nghị quyết Trung ương 4 là dấu mốc về cách làm mới, chuyển biến mới trong công tác xây dựng đảng.

Để chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 36 ngày 30-05-2014, trong đó về phương diện công tác nhân sự, Chỉ thị 36 đã khắc phục được nhiều vướng mắc của Chỉ thị 37 khóa X, đã làm rõ số lượng, cơ cấu, độ tuổi cấp ủy cho cấp quận, huyện; cấp tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; đưa ra các yêu cầu về tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số; xác định các đồng chí cấp ủy đương nhiệm còn 30 tháng được tiếp tục tái cử; chú ý bố trí sắp xếp và thực hiện chính sách cho các đồng chí không còn trong độ tuổi tái cử. Chỉ thị còn thể hiện sự quán triệt sâu sắc tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 về xác định tiêu chuẩn cấp ủy viên, trong đó nhấn mạnh các tiêu chuẩn theo Nghị quyết Trung ương 4, nhất là yêu cầu cấp ủy viên về thái độ nghiêm túc khắc phục, sửa chữa kịp thời những tồn tại, yếu kém và khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4. Chỉ thị cũng đã xác định rõ là không cơ cấu vào cấp ủy những đồng chí không gương mẫu thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước hoặc vi phạm những điều đảng viên, cán bộ, công chức không được làm. Nhìn chung, Chỉ thị vừa thể hiện tính nghiêm minh của kỷ cương trong Đảng, vừa thể hiện tính đổi mới trong cách làm và tính nhân văn trong chính sách cán bộ của Đảng. Theo đó, trong quá trình triển khai, các cấp ủy đều thống nhất thừa nhận Chỉ thị là rõ ràng, công minh, dễ làm và dễ thực hiện. Một số trường hợp cấp ủy đương nhiệm quá tuổi quy định tham gia tái cử cấp ủy mới chỉ năm đến bảy ngày đã không quá tâm tư, bức xúc, đồng thời xác định không tham gia tái cử và sẵn sàng nhận sự bố trí, sắp xếp công việc khác. Chỉ thị 36 đã thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng ta trong lãnh đạo chỉ đạo công tác nhân sự và bầu cử tại đại hội đảng bộ các cấp. Trên cơ sở này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát, thống nhất khách quan và công bằng khi cho ý kiến về nhân sự cấp ủy của các tỉnh, thành phố và các đảng bộ trực thuộc Trung ương. Việc thực hiện nghiêm ở cả cấp trung ương trong chỉ đạo và cấp địa phương trong thực hiện đã thể hiện sự thống nhất từ trên xuống dưới, giữ vững nguyên tắc, nhất quán trong thực hiện và chính điều này là nguyên nhân trực tiếp đem lại sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp.

Hiểu rõ tình hình thực tế và rút ra các bài học của công tác bầu cử trong Đảng nhiệm kỳ trước, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã ban hành Quy chế bầu cử số 244 ngày 9-6-2014 và trên cơ sở đó, các ban tham mưu của Đảng ban hành hướng dẫn phương hướng công tác nhân sự và hướng dẫn bầu cử cấp ủy các cấp, bảo đảm tính nhất quán, chặt chẽ, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Quy chế bầu cử mới đã chú trọng hơn nguyên tắc bảo đảm dân chủ và trách nhiệm của các cấp ủy, của từng đại biểu trong thực hiện quy trình bầu cử, tập trung nhiều hơn đến trách nhiệm chuẩn bị của cấp ủy và vai trò của từng cấp ủy viên trong việc chấp hành các quyết định của cấp ủy. Chẳng hạn, quyền ứng cử và đề cử trong đại hội được tôn trọng nhưng phải bảo đảm nguyên tắc một ủy viên cấp ủy sẽ không tự ứng cử và nhận quyền đề cử nếu trong danh sách đề cử của cấp ủy, cấp ủy viên này không được giới thiệu. Bầu cử phải có số dư so với số lượng cần bầu nhưng cấp ủy chỉ được chuẩn bị số dư không quá 15% và tại đại hội có thể giới thiệu thêm nhưng không vượt quá 30%. Điều này đã khắc phục được tình trạng thiếu tập trung và tản mạn trong giới thiệu đề cử. Đây là điểm mới của công tác bầu cử lần này, và nhờ đó, đại hội đảng bộ các cấp đã diễn ra thuận lợi, thông suốt. Hầu hết các đại hội tôn trọng và nhất trí cao với sự chuẩn bị nhân sự cấp ủy mới của cấp ủy các cấp, số dư giới thiệu thêm không nhiều và kết quả là các đồng chí trúng cử đều là các đồng chí đã có quá trình chuẩn bị lâu dài do cấp ủy các cấp giới thiệu.

Như vậy, từ nghị quyết Trung ương 4 đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, một lôgíc tất yếu của quy trình công tác cán bộ, từ chuẩn bị nhân sự đến tổ chức đại hội để bầu cử cấp ủy đã được chúng ta chủ động tiến hành sớm, kỹ lưỡng, bài bản, khoa học, đồng bộ, tổng thể, liên thông giữa các khâu trong công tác cán bộ. Thực tế thành công của đại hội đảng bộ các cấp và của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã minh chứng rằng, ở đảng bộ nào và địa phương nào quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 4, nắm vững các chỉ thị và hướng dẫn triển khai thì các địa phương đó quy hoạch, lựa chọn, bồi dưỡng và phát triển đúng người, bầu cử đúng nhân sự. Ở đâu có sự đề cao vai trò của cấp ủy, vai trò và trách nhiệm cao của người đứng đầu thì mọi khâu đều được triển khai thông suốt và có hiệu quả.

Sự thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã tạo được bầu không khí phấn khởi thật sự trong toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân cả nước, mang đến không chỉ trong Đảng mà trong Nhân dân một khí thế mới, niềm tin mới. Thành công của Đại hội XII, Nghị quyết Đại hội XII không đơn thuần là thành công và Nghị quyết của Đảng, mà còn là nghị quyết của lòng Dân hòa quyện với ý Đảng, là sự kết tinh ý chí, nghị lực, khát vọng đi lên của đất nước con rồng cháu tiên ở giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; tất cả vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.



3- Những tín hiệu vui của kinh tế - xã hội nước ta sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII

Sau thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều tín hiệu tích cực.

Về đầu tư nước ngoài, trong tháng 1 năm 2016, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 16 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 58 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 905,14 triệu USD, chiếm đến 67,8% tổng vốn đầu tư đăng ký trong tháng 1. Các dự án đầu tư đến từ 24 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 295,47 triệu USD, chiếm 22,1% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Malaysia đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 243,57 triệu USD, chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư, Trung Quốc đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 179,51 triệu USD, chiếm 13,4% tổng vốn đầu tư. Các dự án đầu tư được trải dài ở 29 tỉnh thành phố, trong đó Hà Nội là địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất với 15 dự án cấp mới và 7 dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 243,51 triệu USD, chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư; Đồng Nai đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 183 triệu USD, chiếm 13,7% và thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ 3 với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm 163,43 triệu USD chiếm 12,2% tổng vốn đầu tư.

Về hoạt động của các doanh nghiệp, trong tháng 01/2016, cả nước có 8320 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 59,3 nghìn tỷ đồng, tăng 21,2% về số doanh nghiệp và tăng 87% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015, số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 7,1 tỷ đồng, tăng 54,3%; tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong tháng là 124 nghìn người tăng 19,8%. Cũng trong tháng 1, cả nước có 4872 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 69,6% so với cùng kỳ năm 2015.

Hoạt động du lịch, dịch vụ cũng có những khởi sắc nhất định. Trong tháng 1/2016, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 805,1 nghìn lượt người, tăng 5,8% so với tháng trước và tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 659,4 nghìn lượt người, tăng 14,2% và tăng 17,4%; đến bằng đường bộ đạt 133,3 nghìn lượt người, giảm 21,5% và tăng 1%; đến bằng đường biển đạt 12,4 nghìn lượt người, giảm 9,5% và giảm 46,8% (Nguồn: Tổng cục thống kê).

Đáng chú ý đó là ngay sau Đại hội, một số sự kiện quan trọng và là những tín hiệu vui như Việt Nam đã ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với Liên minh kinh tế Á-Âu, Hàn Quốc; kết thúc đàm phán FTA với Liên minh châu Âu, đặc biệt là ký Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào ngày 04/2/2016. Với kết quả này, Việt Nam đã có FTA với 55 nền kinh tế trên thế giới, 7/7 quốc gia trong nhóm G7, 17/20 quốc gia trong nhóm G20 là những nền kinh tế lớn của thế giới đều là đối tác của chúng ta trong các khuôn khổ hội nhập mới. Đây là những cơ sở cho thấy mức độ hội nhập của nước ta được xếp vào hàng đứng đầu các nước trong khu vực và triển vọng gia tăng vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Hội nghị Cấp cao ASEAN-MỸ - Hội nghị quốc tế quan trọng đầu tiên trong năm 2016 của ASEAN và là Hội nghị Cấp cao đầu tiên giữa ASEAN và một nước đối tác ngay sau khi ASEAN hình thành Cộng đồng ASEAN triển vọng sẽ tạo cơ sở cho những hợp tác của chiến lược ASEAN-MỸ, trong đó có Việt Nam đi vào thực chất và cụ thể hơn cho phát triển kinh tế - xã hội.

4- Những điểm nhấn của tình hình kinh tế xã hội tháng 2 và hai tháng đầu năm 2016

4.1. Về thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát

- Về giá cả thị trường: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 02 tăng 0,42% so với tháng trước, tăng 1,27% so với cùng kỳ năm trước; bình quân hai tháng đầu năm tăng 1,03% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản tháng 02/2016 tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 1,93% so với cùng kỳ năm trước.

- Về thu - chi ngân sách nhà nước: Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/02, tổng thu NSNN ước đạt 160,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8% dự toán, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; tổng chi NSNN ước đạt 185,59 nghìn tỷ đồng, bằng 14,6% dự toán năm, tăng 5,2%.

- Thu hút vốn nước ngoài hai tháng đầu năm tiếp tục đạt kết quả khá: vốn FDI thực hiện ước đạt 1,5 tỷ USD, tăng 15,4% cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký ước đạt trên 2,8 tỷ USD, gấp 2,4 lần cùng kỳ năm trước, vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài giải ngân ước đạt 275 triệu USD, tăng 8,7%.

4.2. Về thực hiện mục tiêu phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế

- Về sản xuất công nghiệp: Chỉ số sản xuất công nghiệp hai tháng đầu năm tăng 6,6%; trong đó: sản xuất, phân phối điện tăng 12,8%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 9,2%; công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,5%; khai khoáng giảm 1,7%. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản gặp nhiều khó khăn do diễn biến thời tiết xấu; rét đậm, rét hại kéo dài ở phía Bắc; khô hạn và xâm nhập mặn nghiêm trọng ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tình trạng khô hạn và thiếu nước ngọt cũng đang ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân tại các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

- Về gieo cấy lúa: tính đến ngày 15/02/2016, cả nước đã gieo cấy 2.393,1 nghìn ha lúa đông xuân, tương đương cùng kỳ năm trước; trong đó: các tỉnh phía Bắc đạt 480,6 nghìn ha; các tỉnh phía Nam cơ bản gieo cấy xong, đạt 1.912,5 nghìn ha. Riêng các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch được 321,2 nghìn ha lúa đông xuân sớm, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trựớc.

- Về khu vực dịch vụ: tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng hai tháng đầu năm ước tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, nêu loại trừ yếu tố giá tăng 8,3%. Khách quốc tế đến nước ta ước đạt 1,64 triệu lượt, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2015.

- Về xuất, nhập khẩu: trong hai tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt gần 23,7 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước; tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt gần 22,8 tỷ USD, giảm 6,6%; xuất siêu khoảng 865 triệu USD, bằng 3,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Đánh giá chung, trong hai tháng đầu năm, các Bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 của Chính phủ và các Chỉ thị, Công điện của Thủ tướng Chính phủ về bình ổn giá cả, thị trường, chuẩn bị cho nhân dân đón Tết Nguyên đán cũng như các nhiệm vụ cần triển khai thực hiện sau Tết Nguyên đán và đã đạt được những kết quả tích cực.

Nguồn cung hàng hóa, dịch vụ dồi dào; giá cả thị trường trong và sau Tết khá ổn định, không có hiện tượng sốt giả như các dịp Tết trước đây. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển. Sản xuất công nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu hai tháng đầu năm tăng so với cùng kỳ năm trước.

Khu vực dịch vụ phát triển khá; khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 2 tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước; tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiếp tục tăng cao, cho thấy các tín hiệu cải thiện về sức mua và tổng cầu. Thu hút FDI tiếp tục đạt được những kết quả tích cực; giải ngân vốn FDI, vốn ODA và vay ưu đãi tăng cao so với cùng kỳ.

Các chính sách bảo đảm an sinh xã hội được quan tâm thực hiện, đời sống của người dân, đặc biệt là người có công, hộ nghèo, đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được quan tâm cả về vật chất lẫn tinh thần; an ninh chính trị được giữ vững; công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ được tăng cường... bảo đảm mọi người dân đều được đón Tết, vui Xuân đầm ấm, an toàn.

Tuy nhiên, đầu tháng 2, các đợt rét đậm, rét hại đã gây thiệt hại về cây trồng và gia súc ở các tỉnh miền núi phía Bắc; tình trạng xâm nhập mặn tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long; khô hạn, thiếu nước tưới cho sản xuất và sinh hoạt tại các tỉnh Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên đang ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Thiệt hại về rừng tăng cao so cùng kỳ. Tình hình tai nạn giao thông vẫn còn diễn biến phức tạp, số vụ tai nạn nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng vẫn còn cao.



tải về 248.16 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương