Môn thành duy thức luận bàI 1 TỔng quan về thành duy thức luậN



tải về 138.32 Kb.
trang3/5
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2022
Kích138.32 Kb.
#53893
1   2   3   4   5
môn thành duy thức luận
06 HAT GIONG VA TINH CACH CON NGUOI
BÀI 5+6: CHẤP NGÃ
BÀI KỆ SỐ 1:
Do giả thuyết ngã pháp/Hữu chủng chủng tướng chuyển/Bỉ y thức sở biến/Thử năng biến duy tam.Do giả thuyết ngã pháp: nghĩa là ngã pháp này là do giả lập mà có, không có thật. Do quan điểm chấp ngã, chấp pháp mà có các thứ tướng, có các thức biểu hiện, có các sự vật hiện tượng biến chuyển. Ví dụ: bàn, ghế... đều là các pháp do con người giả lập ra. Do đó có quá nhiều thứ tồn tại trên cõi đời này.Các pháp có sự biểu hiện ra gọi là hữu chủng chủng tướng  tướng trạng Bỉ y thức sở biến: “Bỉ” = chủng chủng tướng (tất cả các sự vật hiện tượng)Tất cả các sự vật hiện tượng được biến hiện ra bởi thức. Tất cả cảnh vật chúng ta nhận thức được gọi là sở biến, còn thức của chúng ta gọi là năng biến.Thức năng biến chỉ có 3 nhóm: Dị thục (thức thứ 8), Tư lương (mạt na thức), Liễu biệt cảnh thức (6 thức trước)Hai phần cần lưu ý: Cảnh sở biến  tướng phần (đối tượng nhận thức)Thức năng biến  Kiến phần (chủ thể nhận thức)Về sau các Luận sư đã đặt ra thêm “chứng tự chứng phần”. Tuy nhiên, chia làm hai phần thì đúng với chân lý hơn.Tự chứng phần: tánh không (duy thức tánh)Vì bản chất của các pháp là không  không có cái gì để chứng, Nhưng ở chỗ tự chứng này, ai biết mình vô ngã, ai biết mình chứng. Vì vậy có thêm chứng tự chứng phần tức chứng cái bản thể vô ngã hay còn gọi là Giải thoát tri kiến.
PHẦN DỊCH NGHĨA:
Vì ngã và các sự vật hiện tượng mang tính giả lập nên chúng chuyển hiện dưới các hình thức khác nhau.Nói cách khác, các hình thái biểu hiện của các sự vật hiện tượng sở dĩ có được là vì người ta quan niệm rằng nó có cái bản chất của nó gọi là ngã pháp.Cả hai là biến thái của thức. Nghĩa là ngã và pháp là do thức của chúng ta là tác nhân chủ yếu khiến chúng ta chấp ngã chấp pháp. Do đó, khi không còn chấp ngã và pháp thì thức biến thành trí. Trí này là biểu hiện của thức thể thanh tịnh. Thức thể này cũng chính là duy thức tánh, là tánh Không.
GIẢI THÍCH MỘT SỐ TỪ NGỮ
1. Giả thuyết: không có thật.Tực ngã và thực pháp được quan niệm bởi hạng phàm phù là hoàn toàn không tồn tại. Nhưng tùy theo tưởng tượng sai lầm mà có khái niệm về nó. Tất cả mọi khái niệm bằng nhận thức của chúng ta đều là giả.Vd: Khi Lục tổ Huệ Năng hỏi cái gì không hình, không tướng, không tên, không tuổi, không đầu không đuôi. Thần Hội trả lời là Phật tánh. Lục Tổ: “Đã không tên không tuổi thì Phật tánh cái gì”Thần Hội quan niệm mình có Phật tánh là rơi vào cái bẫy của nhận thức. Vì chân tâm hay phật tánh gì cũng là khái niệm hóa. Thực tế các pháp vốn không thực ngã, thực pháp vốn không có. Do chúng ta chấp nó thật có.Duy thức trả chúng ta về với lẽ thật.Tợ ngã, tợ pháp vốn là biến thái của thức. Như vậy, sở dĩ chúng ta thấy thật ngã, thật pháp chẳng qua do thức của chúng ta khái niệm hóa nó một cách tương tợ với cái gì nhận thức được trong tâm. Cái chủng tử, ấn tượng, hình tượng...hay còn gọi là ký ức ấy được gọi là sở duyên duyên  cũng là giảTuy tồn tại nhưng không phải thực ngã thực pháp.Tự thể thực ngã, thực pháp là rỗng không. Do vì xuất hiện tương tợ nên gọi là giả. Cũng y trên nội thức mà được giả lập, giả lập đó chỉ tồn tại trong những quy ước thế tục và trong quy ước thắng nghĩa thì thức lại là sở y của giả cảnh nên cũng tồn tại trong thắng nghĩa mà thôi..Thức, duy thức cũng là một khái niệm (đệ nhất nghĩa đế)Do đâu để biết rằng thực không tồn tại ngoại cảnh, duy chỉ có nội thức sinh khởi tương tợ ngoại cảnh mà thôi. Nội thức này là sở y của ngoại cảnh nên củng chỉ tồn tại trong thắng nghĩa. Nghĩa là, quan niệm của duy thức là chỉ có thức, thức này nhận biết các cảnh bên ngoài khiến chúng ta tưởng nó là có thật. Nhưng bản thân duy thức cũng là một khái niệm, là một giả lập trên chân đế.Do đâu để biết rằng có sự phân biệt nội thức là dường như thật, ngoại cảnh dường như giả. Vì thực ngã và thực pháp không thể nắm bắt đượcTất cả các pháp đều là giả thuyết.Có hai loại giả thuyết (Thành Duy Thức Luận).Vô thể tùy hình giả thuyết: Tùy theo một hình dạng nào đó mà đặt cho nó thành một pháp.Hữu thể thi thiết giả thuyết: Nó có hữu thể nhưng chúng ta khái niệm hóa nó thành một cái gì đó, như một con người, một hiện tượng...Vd: 8 pháp tâm vương (từ nhãn-nhĩ-thiệt-....a lại da thức) là có thật. Thực chất thức đó cũng không tên, không tuổi, là như như về bản thể - bản chất. Nhưng chúng ta lại quan niệm cái gì ghi nhớ được là A-lại-da thức, cái gì mình chấp ngã là mạt-na thức, cái gì nhận thức cảnh bên ngoài là 6 thức trước  Đó là thi thiết giả thuyết.Vô thể hay hữu thể đều là giả thuyết hết, là vô ngã vô pháp. Nhưng chúng ta lại chấp nó thật có.Cuối cùng duy thức cũng đưa tất cả về vô ngã giống như Phật giáo nguyên thủy. 2. Thức sở biến:thức chuyển, biến thái của thức.Những cái gì được thức biến ra, ta gọ là thức sở biến 3. Ngã.Một cái gì đó tồn tại có thể là do giả lập, do tổ hợp, nó mang điều kiện không phải là thực thể, thực hữu vĩnh hằng mà chúng ta lại chấp nhận nó là một thực thể, một cái tôi vĩnh hằng. Khi chúng ta đồng hóa các sự vật hiện tượng giả lập đó là có tồn tại, là bất biến  gọi là Ngã.Tất cả mọi rắc rối khổ đau là do chấp ngã.Các tên khác của ngã phàm phu: Trong Đại Phẩm Bát Nhã tập 2, Ngài La Thập dịch, có 16 biệt danh của Ngã: Chúng sanh, Thọ giả, Mạng giả, Sinh giả, Dưỡng dục giả, chúng số nhân, tác giả, sử tác giả, khởi giả, sử khởi giả, sử thọ giả, tri giả, kiến giả...Ngài Huyền Trang: 12 biệt danh về Ngã.Ngã chuyển hiện: lệ thuộc vào các điều kiện, duyên, từ đó có các khái niệm mặc định khác nhau.CÓ 3 KHUYNH HƯỚNG CHẤP NGÃ: khuynh hướng chấp ngã của thắng luận số luận, khuynh hướng chấp ngã của Ni-kiền-tử, khuynh hướng chấp ngã của thú chủ (Đại Tự Tại Thiên).
1. Thắng Luận: Chủ trương tự thể của ngã là thường hằng châu biến lượng đồng với hư không, tùy theo môi trường tạo nghiệp mà thọ nhận khổ, lạc.
2. Ni Kiền Tử: Chủ trương tự thể của ngã thì thường hằng nhưng lượng của nó thì bất định, bởi vì nó trải rộng hay thu nhỏ tùy theo sự lớn hay nhỏ của thân.
3. Thú chủ: Chủ trương tự thể của ngã là thường hằng và cực kì vi tế như một cực vi tiềm tàng chuyển vận trong thân để tạo tác sự nghiệp.
II. PHÁ CHẤP NGÃ .Làm sao biết được thật không có ngoại cảnh, chỉ có nội thức sanh ra tợ như ngoại cảnh, nên không thể có thật ngã, thật pháp? - Lối chấp ngã thứ nhất không đúng lý. Vì sao? Chấp ngã là thường hằng châu biến, lượng đồng với hư không, thì lý đáng ngã ấy không theo chân để chịu sự khổ vui. Lại ngã là thường, là biến thì lý đáng ngã ấy không động chuyển, như thế làm sao ngã ấy có thể theo thân tạo tác các nghiệp? Lại cái ngã bị chấp đó là đồng hay là khác giữa các loài hữu tình? Nếu nói đồng, thì khi một ngã của hữu tình này làm, lý đáng tất cả ngã của các hữu tình khác đều làm, khi một ngã thọ quả thì lý đáng tất cả ngã khác đều thọ, khi ngã của hữu tình này được giải thoát, thì lý đáng tất cả của ngã của các hữu tình khác đều được giải thoát? Nếu vậy, thì mắc lỗi lớn. Còn nếu nói khác thể, mà các ngã của các hữu tình lại cùng biến khắp, thế thì thể của các ngã đó cũng lẫn lộn nhau. Lại khi một ngã tác nghiệp, một ngã thọ quả, mà ngã đó vì cùng với các ngã khác ở một chỗ không riêng biệt, thì lý đáng phải gọi là tất cả ngã tác nghiệp, tất cả ngã thọ quả. Nếu cho rằng tác nghiệp, thọ quả đều có sở thuộc riêng, nên không mắc lỗi ấy thì lý cũng không đúng. Bởi vì ngã thể của các hữu tình đã biến khắp, thời nghiệp, quả và thân đã cùng với ngã thể của các hữu tình hợp làm một, mà nếu tác nghiệp thọ quả chỉ thuộc ngã này, chẳng phải thuộc ngã kia, thì cũng không đúng lý. Khi một ngã của hữu tình này giải thoát, tất cả ngã của các hữu tình khác lý đáng đều được giải thoát, vì pháp tu chứng hợp một với tất cả ngã vậy. - Lối chấp ngã thứ hai cũng phi lý. Vì sao? Vì chấp ngã thể là thường trú. Ðã thường trú thì không có thể theo chân mà có sự dãn ra và rút lại. Nếu nó đã có sự dãn ra và rút lại thì nó không khác gió trong ống bể, không thể thường trú được. Lại ngã đã theo thân thì ngã ấy có thể chia chẻ như thân, như vậy làm sao có thể chấp ngã thể là một được? - Lối chấp ngã thứ ba cũng phi lý. Vì sao? Vì lượng của ngã rất nhỏ như một mảy vi trần, như thế thì làm sao ngã có thể khiến cả thân to lớn chuyển động? Nếu nói ngã tuy nhỏ nhưng tuần chuyển rất nhanh trong thân, giống như vòng lửa quay, nên như tuồng nó chuyển động trong thân, thế thời cái ngã đó chẳng phải một, chẳng phải thường, vì cái gì có qua lại chyển động thì đều chẳng phải thường nhất vậy. - Lại có ba thứ chấp ngã: 1. Chấp ngã tức uẩn. 2. Chấp ngã lìa uẩn. 3. Chấp ngã chẳng phải tức chẳng phải lìa uẩn. Thứ nhất, chấp ngã tức uẩn, không đúng lý. Vì ngã ấy nên giống như uẩn, chẳng phải thường, nhất. Lại các sắc trong thân chẳng phải là thật ngã, vì nó giống như các sắc ngoài thân, có sự chất ngại. Còn Tâm, Tâm sở pháp cũng chẳng phải thật ngã, vì đợi có các duyên, Tâm, Tâm sở mới phát sinh, nó không hằng thường tương tục được. Các pháp Bất tương ưng hành, các sắc thuộc pháp xứ nhiếp khác, cũng chảng phải thật ngã, vì nó giống như hư không, không có tính giác tri (không giác tri thì đâu phải ngã). - Thứ hai, chấp ngã lìa uẩn, cũng không đúng lý. Vì ngã lìa uẩn thì nó cũng như hư không, không có tác nghiệp và thọ quả. - Thứ ba, chấp ngã chẳng phải tức uẩn, chẳng phải lìa uẩn, cũng không đúng lý. Vì cho rằng ngã nương uẩn mới lập, chẳng phải tức uẩn lìa uẩn thì ngã đó giống như cái bình (bình do dất làm ra, bình không là đất, cũng không lìa đất mà có), chẳng phải là thật ngã. Lại đã không thể nói ngã thuộc hữu vi hay vô vi (ngã tức là uẩn thì thuộc hữu vi, ngã lìa uẩn thì thuộc vô vi. Ở đây ngã chẳng tức năm uẩn chẳng phải lìa năm uẩn, tức không thể nói là hữu vi hay vô vi), thì cũng không thể nói là ngã hay phi ngã. Thế nên, các lối chấp ngã trên không thành. - Lại các ngã thể được chấp cho là thật có đó, là nó có tư lự hay không tƣ lự? Nếu ngã có tư lự thì vô thường, vì không phải lúc nào cũng có tư lự. Nếu ngã không tư lự thì giống như hư không, không thể tác nghiệp và thọ quả. Cho nên lối chấp ngã đó không thành. - Lại các ngã thể được chấp cho là thật có đó, nó có tác dụng hay không tác dụng? Nếu có tác dụng thì ngã giống như tay chân, lẽ phải vô thường. Nếu không tác dụng thì ngã giống như sừng thỏ, không phải là thật ngã. Thế nên chấp ngã chẳng tức uẩn, chẳng lìa uẩn cũng không thành. - Lại các ngã thể đƣợc chấp cho có thật đó, nó có phải là cảnh sở duyên của ngã kiến chăng? Nếu nó không là cảnh sở duyên của ngã kiến thì các ông làn sao biết đó là thật ngã? Nếu ngã là cảnh sở duyên của ngã kiến thì lẽ ra ai có ngã kiến là người chẳng thuộc vào hạng người điên đảo, vì họ biết đúng như thật (nếu có thật ngã, thì người nào chấp có ngã, có ngã kiến, là người đó biết đúng như thật, chứ không phải điên đảo). Nếu thế, thì tại sao người chấp có ngã lại bị kẻ tin vào chỉ giáo vô ngã chê bai và chỉ xưng tán ngƣời không chấp ngã rằng: "Không chấp ngã thì có thể chứng Niết bàn, người chấp ngã thì bị trầm luân sanh tử", chứ đâu có thể người có tà kiến chấp ngã lại chứng Niết bàn, còn người chánh kiến không chấp ngã lại bị trầm luân sanh tử! - Lại các ngã kiến không thể duyên thật ngã, vì nó đã có sở duyên, giống như tâm duyên các pháp khác. Lại sở duyên của ngã khiến nhất định không phải là thật ngã, vì nó là sở duyên, như các pháp sắc, hương v.v... Thế nên ngã kiến không duyên thật ngã, chỉ duyên các uẩn do nội thức biến hiện, rồi tùy theo vọng tình so đo chấp trước này nọ.
III. HAI THỨ NGÃ CHẤP - Tất cả ngã chấp lược có hai thứ:
1. Câu sanh. 2. Phân biệt.
- Ngã chấp câu sanh là ngã chấp từ vô thỉ đến nay do sức hư vọng huân tập bên trong tâm, nó cùng một lần sinh ra với thân, chứ không đợi có tà giáo và tà phân biệt mới sinh, mà là nhậm vận chuyển biến hiện khởi, nên gọi là Câu sanh. Loại Câu sanh này có hai: 1. Thường tương tục, tức thức thứ bảy duyên kiến phần của thức thứ tám, khởi lên tướng kiến phần của thức thứ tám ấy trên tự thức thứ bảy và chấp lấy tướng đó làm thật ngã. 2. Có gián đoạn, tức thức thứ sáu duyên vào tướng năm thủ uẩn được biến hiện trên tự thức nó, hoặc duyên chung cả năm thủ uẩn hoặc duyên riêng từng thủ uẩn, khởi lên tướng dạng ấy trên tự thức, rồi chấp lấy tướng đó làm thật ngã. hai thứ câu sanh ngã chấp này vi tế nên khó đoạn trừ. Về sau trong giai đoạn tu đạo, thường thường tu tập phép quán sanh không thù thắng (nhân vô ngã, ở tu đạo vị quán lý sanh không sâu hơn ở kiến đạo vị, nên gọi là thắng sanh không quán) một cách triệt để mới có thể đoạn trừ được. - Ngã chấp phân biệt cũng do sức của duyên hiện tại bên ngoài, nó chẳng cùng một lần sanh ra với thân, mà phải đợi có tà giáo và tà phân biệt mới sanh khởi được, nên gọi là phân biệt. Thứ ngã chấp phân biệt này chỉ có ở ý thức. Ðây cũng có hai: Một là duyên tà giáo nói về tướng năm uẩn, rồi khởi lên tướng ấy trên tự tâm và phân biệt so đo chấp lấy tướng đó làm thật ngã. Hai là duyên tà giáo nói về tướng ngã, rồi khởi tướng ấy trên tự tâm, và phân biệt so đo chấp lấy tướng đó làm thật ngã. Hai thứ ngã chấp phân biệt này thô phù nên dễ đoạn trừ. Trong lúc tu tướng kiến đạo, quán tất cả pháp là sanh không chân như (nhân vô ngã), tức có thể đoạn trừ. Tất cả ngã chấp về năm thủ uẩn đã nêu trên, đối với thủ uẩn bên ngoài tự tâm thì hoặc có, hoặc không, còn đối với năm thủ uẩn khởi lên bên trong tự tâm thì đều có (thủ uẩn bên ngoài tự tâm hoặc có, hoặc không, là như chấp có thật ngã ngoài tâm, thì ngã thể đó hoàn toàn không có, giống như lông rùa; còn chấp các thủ uẩn do nhân duyên, y tha khởi làm ngã, thủ uẩn đó là thật có, song tâm duyên không tới, vì nó là sơ sở duyên, nên cũng gọi là ngoài tâm. Nghĩa thứ hai là như thức thứ bảy duyên thức thứ tám, chấp làm ngã, thức thứ tám ở ngoài thức thứ bảy, nó có thật, còn thức thứ sáu đối thức thứ tám thì không duyên tới, tức là không. Nhưng bản chất thủ uẩn sơ sở duyên thì hoặc có, hoặc không có thật; còn ảnh tượng tướng phần thủ uẩn đƣợc biến ra trên tự thức để mà duyên thì ảnh tượng ấy luôn luôn là có). Thế nên biết ngã chấp đều duyên theo tướng năm thủ uẩn vô thường mà vọng chấp đó là ngã. Nhưng các tướng uẩn ấy đều từ duyên sanh, chúng chỉ có một cách như huyễn, vì so đo sai quấy chấp năm thủ uẩn đó là ngã, thì ngã đó quyết định chẳng phải có thật. Cho nên Khế kinh nói: "Bí sô nên biết, các thứ ngã kiến của hàng Sa môn, Bà la môn trong thế gian, tất cả đều duyên theo tướng năm thủ uẩn mà khởi ra".

tải về 138.32 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương