LỜi nóI ĐẦU 9 phần thứ nhấT 12



tải về 1.75 Mb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.75 Mb.
#38016
1   2

LỜI NÓI ĐẦU

Trọng kính Quý Bề Trên Dòng,

Kính thưa Quý Chị Giáo,

Trước hết, tôi xin cám ơn Chúa, cám ơn Quý Bề Trên và quý Chị Giáo đã cho tôi cơ hội đến đây để được học hỏi với Quý Bề Trên và Quý Chị Giáo trong khóa học chuyên đề Đào Tạo Người Đào Tạo. Chị Chủ Tịch chỉ định cho tôi chia sẻ về Nhân Bản Kitô Giáo, một đề tài quá rộng và quá quan trọng không thể nào nói hết trong một ngày. Quả thế, trong Tông Huấn Pastores Dabo Vobis, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II luôn đặt Nhân Bản ở vị trí đầu tiên trong bốn chiều kích đào tạo: Nhân Bản, Thiêng Liêng, Tri Thức và Mục Vụ.
Đứng trước sự rộng lớn đó, tôi không khỏi lo lắng, nhưng câu Ca Dao Việt Nam này giúp tôi an lòng: Dập dìu kẻ trước người sau, sức riêng một ít góp vào lợi chung”. Trong cái một ít đó, tôi xin chia bài chia sẻ thành hai phần: Trước hết nhấn mạnh về Đào Tạo Trưởng Thành Nhân Bản Kitô Giáo và Trưởng Thành Nhân Bản Đời Tu Qua Việc Sống Tốt Các Đặc Tính Của Đời Sống Cộng Đoàn. Tiếp đến, để kiện toàn sự trưởng thành nhân bản Kitô giáo và đời tu, trong khung cảnh đào tạo nhà đào tạo, tôi xin trình bày ba đề tài hỗ trợ thiết yếu sau đây, nếu không đủ thời giờ trình bày thì Quý Chị cũng có thêm tài liệu tham khảo:


  • Tiến trình đồng bộ được đào tạo, tự đào tạo và đào tạo ứng sinh của nhà đào tạo;

  • Vượt lên những bất cập và thái quá để làm nhà đào tạo đích thực theo gương Chúa Giêsu;

  • Môi trường và tác nhân đào tạo.

Kính thưa Quý Bề trên và Quý Chị Giáo,



Mục đích và ý nghĩa đời sống và sứ vụ của chúng ta là phụng sự Chúa và cứu rỗi các linh hồn, nên việc đào tạo vừa phải được đặt trọng tâm nơi Chúa Kitô, vừa phải thích hợp với các thực tại của thế giới hôm nay để nên thánh và nhằm phục vụ hữu hiệu sứ mạng của Giáo Hội qua sứ mạng của Hội dòng.
Việc đào tạo này phải được tăng trưởng toàn diện, cùng với Cộng đoàn, nhưng không bỏ qua tính cá biệt độc đáo của mỗi người, nên nó là một tiến trình lâu dài của phân định, thực hiện và trưởng thành trong lời đáp trả của mỗi người theo lối sống Phúc Âm trong Hội dòng, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Việc đào tạo này cũng diễn ra trong ánh sáng thần học vì chúng ta được Chúa gọi và sai đi vào trong thế giới như chứng nhân hữu hiệu và trung thành: Trung thành với Chúa Kitô và Phúc Âm; trung thành với Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội; trung thành với đặc sủng và sứ mạng của Hội dòng, qua các thời triệu được Chúa Thánh Thần khơi gợi và thúc đẩy.

PHẦN THỨ NHẤT




Một




ĐÀO TẠO TRƯỞNG THÀNH
NHÂN BẢN KITÔ GIÁO VÀ ĐỜI TU




  1. Nhân bẢn nói chung

  1. Định nghĩa và Nội Dung


Trước hết chúng ta phải nắm vững nhân bản là gì? Nhân là người, bản là gốc rễ, là nền tảng… Nhân Bản là tập hợp những điều căn bản của con người từ khi được hình thành trong bụng mẹ, vốn tốt lành tự nhiên (“nhân chi sơ tính bổn thiện”). Nhưng vì con người là một sinh vật có lý trí, có tăng trưởng theo dòng thời gian và chịu ảnh hưởng của môi trường sống chung quanh nên cái gốc rễ ấy sẽ không mãi mãi được bảo trì như vậy, mà sẽ dần dần biến đổi theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, tùy theo cái ảnh hưởng đó là tốt hay xấu, chứ không còn giống nhau như trước nữa (“tính tương cận, tập tương viễn”).
Như thế, chúng ta nhận thức được sự can thiệp vô cùng quan trọng của việc giáo dục nhân bản, tức là giáo dục một con người từ lúc chưa ý thức mình là người, trở thành một người có nhân cách. Chẳng hạn một em bé mới sinh nhờ lớn lên trong một nhân cách gia đình tốt (cha mẹ tốt, anh chị em tốt, ông bà tốt) mà thừa hưởng những cái tốt ấy: cha mẹ nào con nấy. Em bé cũng lớn lên trong một nhân cách xã hội tốt hay xấu (bạn bè, lối xóm, môi trường xung quanh), và cái nhân cách xã hội ấy cũng ảnh hưởng trên em bé. Quan trọng hơn là em bé sẽ sống và lớn lên trong một nhân cách giáo dục: Những lời nói, những hành động của cha mẹ, thầy cô, người lớn, những tư tưởng trong sách vở mà em bé tiếp thu, thấu hiểu và đọng lại trong suy nghĩ, trong tiềm thức… đều chạm tới nhân cách của em, được diễn tả ra trong ứng xử và hành động. Cái nhân cách được hình thành từ thuở thiếu thời như thế sẽ bám lấy em cho đến khi em trưởng thành, thành người lớn và theo em mãi suốt cả cuộc đời của em, nếu không có sự can thiệp hiệu quả của “được đào tạo và tự đào tạo” thích hợp “tiên học lễ hậu học văn”.
Như vậy, nhân bản là thái độ sống, thái độ nhìn đời, thái độ cư xử của một người hợp với những qui tắc mà mọi người thừa nhận. Và giáo dục nhân bản là đặt ra những định chế để hướng dẫn hay sửa chữa những lệch lạc, sai lầm nhằm thăng tiến con người hoàn thiện. Từ đó ta gọi nhân bản là “đạo nhân = đạo làm người”, là đường lối và lẽ sống, là cách đối nhân xử thế trong cuộc sống hợp quần của con người với nhau. Chính vì thế, Pastores Dabo Vobis khẳng định: “Không có đào tạo nhân bản thỏa đáng thì việc đào tạo trong toàn bộ sẽ thiếu hụt mất những nền tảng cần thiết”1.
Xã hội Việt Nam ta chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nho Giáo và lời dạy của Khổng, Mạnh nên người nam có tam cương (quân-sư-phụ) và ngũ thường (nhân-nghĩa-lễ-trí-tín), người nữ có tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất gia tòng phu, phu tử tòng tử), và tứ đức (công-dung-ngôn-hạnh). Tuy một số quan niệm và tương quan không còn triệt để phù hợp với thời hiện đại nữa như tam cương và tam tòng, nhưng nhân nghĩa lễ trí tín và công dung ngôn hạnh vẫn luôn có giá trị sống cho tất cả mọi người.

Chúng ta sẽ vắn tắt lược qua các đức tính ấy:

NHÂN là nhân đức dạy ta biết yêu thương tha thứ và phục vụ người khác, vì người trong bốn biển đều là anh em “Tứ hải giai huynh đệ”.

NGHĨA là một trong những giá trị cơ bản để một người xứng đáng làm người sống có tình nghĩa, có tấm lòng biết ơn. 

        

LỄ là những hành vi nhã nhặn, lịch sự, khiêm tốn, thể hiện nơi người có văn hóa, có giáo dục, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính mình trong cách cư xử giao tiếp chân thành.


TRÍ là có đầu óc sáng suốt, biết nhận xét khách quan, suy nghĩ chín chắn, phán đoán chính xác, biết tiên liệu vấn đề. 
TÍN là người khi đã suy nghĩ và lãnh nhận công việc nào thì tự tin, vững chí và có tinh thần trách nhiệm để thực hiện công việc hay lời đã hứa ấy cho đến cùng.
CÔNG – DUNG – NGÔN – HẠNH được coi là những đức tính thước đo phẩm hạnh của người phụ nữ.

CÔNG là quán xuyến những việc trong nhà, nấu nướng, thêu may, quét dọn, trang trí ngăn nắp đẹp đẽ tươm tất.


DUNG là nét mặt, dung nhan, dáng điệu uyển chuyển, nhẹ nhàng đẹp đẽ.
NGÔN là lời nói, giọng nói, cách nói lịch sự, chân thành, khiêm tốn, lễ phép, đúng nơi, đúng việc, đúng người, đúng sự thật.
HẠNH là hạnh kiểm, tiết hạnh gồm những nét đẹp tâm hồn, nết na, duyên dáng, dịu dàng, đoan trang, thùy mị, vị tha, chung thủy, chân thành, vui tươi.
Chúng có thể đọc thấy nền nhân bản ấy của giống nòi Việt nam qua các câu Ca Dao sau đây:

Thương người như thể thương thân; - Ở hiền thì lại gặp lành, những người nhân đức Trời dành phúc cho; - Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn; - Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng.

Vay nên ơn, trả nên nghĩa; - Sống nghĩa hiệp, chết vinh quang; - Quyết làm việc nghĩa chút thân chẳng nề; - Đường mòn nhưng nhân nghĩa không mòn; - Giàu nhân nghĩa hãy giữ cho giàu, khó tiền bạc đừng lo rằng khó; - Khuyên người đừng bội nghĩa vong ân, làm ơn chớ nhớ, chịu ơn đừng quên; - Ơn ai một chút chớ quên, oán ai một chút để bên dạ này.

Kính Trời, Trời để phúc cho, hay ho gì những thói hồ đồ vô thiên; - Thiên cao đã có thánh tri, người nhân nghĩa chẳng hàn vi bao giờ; - Kính trên nhường dưới, thuận hoà anh em.

Con ơi mẹ bảo con này, học ăn học nói cho tày người ta; - Học như rèn như đúc, như mài như giũa; - Ăn vóc học hay, ăn ngay nói thật; - Học ăn, học nói, học gói, học mở…

Một lời đã trót hứa ra, dẫu xe bốn ngựa khó mà đuổi theo; - Làm ơn ắt hẳn nên ơn, Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ; - Ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm; - Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ăn gạo nhớ kẻ đâm xay giần sàng; - Ăn cây nào, rào cây ấy; - Ăn ngay ở thật, mọi tật mọi lành.

Phận làm con gái bề ngoài cốt ở dung nhan, sao cho tươi tỉnh chẳng màng se sua; - Cửi canh bếp núc sớm trưa, chữ công vén khéo cho vừa cho xinh; - Bên trong đức hạnh trung trinh, ở ăn lễ độ đượm tình nết na; - Nói năng luôn giữ nếp nhà, dưới trên phải phép vào ra kính nhường.
  1. Trưởng thành Nhân Bản


Mục tiêu của Giáo Dục Nhân Bản là giúp con người đạt tới Con Người Trưởng Thành, được biểu hiện ra bên ngoài qua những đức tính tự nhiên hoặc do tập luyện mà đạt được nhân cách cao quý, như tác phong tốt đẹp, suy nghĩ chín chắn khôn ngoan, ý chí tự chủ, kiên quyết, tâm tính quân bình, điềm tĩnh, cư xử hài hòa, quảng đại vị tha… Chính nhờ việc tập luyện các đức tính đó, con người xứng đáng là “người” hơn (thành nhân). Và đó là cái nền móng vững chắc, là “hạ tầng cơ sở” của đạo nhân = đạo làm người, để xây dựng nên các “thượng tầng kiến thiết” sau đó, là đạo thiên = đạo làm con Chúa, thành “thánh nhân”.
Được coi là trưởng thành và thật sự trưởng thành là hai thực tại khác nhau. Chúng ta có thể ngộ nhận rằng người trưởng thành không hề bị ảnh hưởng sự xấu; rằng người trưởng thành không thể sai lầm; rằng người trưởng thành luôn giữ vững lập trường không thay đổi, v.v... Thật ra, người trưởng thành luôn biết thế nào là đúng thế nào là sai và hành động theo lương tâm ngay thẳng; càng trưởng thành càng khiêm tốn chấp nhận mình có thể sai lầm và đón nhận sự phê bình hay quan điểm của người khác; nét đẹp của người trưởng thành chính là sự hài hòa, biết lúc nào cần nghiêm chỉnh, khi nào cần tươi cười, biết nhận ra sự khác biệt và giá trị của người khác, của mỗi hoàn cảnh, mỗi thời điểm, biết linh động thích ứng, chứ không khư khư quan điểm của mình bất chấp người khác.
Sự trưởng thành không lệ thuộc vào tuổi tác và thể lý: Người ốm đau có thể trưởng thành hơn lực sĩ, người thất học có thể thưởng thành hơn người khoa bảng, người trẻ tuổi có thể có sự trưởng thành tinh thần cao hơn người có tuổi tác, chức vị. Người trưởng thành biết nhìn xa trông rộng, biết khép mình vào kỷ luật chung, hành động không vì sợ người khác nhưng theo lương tâm và xác tín của mình. Ý chí, tự do, tình cảm, trí khôn, tất cả kết hợp hài hòa nơi bản thân để tạo thành nhân cách của người trưởng thành. Người trưởng thành trung thành sống những cam kết của bậc sống mình, chịu mọi trách nhiệm về hành động và lời nói của mình cho tới cùng.
Tóm lại, một con người trưởng thành:

Mở rộng ý thức về bản thân, nhưng không lấy cái tôi của mình làm trung tâm điểm, mà liên kết với tha nhân: vừa có khả năng sống thân mật với tha nhân, vừa có khả năng sống thanh thoát khỏi khuynh hướng chiếm hữu nhưng tôn trọng kẻ khác.


Làm chủ cảm xúc và sống với các trạng thái tình cảm của mình: có khả năng mang nổi thất bại, chấp nhận lầm lỗi của mình chứ không dữ dội trút lên tha nhân và các biến cố bên ngoài; bộc lộ các xác tín và cảm nhận của mình với lòng trân trọng các xác tín và cảm nhận của người khác; vượt lên cái thiện cảm và ác cảm tự nhiên, dù sự giận dữ hay thiếu nhẫn nại thỉnh thoảng xảy ra. Lòng cảm thông đối với đồng loại là một dấu hiệu của sự trưởng thành.
Nhận thức thực tế: đánh giá thực tại đúng như nó là, chứ không như mình mong muốn nó trở thành; có kỹ năng thích hợp để giải quyết các vấn đề cách khách quan; có khả năng va chạm gần gũi với một thế giới thực, nghĩa là nhìn xem sự vật, con người và các hoàn cảnh theo cái mà chúng là; có khả năng quên mình vì một nhiệm vụ quan trọng.
Thể hiện mình cách khách quan: Biết rõ mình về những điểm mạnh và những điểm yếu của mình trong tinh thần hài hước; có khả năng coi thường những cái mình yêu thích dù vẫn yêu thích chúng; không giả bộ màu mè tỏ ra bề ngoài mình là cái gì đó mà thực ra không phải.

Sự chín chắn đạo đức: biết sự khác biệt giữa cái đúng và cái sai trong cuộc sống thường ngày; không lẫn lộn phương tiện và mục đích, và cương quyết theo đuổi cho bằng được những mục đích mà mình cảm thấy là đúng.



  1. Sự Thiếu Trưởng Thành Nhân Bản


Nhiều người trách linh mục, tu sĩ trẻ sau 1975 thiếu trưởng thành nhân bản, nhất là do cách cư xử trịch thượng ta đây, cách giao tế giống như người đời, giải quyết công việc cách độc tài độc đoán, tự lấy mình làm đủ không cần bàn hỏi ý kiến của ai, kể cả Bề trên và những người đi trước, coi thường những người không có được trình độ học vấn và đào tạo như mình…
Lắm khi cũng có thật như thế, nhưng cần được hiểu và thông cảmcái gì cũng có lý do tồn tại của nó: một phần vì trong một thời gian dài chúng ta không có Tiểu Chủng Viện hay Đệ T Viện, thiếu mất sự giáo dục toàn vẹn của Giáo Hội, lại bị thấm nhiễm tinh thần thế tục của một nền đào tạo vắng bóng Thiên Chúa. ĐTC Bin Đc XVI bo có tình trạng thiếu nhân bản này là do th tc chn la ứng sinh không thích đáng vic đào to không đy đ trong nhiu lãnh vc...
Có một cái gì đó gây sốc và đánh thức chúng ta khi đọc những kết luận giật mình được công bố trong cuộc Hội thảo “Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta hiện nay” do Hội Khoa học Tâm lý Giáo dục Việt Nam tổ chức2: Càng lên cao, người trẻ càng “hư”, như tỷ lệ quay cóp: có tới 8% học sinh tiểu học đã quay cóp, lên bậc THCS và THPT nhảy vọt tới 60% và đến bậc ĐH, CĐ thì đến 69%; tỷ lệ nói dối: có tới 22% học sinh Tiểu học nói dối cha mẹ, lên bậc THCS và THPT thì tới gần 64%, và ở bậc ĐH, CĐ có đến hơn 80% sinh viên sẵn sàng nói dối để qua mặt phụ huynh; Tỷ lệ thiếu niên phạm pháp cũng ngày một tăng cao; Nạn ma túy học đường ngày càng trở thành vấn đề nhức nhối. Đáng lo hơn nữa là phong cách sống đạo đức của học sinh, sinh viên ngày càng “có vấn đề”: Kết quả cuộc điều tra khảo sát trên cho thấy 51,4% sinh viên cho rằng “sống thử trước hôn nhân là hiện tượng phổ biến” và được coi là “bình thường”3* [x. Hiện tượng “sinh viên tầm gửi”, “tình nhà trọ” và từ đó nạn phá thai ngày càng gia tăng, cả trong giới thiếu nữ vị thành niên, và thật đáng buồn là Việt Nam được xếp hạng nhất thế giới].

Tình trạng đen tối đó có những nguyên nhân như là: Nhà trường nặng về dạy chữ mà nhẹ về dạy người, chỉ lo truyền giảng kiến thức mà không chú trọng uốn nắn chỉnh sửa những sai trái của học trò, và đáng buồn là nhiều thầy cô đã không sống gương mẫu; gia đình buông lỏng việc quản lý giáo dục con cái, để trẻ ngày càng tách khỏi thế giới thực và bị cuốn hút vào thế giới ảo bởi những trò chơi bạo lực ly kì, phim ảnh nóng hấp dẫn trên mạng; việc giáo dục đạo đức trong nhà trường các cấp còn nhiều bất ổn: nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng sống, không tạo được dấu ấn và điều kiện thuận lợi để hình thành nhân cách cho học sinh; tác động của nền kinh tế thị trường và sự hấp dẫn của đời sống đô thị du nhập từ Âu Mỹ đã làm cho các giá trị đạo đức truyền thống bị xâm hại và mai một, nhiều yếu tố xấu tác động trực tiếp đến nhân cách đạo đức của con em.


Người trẻ càng lớn càng hư vì nhiều năm phải thụ hưởng một nền giáo dục nhồi nhét, áp đặt, giáo điều ý thức hệ, khô cứng, không tôn trọng thật sự, gian dối, giấu diếm, vốn là hệ quả của một xã hội thiếu vắng Thiên Chúa: cái gì không bắt được quả tang kể là vô tội, dù là dân sự hay hình sự. Những tiêu cực và gương xấu của những người có trách nhiệm trong xã hội càng làm băng hoại người trẻ, như sự xuống cấp đạo đức, tệ nạn sử dụng bằng giả tràn lan trong mọi lãnh vực xã hội, tình trạng bất công và tham nhũng trở thành một quốc nạn… Điều đáng quan ngại là hệ qủa này cũng len lỏi vào cả trong đời sống tôn giáo.
HĐGM Việt Nam đã nhận định: “Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của Đất Nước và Dân tộc không thể không quan tâm đến tình trạng này... Do đó, việc giáo dục đạo đức và lương tâm phải là trách nhiệm hàng đầu của toàn xã hội, và cần đến sự tham gia tích cực của người dân cũng như các tổ chức xã hội.4
Cuộc sống đức tin, nhất là đời sống ơn gọi, luôn là lối đi ngược dòng với xu hướng thời đại của nền văn minh sự chết, buông thả luân lý và hưởng thụ khoái lạc. Tuy nhiên, sống trong một bối cảnh xã hội như thế, chắc chắn các thanh thiếu niên nam nữ Công giáo, kể cả các dự tu nam nữ trong thời gian tìm hiểu ơn gọi và đi học ở ngoài xã hội, cũng không thể không chịu ảnh hưởng. Do đó, việc đào tạo họ không thể không tính đến những ảnh hưởng ấy, như Huấn Thị “Những chỉ dẫn về việc huấn luyện…” của Bộ Tu sĩ nhấn mạnh: “Thường có sự chênh lệch giữa những kiến thức đời, đôi khi rất chuyên môn, với sự tăng trưởng tâm lý và đời sống Kitô. Họ chịu ảnh hưởng của một xã hội tiêu thụ cùng với những thất vọng của nó. Khi đạt tới một địa vị xã hội, đôi khi rất vất vả, một số đã bị băng hoại do bạo lực, ma túy và dâm ô… Trong số những ứng sinh vào đời tu, càng ngày càng có không ít thanh niên đã có những kinh nghiệm thương đau trong lãnh vực vừa kể trên, đòi phải được thanh lọc và uốn nắn lại5.
Một số tình huống đưa tới sự thiếu trưởng thành như ngay từ những ngày đầu của sứ vụ, các linh mục/tu sĩ trẻ có thể gặp căng thẳng với môi trường mục vụ và xã hội mới, không biết chấp nhận và thích nghi cách siêu nhiên cái bất định của đời sống và sứ vụ: được sai đến nơi mình không muốn, ở với người mình không ưa và làm việc mình không thích; cộng thêm những yếu đuối, giới hạn và vấn đề không được giải quyết thỏa đáng trong thời gian đào tạo, nín thở qua cầu, thiếu sự chân thật về phía ứng sinh và thiếu sự sâu sát chuyên nghiệp về phía các nhà đào tạo. Ngoài ra, một số linh mục, tu sĩ trẻ khởi sự tác vụ với tràn trề nhiệt huyết và lý tưởng, nhưng rồi gặp phải khó khăn, thất bại mà rơi vào hụt hẫng, chán nản, buông xuôi…
Chúng ta cũng cần bình tĩnh xem xét một cách công bằng, vì trưởng thành nhân bản là làm chủ được bản thân, làm chủ được các cảm xúc và làm chủ được cuộc sống của mình. Bộ Giáo sĩ khẳng định: “sự trưởng thành nhân bản trước tiên hàm nghĩa sự quân bình và hài hòa trong toàn thể các xu hướng và giá trị, sự ổn định tâm lý và tình cảm, sự cẩn trọng khách quan trong phán đoán, sức mạnh trong việc làm chủ cá tính của mình, khả năng giao tế, v.v…6. Nếu hiểu như thế thì trưởng thành nhân bản rất hàm nghĩa, và không phải chỉ một số linh mục, tu sĩ trẻ thiếu trưởng thành nhân bản mà còn nhiều người khác, có khi đầy tuổi tác và chức quyền cũng mắc phải, vì một khi không làm chủ được cảm xúc nóng giận hoặc việc trái ý, để rồi dùng biện pháp trả đũa, giữ lòng căm hận, làm thinh không nói gây bầu khí nặng nề trong cộng đoàn, mắng chửi giáo dân ngay cả trên tòa giảng là nơi chỉ dành để nói lời Chúa, thậm chí đánh cả giáo dân và người cộng tác dưới quyền.
Các hiện tượng này được gia trọng bởi sự thiếu tình huynh đệ, thiếu sự nâng đỡ của Bề Trên và anh chị em đồng nghiệp, sống cô lập, lơ là trong đời sống cầu nguyện, hãm mình khổ chế, bỏ bê đời sống thiêng liêng hay ngay cả thiếu đức tin7, trong khi chính đức tin đem lại sức mạnh và niềm hy vọng nơi Chúa, đặc biệt khi phải đối mặt với những thách đố và những lúc đen tối, khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
Các xung đột nội tâm và khủng hoảng này chỉ có thể được giải quyết khi đặt Chúa Giêsu làm trung tâm cuộc sống, tình cảm và mọi hoạt động. Cần có thời gian và một nơi chốn có thể ở một mình, lắng đọng suy tư và cầu nguyện, để trở nên ý thức rõ ràng hơn về các vấn đề thực sự là vấn đề. Các cuộc tĩnh tâm, hồi tâm là các cơ hội quý báu đó. Dành thời giờ sống thân mật với Chúa Giêsu là phương dược chữa lành vạn năng, vì việc kết hợp với Chúa Giêsu giúp chúng ta thống nhất đời sống của mình8. Đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu là cách thế duy nhất để vượt lên khủng hoảng, tái định hướng đời sống và sứ vụ. Thái độ chúng ta phải có là “nhận biết và chấp nhận vị thế trung tâm của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống, trong suy nghĩ, trong lời nói và trong các việc làm của chúng ta. Khi vị thế trung tâm này không còn nữa, khi nó được thay thế bằng ai khác hay cái gì khác, thì khi đó tác hại sẽ xảy đến cho tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta và cho chính chúng ta9. Chúng ta cần nhận biết và can đảm thay đổi trước khi bị bó buộc phải thay đổi, kẻo có khi muộn quá mất. Nhưng thay đổi không chỉ là việc của con tim và khối óc, song còn cần phải có ơn Chúa mà chúng ta khiêm tốn cầu xin mỗi ngày.


  1. Nhân bẢn Kitô giáo

  1. Nhân bản Kitô giáo là gì?


Chúng ta đã đề cập đến nhân bản nói chung. Nhưng con người không chỉ là thể chất thịt xương máu huyết tự nhiên được sinh ra, song còn có nguồn gốc thần linh sâu xa phát xuất từ Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa. Việc bảo dưỡng và đào tạo con người thuộc về Thiên Chúa này được gọi là Giáo Dục Nhân Bản Kitô Giáo, nhằm đạt tới mức độ Trưởng Thành Kitô hữu, nhờ việc tập luyện các nhân đức Kitô giáo, nghĩa là được nên hoàn hảo, thánh thiện, trở nên giống Chúa Kitô, xứng đáng chức vị là “con Chúa” (Đạo Thiên).
Theo Từ Điển Công Giáo của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin thuộc HĐGMVN, Nhân Bản Kitô Giáo là hệ thống quan niệm Kitô về căn tính của con người vốn được biểu hiện trong các mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau và giữa con người với vũ trụ (x. HTXHGHCG số 6-7). Trong tương quan với Thiên Chúa, con người là loài thụ tạo và là con cái của Ngài, nên họ đón nhận Thiên Chúa như cha của mình, trong khi đó nhiều thứ nhân bản mới thời nay loại trừ Thiên Chúa (x. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng số 7). Trong tương quan giữa người với người, tất cả đều là anh chị em với nhau, vì cùng có một cha chung là Thiên Chúa. Vì thế, nền nhân bản Kitô giáo mang tính liên đới liên ngôi vị và tôn trọng con người, phù hợp với những tiêu chuẩn thuộc kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa trong lịch sử (x. HTXHGHCG số 6-7). Trong tương quan với vũ trụ, con người không phải là chủ mà là người quản lý thay mặt Thiên Chúa vì lợi ích chung của muôn loài. Vì thế, nền nhân bản Kitô giáo coi trọng và liên đới trách nhiệm bảo vệ môi trường sống (x. Vui Mừng và Hy Vọng số 55)10, như Ngôi Nhà Chung của mọi người mà Thông Điệp Chúc Tụng Chúa Laudato Si’ của ĐTC Phanxicô nhấn mạnh.
Nhờ trưởng thành nhân bản, tức thành nhân (làm người), con người mới đạt được sự trưởng thành Kitô hữu (làm con Chúa) và rồi mới trở thành môn đệ Chúa Kitô (làm linh mục, tu sĩ), nhờ việc quảng đại đáp lại và kiên trì theo đuổi ơn gọi bằng việc tập luyện nhân đức, thực thi hoàn hảo các lời khuyên Phúc Âm. Đó là lý do Tông Huấn Pastores Dabo Vobis khẳng định “Đào Tạo Nhân Bản là nền tảng của mọi nền đào tạo". Quả thế, Sắc Lệnh Đào Tạo Linh mục Optatam Totius của Công Đồng Vaticanô II dạy: “Phải nhằm huấn luyện các ứng sinh đạt được mức độ trưởng thành nhân bản thoả đáng, nhất là mức trưởng thành được kiểm nghiệm trong đức tính cương nghị, trong khả năng quyết định chín chắn và một óc phán đoán về con người và các biến cố… Các ứng sinh phải tập cho quen điều hòa thích hợp căn tính mình, phải được huấn luyện cho có tinh thần quả cảm, biết quí trọng những đức tính mà người đời thường ưa chuộng và không thể thiếu nơi thừa tác viên của Chúa Kitô, như lòng thành thực, giữ đức công bình, tín trung, cư xử lịch thiệp, khiêm tốn và bác ái trong ngôn từ cũng như trong hành động…”11

Như thế, Đào Tạo Nhân Bản và Đào Tạo Nhân Bản Kitô Giáo rất quan trọng và cần thiết trong tiến trình hướng đến con người trưởng thành xứng đáng là người, là con cái Thiên Chúa (người Kitô hữu) và là môn đệ của Chúa Kitô, tức Linh mục, Tu sĩ tương lai.



  1. Nội dung nhân bản Kitô giáo


Trong việc đào tạo nhân bản Kitô giáo này, chúng ta cần hiểu sâu xa hơn ý niệm con người và con cái Thiên Chúa trong sự qui chiếu về Chúa Kitô.
Con Người là thụ tạo trong một thể duy nhất hồn xác, nam hay nữ, được Thiên Chúa Tình Thương dựng nên theo hình ảnh của Ngài và được ban quyền làm chủ vũ trụ (x. St 1,26-2,25; GLHTCG số 369). Con người - tột đỉnh của công trình sáng tạo, liên kết với nhau và với mọi loài thụ tạo. Trách nhiệm của con người là tôn vinh Thiên Chúa, phục vụ đồng loại, làm chủ và phát triển vũ trụ thiên nhiên do Thiên Chúa giao phó (x. GLHTCG số 243-344). Con người là hữu thể có tôn giáo vì được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa nên luôn khao khát và tìm kiếm Ngài (x. GLHTCG số 27-28). Con người được dựng nên với lý trí, ý chí và tự do nên là một chủ thể luân lý chịu trách nhiệm về các hành vi của mình (x. GLHTCG số 1704-1706, 1731, 1749). Khác với Ađam cũ – con người đầu tiên đã sa ngã phạm tội, Đức Kitô – Ađam mới đã đến khôi phục tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy của con người (x. Rm 5, 12-21), làm cho những ai tin vào Người và nhờ Thần Khí sẽ trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa (x. Rm 8, 14)12.
Con Cái Thiên Chúa: Tân Ước nói nhiều đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như là một hồng ân mà Đức Kitô - Con Một Thiên Chúa mang đến cho nhân loại qua cái chết và sự sống lại của Người. Ai tin nhận Đức Kitô thì trở nên con cái Thiên Chúa (x. Ga 1, 12), đồng thừa kế với Người nhờ tác động của Chúa Thánh Thần (x. Rm 8, 14-17; Gl 4, 5-7). Qua Bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu được tái sinh và tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Con Một của Ngài (x. GLHTCG 1265, 2782), Đấng là trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc (Rm 8, 29). Ý nghĩa của tình nghĩa tử thể hiện cụ thể trong sự dấn thân cho đức ái, tín thác vào sự quan phòng của Chúa, sống gắn bó với Chúa trong đơn sơ, bình an và lạc quan, tôn trọng phẩm giá của mỗi người và sống tình huynh đệ, yêu mến thế giới và các thực tại do Thiên Chúa tạo dựng13.

Chúa Kitô - Ngôi Lời Nhập Thể với nhân tính và thiên tính là trung tâm qui chiếu và kiểu mẫu của nền nhân bản Kitô giáo. ĐTC Phanxicô đã tuyên bố: “Nền nhân bản Kitô giáo mới đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu Kitô, nơi đó chúng ta khám phá khuôn mặt đích thực của con người. Nền nhân bản Kitô giáo không phải là thứ chủ nghĩa tự quy về mình, lấy mình làm trung tâm, nhưng luôn luôn hướng đến người khác, nỗ lực làm việc để cho thế giới tốt đẹp hơn. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy con đường dẫn đến hạnh phúc là con đường của Tám Mối Phúc Thật… Các mối phúc thật là những lời đơn sơ, nhưng thực tiễn, giúp chúng ta sống đời sống Kitô hữu đến mức lành thánh… Nếu Giáo Hội đánh mất đi tâm tình như đã có nơi Chúa Giêsu, Giáo hội sẽ mất phương hướng và cũng đánh mất diệu cảm của mình… Các cải cách của Giáo Hội phải bắt nguồn từ Chúa Kitô và Giáo Hội phải để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn14.

Tóm lại, nhân bản Kitô giáo là một nền nhân bản toàn diện và liên đới, có thể tạo ra một trật tự xã hội, kinh tế và chính trị mới, đặt nền tảng trên phẩm giá và tự do của mỗi con người. Nền nhân bản này có thể trở thành hiện thực nếu mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng biết vun trồng các đức tính luân lý và xã hội nơi bản thân mình và phổ biến chúng trong xã hội (x. HTXHGHCG số 19)15.


Vì thế, Công Đồng Vaticanô II dạy: “Mọi Kitô hữu, nhờ việc tái sinh bởi nước và Thánh Thần, đã trở nên những tạo vật mới, được gọi là con Thiên Chúa và quả thực như thế, nên có quyền hưởng một nền giáo dục Kitô giáo. Nền giáo dục này không chỉ nhằm giúp con người được trưởng thành, nhưng cốt yếu là nhằm giúp những người đã rửa tội ngày càng ý thức hơn về hồng ân Ðức Tin đã nhận lãnh trong khi họ được hướng dẫn để dần dần hiểu biết mầu nhiệm cứu rỗi. Nền giáo dục ấy còn giúp họ biết cách thờ phượng Thiên Chúa Cha trong tinh thần và chân lý (x. Ga 4,23), nhất là qua việc cử hành phụng vụ, cũng như huấn luyện họ biết sống theo con người mới trong công bình và thánh thiện của chân lý (Eph 4,22-24). Nhờ vậy họ đạt tới con người hoàn thiện, tới tuổi sung mãn của Chúa Kitô (x. Eph 4,13) và góp phần vào việc tăng trưởng của Nhiệm Thể. Hơn nữa, vì ý thức được ơn kêu gọi của mình, chính họ phải tập thói quen minh chứng niềm cậy trông của mình (x. 1P 3,15) cũng như phải giúp cải tạo thế giới theo tinh thần Kitô giáo. Nhờ đó những giá trị tự nhiên sẽ góp phần vào lợi ích của toàn thể xã hội, khi được hòa hợp vào viễn ảnh toàn vẹn của con người được Chúa Kitô cứu chuộc. Vì vậy Thánh Công Ðồng nhắc lại cho những Chủ Chăn hướng dẫn các linh hồn nhiệm vụ rất quan trọng là phải thu xếp mọi sự, để các tín hữu được hưởng nhờ nền giáo dục Kitô giáo, nhất là giới trẻ - niềm hy vọng của Giáo Hội16.
  1. Con đường trưởng thành Nhân bản Kitô giáo


Để được trưởng thành nhân bản Kitô giáo, chúng ta phải tập luyện và sống các nhân đức đối thần, đối nhân cũng như đối ngã. Các nhân đức đối nhân có bác ái, khôn ngoan, công chính, can đảm và tiết độ (người ta thường liệt kê bốn nhân đức luân lý là khôn ngoan, công chính, can đảm và tiết độ); còn các nhân đức đối thần là Tin, Cậy, Mến.

3.1. Các nhân đức đối nhân

a) Bác Ái

Bác ái được mô tả nơi điều răn quan trọng nhất là “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu người thân cận như chính mình” (x. Mt 22, 37-39). Bác ái là tình yêu thương rộng lớn giữa loài người với Thiên Chúa và giữa loài người với nhau. Có thể nói nhân đức bác ái bao trùm lên tất cả các đức tính nhân bản. Con người có được nhân đức bác ái như thế vì nó được khơi nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Nó sẽ ngày càng tăng trưởng nhờ vào sự giáo dục, nhất là giáo dục đức tin và thực hiện việc thương người mười bốn mối, mà thương xác bảy mối (cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ chết); và thương linh hồn bảy mối (lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết).




  1. Khôn Ngoan

Khôn ngoan là đức tính giúp ta nhận ra đâu là điều thiện đích thực trong từng hoàn cảnh, và khi đã nhận ra thì biết chọn lựa phương thế thích hợp để đạt tới. Không nên lầm lẫn khôn ngoan với nhút nhát và sợ hãi, né tránh những cam go thử thách, lại càng không thể đồng hóa khôn ngoan với sự tráo trở, giả hình mà người ta quen gọi là khôn ngoan thế gian. Nhờ khôn ngoan, con người biết ứng dụng lề luật luân lý vào những hoàn cảnh cụ thể, để thi hành điều thiện cách tốt đẹp nhất: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (Gc 3, 17). Cũng chính nhờ nhân đức khôn ngoan mà con người có thể đoán hiểu được những mạc khải chân lý từ Thiên Chúa, để từ đó có thể trở nên con cái đích thực của Người.


  1. Công Bình

Công bình không phải là cào bằng mọi giá trị bản thân với tha nhân hay ngược lại. Công bình là nhân đức nhờ đó con người biết nhận ra cái gì là của mình, cái gì là của anh chị em, cái gì là của Thiên Chúa và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, trả cho tha nhân những gì thuộc về họ. Công bình đối với Thiên Chúa là thờ phượng Ngài, còn đối với con người là tôn trọng quyền lợi của mỗi người, đối xử công minh với mọi người và thực thi công ích. Con người ngay thẳng chính trực thường có một cái tâm công bình, vì thế xã hội và Giáo Hội coi họ là người công chính: “Người công chính sẽ vui mừng trong Chúa và ẩn náu bên Người. Mọi tấm lòng chính trực đều lấy thế làm vinh” (Tv 64, 11); “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1, 17), vì nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người biệt phái thì sẽ chẳng được vào Nước Trời đâu” (Mt 5, 20).
d) Can Đảm

Can đảm là kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện cho dù có nhiều khó khăn cản lối và nhiều thử thách cam go: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33). Nhờ can đảm, con người cương quyết chống lại các cơn cám dỗ, vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý, chiến thắng sự sợ hãi (kể cả cái chết), để dám sống cho chính nghĩa. Nhưng can đảm không phải là cứ nhắm mắt làm liều, làm bừa, mà cần phải biết kết hợp với sự khôn ngoan và ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, để nhận rõ mục đích của hành động. Khi đã biết chắc chắn đó là mục đích tốt đẹp, mới dũng cảm và kiên cường vượt thắng.


e) Tiết Độ

Tiết độ là biết điều tiết sức lôi cuốn của những lạc thú và sử dụng đúng mức những của cải trần thế. Nhờ đó con người làm chủ được các bản năng tự nhiên và kiềm chế các ham muốn lệch lạc trong giới hạn chính đáng. Tiết độ chính là cách trung hòa các cảm xúc, không thái quá cũng không bất cập, nhờ vậy mà nhận chân được đâu là những dục vọng lệch lạc cần phải kiềm chế, đâu là những năng lực thiện hảo cần phát huy: “Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức Tin, đức Mến và đức nhẫn nại” (Tt 2, 2).
Những đức tính nầy được gọi là nhân bản, nghĩa là thuộc về con người. Nhiều người tuy không có niềm tin tôn giáo nhưng vẫn có những đức tính đáng quý nầy. Người Kitô hữu càng cần phải có những đức tính nhân bản đó hơn nữa, vì muốn làm con cái Thiên Chúa thì trước hết phải sống cho ra người. Nhưng tội lỗi đã làm con người bị tổn thương, nên ngoài những nỗ lực tự nhiên nhờ giáo dục, sự kiên trì tập luyện và thực hành trong đời sống, chúng ta còn cần đến ơn Thiên Chúa nâng đỡ nhờ cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.

3.2. Các nhân đức đối thần

Trái lại, các nhân đức đối thần quy chiếu trực tiếp về Thiên Chúa như căn nguyên, động lực và đối tượng. Các nhân đức đối thần là nền tảng và linh hồn của toàn bộ đời sống luân lý. Thiên Chúa ban cho chúng ta những nhân đức nầy để chúng ta có khả năng hành động như con cái Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời đời.




    1. Đức Tin

Đức Tin là một nhân đức nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin tất cả những gì Người nói và mặc khải, cũng như những gì Hội Thánh dạy chúng ta phải tin. Khởi đầu thì đó chỉ là một niềm tin trước thần linh, nhưng nhờ giáo dục và trải nghiệm, niềm tin ngày một kiên định trở thành một nhân đức. Đức Tin là một hồng ân Chúa ban, nhưng đồng thời cũng là sự đáp trả của con người trước hồng ân của Thiên Chúa: “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì đức Tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, và là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa”17. Sự đáp trả ấy mang tính toàn diện, bao gồm cả lý trí, tình cảm và hành động cụ thể: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17). Và người môn đệ Chúa Kitô còn phải can đảm làm chứng và truyền bá đức tin (LG, 42) như đòi hỏi cần thiết để được cứu độ: Tuyên xưng đức tin trước mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc (tuyên xưng và chối bỏ: Mt 10, 32-33; Người công chính sống nhờ đức tin: Rm 1, 17; đứng vững trong đức tin mà chống cự: 1Pr 5, 9).
b) Đức Cậy

Đức Cậy là nhân đức nhờ đó chúng ta khao khát Nước Trời và sự sống vĩnh cửu như hạnh phúc của đời mình, tin tưởng vào các lời hứa của Chúa Kitô, và phó thác vào ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần. Con người ta sống không thể không có hy vọng, mà sống nhờ hy vọng. Nhưng điều quan trọng là hy vọng vào ai, hy vọng cái gì, và làm thế nào để đạt tới? Hy vọng của Kitô hữu không chỉ là hạnh phúc trần thế, nhưng là chính Thiên Chúa, là Nước Trời và sự sống vĩnh cửu (x. Cl 1,5). Người Kitô hữu ý thức rằng tự mình không thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu ấy, nhưng phải nương tựa vào Chúa. Đức Cậy là cái neo chắc chắn bền vững của tâm hồn, là vũ khí bảo vệ chúng ta trong cuộc chiến thiêng liêng, và mang lại cho chúng ta niềm vui ngay giữa những gian truân thử thách (x. Rm 12,12). Lời cầu nguyện vừa diễn tả vừa nuôi dưỡng đức Cậy, nên chúng ta cần phải đi sâu hơn mỗi ngày vào đời sống cầu nguyện (x. Rm 5, 4-5).


c) Đức Mến

Đức Mến là nền tảng của Kitô giáo: Mến Chúa yêu người (x. Mt 22, 37-39). Đức Mến là nhân đức nhờ đó con người yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Chúa, và vì yêu mến Thiên Chúa, con người sẽ yêu mến người thân cận như chính bản thân mình (Mt 22, 39). Đức Mến được coi là mối dây liên kết tuyệt hảo (Cl 3,14), là linh hồn của mọi nhân đức, là sự viên mãn của lề luật, là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức: “Hiện nay đức Tin, đức Cậy và đức Mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức Mến” (1Cr 13,13). Chúa Kitô là gương mẫu cao cả nhất thể hiện đức Mến: Ngài đã chịu chết cho con người được sống, Ngài dạy yêu cả kẻ thù, vì Ngài yêu mến con người ngay lúc con người còn thù nghịch với Thiên Chúa. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta yêu thương như Ngài (Mt 5,44), và đón nhận người bé mọn nghèo hèn như đón nhận chính Ngài (Mt 25, 40-45).
Khi con người đã đón nhận nhân đức cao quý này từ Thiên Chúa, rồi duy trì và phát triển thì cũng chính là lúc con người vươn tới tự do đích thực, để được hưởng hạnh phúc đời đời bên thánh nhan Thiên Chúa: “Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức Tin và đức Mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1Tm 1, 14); “Quả thế, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức Mến mà phục vụ lẫn nhau (Gl 5, 13).

  1. Tình yêu bản thân


Trong giới răn trọng nhất yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình”18 thì chúng ta ở đâu? Thưa chúng ta vừa là chủ thể vừa là đối tượng của tình yêu: chúng ta yêu Chúa, yêu tha nhân và yêu bản thân mình. Tình yêu bản thân là một đòi hỏi căn bản, được khắc sâu trong bản tính con người. Nếu bản thân mình mà không yêu thương, tôn trọng, bồi đắp thì làm sao mà có lòng yêu thương tha nhân được? Có yêu bản thân mình mới yêu được mọi người xung quanh! Khi dạy “yêu tha nhân như chính mình”, Chúa Giêsu đương nhiên chấp nhận tình yêu bản thân và lấy nó làm đối chiếu cho tình yêu tha nhân. Nhưng phải yêu bản thân một cách đúng mực và có trách nhiệm thì mới có thể lấy bản thân mình làm đối chiếu cho tình yêu đối với tha nhân. Đừng tìm đáp ứng hết mọi nhu cầu bản thân, hãy cầu nguyện và suy nghĩ để biết nhu cầu nào là cần thiết và nhu cầu nào là nên buông bỏ.

  1. Tình yêu giữa các môn đệ


Khi nói những lời từ biệt cuối cùng, Chúa Giêsu trao cho các môn đệ giới răn mới về một mức độ đỉnh điểm của tình yêu, cũng là dấu hiệu căn tính của người môn đệ: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Mọi người sẽ cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con có lòng yêu thương nhau19. Các môn đệ là những người thay lời đổi ngôi cho Chúa Giêsu thì tình yêu của họ đối với nhau phải phát triển đến mức hoàn hảo như tình yêu mà Chúa Giêsu đã yêu họ: “yêu nhau như Chúa yêu mình”, không lấy mình làm qui chiếu nữa, song lấy Chúa Kitô làm mẫu mực. Chúng ta là những nhà đào tạo, tình yêu thương hiệp nhất của chúng ta đối với nhau ảnh hưởng rất quan trọng trên các ứng sinh của chúng ta, cũng như trên những người chung quanh mà chúng ta phục vụ. Lời trách móc nặng nề nhất có thể nêu lên chống lại chúng ta là chúng ta không thực hành điều mình công bố và dạy cho người khác.

  1. Phương thế thực hiện


Giáo dục nhân bản Kitô Giáo là nhằm việc nên thánh, do đó ngoài việc thực hành các nhân đức đối thần, đối nhân và đối ngã, chúng ta phải kêu xin Chúa Thánh Thần ban các hồng ân và hoa trái thiêng liêng giúp chúng ta dễ dàng sống theo sự hướng dẫn của Người. Bảy ơn Chúa Thánh Thần là:
Ơn Kính Sợ là hồng ân giúp chúng ta không dám làm bất cứ điều gì khả dĩ làm mất lòng Chúa: cậu bé Saviô dốc lòng thà chết chứ không phạm tội trọng; mẹ vua thánh Louis luôn nhắc nhở con thà mẹ nhìn thấy con chết trước mắt mẹ hơn là thấy con phạm tội trọng mất lòng Chúa; và để bảo vệ đức trinh khiết của mình, Maria Goretti bảo Alexander không được làm thế, Chúa không muốn, sa hoả ngục đó. Như thế, điều quan trọng là làm sao gây nên ý thức sợ tội, vì con người ngày nay bị đánh mất cảm thức về tội, nhất là trong một xã hội gian dối vì thiếu vắng Thiên Chúa. Chính vì vậy, thành công của công việc đào tạo Kitô giáo, nhất là đào tạo linh mục và tu sĩ, là biết làm cho người thụ huấn có được lòng kính sợ Thiên Chúa, không dám phạm tội mất lòng Chúa.
Ơn Đạo Đức giúp chúng ta nhận ra mối tương quan yêu thương giữa chúng ta với Thiên Chúa, và mối tương quan yêu thương giữa chúng ta với mọi người, trong tinh thần siêu nhiên và đức Tin.
Ơn Suy Biết giúp chúng ta có thể đánh giá các sự vật ở trên bậc thang giá trị đích thực. Đừng hiểu lầm lời mời gọi quyết liệt từ bỏ cha mẹ để đi theo Ngài của Chúa Giêsu “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết” hay “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa20. Chúa không bao giờ bảo chúng ta ghét cha mẹ, gia đình hay bản thân, nhưng là biết đặt nó vào đúng vị trí của nó trên bậc thang giá trị, ví dụ chúng ta có bổn phận mến yêu thảo kính cha mẹ, nhưng cha mẹ lại không thể được đặt cao hơn Chúa và tình yêu đối với Chúa.
Ơn Sức Mạnh giúp chúng ta can đảm vượt lên những chướng ngại để chọn lựa như Chúa muốn và sống theo ý Chúa. Thánh nữ Françoise de Chantal khi đã góa chồng và nuôi dạy bốn người con trưởng thành, gặp thánh François de Salle và nhất quyết muốn đi tu, bốn đứa con nằm dài trên lối đi ngăn cản, bà đã can đảm tay cầm khăn vừa gạt nước mắt vừa bước qua từng người con để từ bỏ gia đình ra đi sống đời tu trì và đã lập nên dòng Visitadines.
Ơn Lo Liệu giúp chúng ta tìm ra những phương thế và cách sống nào thích hợp nhất để thực hiện điều Chúa muốn, đúng theo bậc sống của mình.
Ơn Thông Hiểu đưa chúng ta vào sự thật viên mãn khi đọc Lời Chúa21. Nhiều người có thói quen xin ơn Chúa Thánh Thần mỗi khi giảng hay dạy giáo lý và khuyên bảo: Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục tác động, biến đổi và thánh hóa tâm hồn con cùng tâm hồn những người sẽ nghe con, xin Chúa dùng môi miệng con mà nói điều Chúa muốn nói. Có thế, thì bài giảng hay bài giáo lý mới đưa Lời Chúa vào thực tiễn cuộc sống và biến đổi cuộc sống được.
Ơn Khôn Ngoan mang lại ơn chiêm niệm, cảm nếm được sự dịu ngọt và khôn ngoan của Thiên Chúa.22 Thánh Phaolô kể lại việc ngài đã được ơn này như thế nào: không còn biết đến thế giới vật chất này nữa, không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian nữa, “ở trong thân xác hay ngoài thân xác” ngài đều không biết23. Cụ già Simêon được ơn này lúc bồng Chúa Hài Nhi trên đôi cánh tay cằn cỗi của mình, mà lòng mãn nguyện thốt lên “xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an, vì mắt tôi đã được nhìn thấy Ơn Cứu độ.”
Chúa Thánh Thần tăng sức cho chúng ta. Chúng ta hãy luôn trung thành và ngoan ngoãn nghe theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, vì “chính ơn Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta có khả năng thi hành sứ mạng và củng cố chứng tá của chúng ta”24. Truyền thống Hội Thánh cũng nói đến 12 hoa trái của Thần Thánh: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết (Gl 5,22-23). Nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến kiện toàn những gì Ngài đã thương khởi sự cho chúng ta, với chúng ta và qua chúng ta cho tha nhân, đặc biệt cho những người chúng ta có trách nhiệm đào tạo.


  1. NHÂN BẢN ĐỜI TU

  1. Nhận định tổng quát


Khi khấn, nhất là khi khấn trọn đời, chúng ta cam kết trung thành cho đến chết, cho dù hoàn cảnh cuộc sống ơn gọi có thế nào đi nữa. Đào tạo trưởng thành nhân bản đời tu là đào tạo lòng tín trung trong con đường dâng hiến, luôn mạnh mẽ, cứ phía trước mà tiến lên. Chúa Giêsu đã yêu thương chọn gọi chúng ta và Ngài sẽ yêu thương chúng ta cho đến cùng. Nhưng liệu chúng ta sẽ tín trung cho đến cùng được không? Không có gì có thể tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô. Vậy có cái gì hay có người nào có thể tách biệt Chúa Kitô ra khỏi tình yêu và cuộc sống của chúng ta không?
Kinh Thánh nói đến sự kiên trì như điều kiện để tín trung cho đến cùng. Dĩ nhiên để được kiên trì và tín trung trong đời sống và sứ vụ ơn gọi, chúng ta không thể tránh khỏi những sự khốn khó, vì Chúa gọi chúng ta đi con đường thập giá theo Ngài. Nhưng trong sự khốn khó đó, chúng ta có lời hứa đầy hy vọng của Chúa. Muốn kiện toàn đời sống và sứ vụ ơn gọi thì lòng trung tín cũng vừa là điều kiện vừa là thành quả. Chúng ta hãy nghe chính miệng Chúa Giêsu nói: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ thì cũng bất lương trong việc lớn25. Thánh Phaolô khích lệ: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng26. Còn Thư Do Thái căn dặn: “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt27.

  1. Các chiều kích của lòng trung tín


a. Trung Tín với Chúa và với Giáo Hội

Khi tuyên khấn, chúng ta công khai long trọng thưa với Chúa trong tay Bề trên trước sự chứng kiến của Thẩm quyền Giáo Hội và Cộng đoàn. Chúng ta ký kết với Chúa một giao ước, một hợp đồng, một cam kết trọn đời. Thiên Chúa là Đấng Trung Tín và Ngài yêu cầu chúng ta trung thành với Ngài, hằng ngày, trong đời sống thường ngày của chúng ta. Ngài tiếp tục nói rằng Ngài vẫn luôn trung thành, ngay cả lúc chúng ta bất trung với Ngài. Với lòng thương xót, Ngài không bao giờ mệt mỏi đưa tay ra để nâng chúng ta lên, khuyến khích chúng ta tiếp tục cuộc hành trình, quay về và nói với Ngài những yếu đuối của chúng ta, để Ngài có thể ban cho chúng ta sức mạnh. Đây là cuộc hành trình thực sự: luôn bước đi với Chúa, ngay cả những lúc yếu đuối, ngay cả trong tội lỗi của chúng ta”28.
Vậy tôi đã trung tín với Chúa như thế nào? Chúa có là ưu tiên và là chóp đỉnh trên bậc thang giá trị của tôi không? Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, thế tôi có để ai hay cái gì tách Đức Kitô ra khỏi tình yêu của tôi không? Đức Kitô có thật sự là đối tượng duy nhất của lòng trí tôi không? Tôi có trung tín với Giáo Hội và giáo huấn của Giáo Hội là nhiệm thể mà Chúa Kitô là đầu không?
b. Trung Tín với Dòng và với Chị Em

Khi tuyên khấn, chúng ta cam kết sống theo Hiến Chương, Nội Quy, Đặc Sủng, Linh Đạo và Sứ Vụ của Dòng, cùng với chị em đồng chung lý tưởng; đồng thời cam kết trao gởi cuộc đời mình cho Dòng dìu dắt, vui vẻ đón nhận những gì Dòng cần đến vì sứ vụ và công việc của Dòng, dù đôi khi công việc và sứ vụ ấy nằm ngoài tầm tay của mình. Chúng ta đem vào Dòng những khả năng, sở thích sẵn có hay nhờ Dòng mà đã học hành thủ đắc được, đồng thời đặt để những khả năng và sở thích đó tùy thuộc Bề Trên Dòng sắp đặt sử dụng, chấp nhận sự bất định của đời tu: được sai đến nơi mình không muốn, ở với người mình không ưa, làm việc mình không thích, với lòng tín trung và vâng lời, coi đó như là Thánh Ý Chúa.

Trong ý thức và bổn phận xây dựng đời sống chung, chúng ta được đòi hỏi thương yêu bênh vực chị em vì thanh danh của Dòng, của chúng ta và của chính những chị em ấy; cũng như phải đối đầu với họ vì những suy nghĩ hay hành động trái ngược với đời tu, với Dòng, với chị em của họ nữa. Vậy chúng ta đã sống, đã làm thế nào? Lý tưởng nên thánh có luôn là động lực đời sống chúng ta không? Khi chưa khấn, chúng ta quảng đại đón nhận tất cả như hồng ân. Khấn rồi, chúng ta có còn luôn sẵn sàng đón nhận sự điều động, sai phái của Bề trên với tinh thần siêu nhiên, đồng trách nhiệm hay thoái thác và đặt điều kiện? Chúng ta có thực sự yêu thương liên đới với chị em hay chỉ lo vun vén cho bản thân, theo chủ thuyết ích kỷ “mackênô” (mặc kệ nó), sống chết hay dở mặc ai?

c. Trung Tín với Lời Khấn Vâng Phục

Lời khấn Vâng Phục là lời khấn khó nhất và quan trọng nhất giúp chúng ta giữ được trọn vẹn hai lời khấn Khó Nghèo và Khiết Tịnh, vì nó chạm tới tự do, bản ngã và ý riêng của con người chúng ta. Quả vậy, ĐTC Phanxicô nói: “Đức vâng phục, xét như là lắng nghe ý muốn của Thiên Chúa, trong sự thôi thúc nội tâm của Chúa Thánh Thần, được Giáo Hội chứng thực, ngang qua các trung gian nhân loại – là các đấng bề trên-29. Phải có một tinh thần đức tin siêu nhiên mạnh mẽ mới lãnh hội được tính cách huyền nhiệm của thánh ý Chúa và vâng phục ý muốn của Chúa qua Bề Trên cách triệt để được, như gương mẫu vâng phục của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, vì thánh ý Chúa luôn vượt quá mọi lý lẽ của trí óc con người.


Từ bỏ ý riêng là chết cho chính mình không dễ lắm đâu, vì không phải chỉ trong chốc lát, song trong từng phút giây của cuộc sống mỗi ngày suốt đời, mà chẳng bao giờ chúng ta biết trước được cái gì Chúa và Bề trên sẽ yêu cầu. Vâng lời như thế đòi hỏi sự sẵn lòng để ra một bên mọi sự vì Chúa, rộng mở tâm hồn để đi trên con đường Chúa chỉ định. Đi cho tới cùng, vâng lời đòi hỏi chúng ta nhượng bộ mọi sự cho Chúa, coi vâng lời Bề Trên như diễn tả trọn vẹn sự lệ thuộc vào Chúa và Hội dòng: trí khôn, con tim, ý muốn, và cả đời sống mình nữa. Sự vâng lời như vậy cần đến hy sinh trong đức tin, với lòng mến yêu cao độ, coi Chúa là Tất Cả, và tìm Chúa hơn là công việc của Chúa. Chúa Giêsu Kitô ‘đã tự hạ mình, vâng phục cho đến chết, chết trên Thập giá’. ‘Mầu nhiệm Chúa Kitô là một vâng phục sinh hoa trái, đời sống thánh hiến cũng vậy, vâng phục là biểu trưng cho đường lối của Chúa Kitô’.
Vậy chúng ta đã vâng lời như thế nào? Chúng ta tìm theo ý riêng mình hay ý Bề trên và ý Chúa? Trong những trường hợp khó khăn tế nhị, chúng ta có cùng Bề trên cầu nguyện để tìm ý Chúa không? Chúng ta có biết và tin tưởng rằng Bề Trên có kinh nghiệm trong việc tìm ý Chúa cho mình, cho những quyết định trên cộng đoàn và trên mỗi thành viên không? Lại nữa Bề trên có được ơn đoàn sủng, ơn phân định đặc biệt của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không có không? Chúng ta có thực sự tìm Chúa hơn tìm bản thân chúng ta, tìm công việc của Chúa hơn công việc của chúng ta, và tìm Chúa hơn công việc của Chúa không? ĐTC Phanxicô nói: “Một đức vâng lời trưởng thành và quảng đại đòi hỏi các con phải dính kết trong lời cầu nguyện với Chúa Kitô, sống tinh thần phục vụ và học vâng lời qua đau khổ. Sẽ không có con đường tắt: Chúa mong muốn tâm hồn chúng ta trọn vẹn, điều đó có nghĩa là chúng ta không được bám dính” và “phải đi ra khỏi chính mình” để càng ngày càng tốt hơn30.

d. Trung Tín với Lời Khấn Khó Nghèo

Khi khấn Khó Nghèo, chúng ta hứa từ bỏ mọi tư hữu của cải, đặt mọi sự làm của chung, kể cả mạng sống cùng những tri thức, tài năng, đức độ trong sự tùy thuộc vào Dòng, chấp nhận chịu mọi chi phối và đón nhận từ Dòng mọi sự. ĐTC Phanxicô nói: “Sự nghèo khó dạy chúng ta biết liên đới, chia sẻ và bác ái, được diễn tả trong sự tiết độ, giản dị và niềm vui về điều chính yếu, đề phòng các ngẫu tượng vật chất vốn làm mờ tối ý nghĩa đích thực của cuộc sống… Sự nghèo khó lý thuyết không được ích gì. Sự nghèo khó được học biết bằng cách chạm đến thân xác của Chúa Kitô nghèo khó nơi những người hèn mọn, bệnh tật, trẻ em… Đức Nghèo Khó xét như là việc vượt quá mọi thói ích kỷ, dạy chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng, và hiểu rằng chúng ta xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa không phải bằng những phương tiện nhân loại, mà trước tiên bằng chính sức mạnh ân sủng của Chúa, Đấng đang hành động xuyên qua sự yếu đuối của chúng ta31. Ngài còn nhấn mạnh: “Nghèo đói không phải luôn là vật chất, có một sự nghèo đói tinh thần đang bám lấy con người hiện đại: nghèo nàn tình yêu, khao khát sự thật và công lý… Quả thật, cái nghèo nàn lớn nhất là sự thiếu vắng Chúa Kitô, và chúng ta đã làm được quá ít ỏi cho con người khi chúng ta chưa đem Chúa Giêsu đến cho họ32.

Vậy chúng ta đã hiểu thế nào về Lời Khấn Khó Nghèo và sự khó nghèo đích thực? ĐTC thúc giục: “Các con đừng bao giờ mệt mỏi tỏ lòng xót thương, đừng xấu hổ khi phải ân cần với người cao tuổi. Hãy phân phát cho mọi người Lời Chúa mà chính các con đã vui mừng nhận lãnh”… Thật đau lòng khi cha nhìn thấy một linh mục hay một nữ tu lái các mẫu xe mới nhất, các con không thể làm điều này được. Một chiếc xe là cần thiết để làm rất nhiều công việc, nhưng xin vui lòng chọn một cái khiêm tốn hơn. Nếu các con thích một chiếc xe hào nhoáng, thì chỉ cần suy nghĩ đến bao nhiêu trẻ em đang chết đói trên thế giới”33. Ngài cũng nói rằng điện thoại thông minh mới nhất hoặc những đồ dùng thời trang không phải là con đường đưa tới hạnh phúc.

Nghèo không phải là không có gì, nhưng là dùng mà không quá bám dính đến như nô lệ: tiền bạc là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu. Chớ gì trong khi đòi hỏi tinh thần nghèo khó bằng cách giao nộp mọi thứ tiền bạc, các vị hữu trách biết lo liệu mọi sự cần thiết cho chị em, nhất là khi phải đi ra ngoài, để chị em khỏi mắc lỗi vì phải thủ lại một số nào đó phòng khi bất trắc. Điều này các Dòng hoạt động chắc phải lưu ý hơn. Vật chất chúng ta không có bao nhiêu, chớ gì chúng ta không nghèo tình thương, tình liên đới chị em, nhất là không nghèo Lời Chúa và chính Chúa, và luôn sẵn sàng đem chia sẻ cho người khác.

Khi gặp các tu sĩ trong cuộc thăm viếng mục vụ Hàn Quốc, ĐTC Phanxicô nói: “Trong đời sống tận hiến, đức Khó nghèo vừa là “bức tường” vừa là “bà mẹ.” “Bức tường” vì nó bảo vệ đời sống tận hiến, “mẹ” vì nó giúp mình lớn lên và dẫn mình đi trên con đường ngay thẳng”… Các tu sĩ đã khấn khó nghèo mà lại sống giàu có thì họ sống một đời sống đạo đức giả, họ làm thương tổn tâm hồn các tín hữu và làm cho Giáo hội bị nhận chìm… Thật nguy hiểm khi sống theo lối sống trần tục, lối sống chỉ đặt hy vọng vào các phương tiện của con người, hủy đi chứng tá của ơn khó nghèo mà Chúa Giêsu Kitô đã sống và đã dạy chúng ta”.

e. Trung Tín với Lời Khấn Khiết Tịnh

Khi khấn Khiết Tịnh, chúng ta dâng trọn trái tim, dâng trọn cuộc đời cho Chúa và tìm cách làm đẹp lòng Người, như thánh Phaolô nói: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia sẻ. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng34. Qua lời khấn, chúng ta ký kết với Chúa một giao ước nhiệm hôn35 và đòi hỏi phải có sự chung thủy. Người đàn bà đời thường muốn nếm sự mặn mà của tình bạn, sự nồng nàn của tình yêu, khao khát trải nghiệm sự ngọt ngào bên người yêu, hưởng sự âu yếm của hôn phu và những an ủi khả giác. Trong sâu thẳm của lòng mình, chúng ta cũng có như vậy, nhưng chúng ta đã tự nguyện khước từ chúng, để chọn một tình yêu cao hơn, trọn vẹn hơn cho Chúa và các linh hồn. ĐTC Phanxicô nói: “đức Khiết Tịnh là một đặc sủng quý giá, nó mở rộng tự do trao hiến cho Thiên Chúa và tha nhân, với sự hiền lành, lòng nhân từ, sự gần gũi của Chúa Kitô. Sự khiết tịnh vì Nước Trời cho thấy đời sống tình cảm nằm trong một sự tự do chín chắn và trở thành dấu chỉ của thế giới sắp đến để luôn làm rạng ngời tính tối thượng của Thiên Chúa… một đức khiết tịnh phong nhiêu sinh ra những người con thiêng liêng trong Giáo Hội36.


Tuy đi tu, chúng ta vẫn không thôi là con người, và cuộc sống luôn có những trắc trở cần phải tỉnh thức, vì chung quanh chúng ta luôn có những cạm bẫy bủa giăng, rình rập. Chúng ta sẽ sa bẫy, nếu không có cái nhìn Đức Tin mạnh mẽ vào sự hiện diện của Chúa, không dán mắt vào Đấng chúng ta kết ước, thì khả năng đi tìm niềm an ủi khả giác sẽ bùng lên trong tâm trí và ước muốn, nhất là những lúc gặp phải thử thách buồn phiền, cám dỗ, yếu đuối, như thánh Phaolô thú nhận Có ai trong anh chị em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối; có ai trong anh chị em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt37 và Ngài nhắc nhở “ai tưởng rằng mình đang đứng vững coi chừng kẻo ngã38.

Vậy chúng ta đã làm gì để trung tín trong Lời Khấn Khiết Tịnh? Chúng ta có dùng mọi biện pháp siêu nhiên cũng như tự nhiên để giữ mình không? Chúng ta có quan tâm năm yếu tố cần thiết để giữ mọi mối tương quan được hài hòa, quân bình và an toàn không? Đó là nơi chốn gặp gỡ, thời gian và thời lượng, khoảng cách thể lý và tâm lý, sự có mặt của những người thứ ba, nhất là sống sự hiện diện khuất ẩn nhưng rất thực của Chúa. Vì thế, ĐTC Phanxicô căn dặn: “Khiết tịnh là biểu hiện tâm tình tận hiến duy nhất cho tình yêu của Chúa, là tảng đá của tâm hồn chúng ta. Chúng ta tất cả đều biết một sự hiến thân riêng tư của mình sẽ đòi hỏi như thế nào. Các cám dỗ trong lời khấn này đòi hỏi chúng ta phải khiêm tốn tin tưởng vào Chúa, cảnh giác và kiên định39.

Ngài nhắc nhở: “Đức Khiết tịnh, Nghèo khó, Vâng lời trở thành một chứng tá vui vẻ của tình yêu Thiên Chúa trong cách chúng ta bám trụ vững vàng trên tảng đá của lòng thương xót… Chỉ khi nào chứng tá của chúng ta vui vẻ, thì chúng ta mới lôi cuốn được giáo dân đến với Chúa Kitô; niềm vui này là ơn phúc được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện, chiêm niệm Lời Chúa, cử hành các Bí tích và sống đời sống cộng đồng. Khi thiếu những chuyện này, thì lúc đó yếu đuối và khó khăn xuất hiện, nó làm đen tối niềm vui mà chúng ta đã từng biết một cách mật thiết ở buổi ban đầu con đường chúng ta đi.”

Chúng ta đã qua một chặng đường khá dài trong đời tu. Liệu chúng ta có cảm nhận được hạnh phúc và quyết tâm theo Chúa cho đến cùng, không hề do dự hay hối tiếc không? Chúng ta hãy nghe lời chia sẻ của ĐTC Phanxicô về chặng đường 60 năm theo tiếng Chúa gọi của ngài: “Sau nhiều năm trôi qua với một số thành công, niềm vui, nhưng nhiều năm thất bại, yếu đuối, tội lỗi..., Cha nói với các con điều này: Cha không bao giờ hối tiếc! bởi vì, ngay cả trong những lúc đen tối nhất, trong những lúc tội lỗi, trong những lúc yếu đuối, trong những lúc thất bại, cha luôn luôn nhìn vào Chúa Giêsu và cha tín thác vào Người, và Người đã không bỏ cha một mình. Hãy tín thác vào Chúa Giêsu! Người luôn luôn tiến bước, đồng hành với chúng ta! Người thành tín, Người là người bạn đồng hành trung thành”40.

Chớ gì mỗi người chúng ta cũng cảm nhận được hạnh phúc đi theo Chúa, trung tín với Chúa, với Hội dòng và với chị em qua việc thực thi triệt để ba lời khấn Dòng. Chính hạnh phúc tỏa chiếu nơi niềm vui, ngời lên trong ánh mắt và nụ cười, làm chứng tá cho Nước Chúa và cổ vũ cho những ơn gọi tiếp nối chúng ta. ĐTC Phanxicô bảo chúng ta phải thể hiện niềm vui và một diện mạo nhân bản xuất phát từ việc nhận biết Chúa Giêsu. Ngài nói: “Khi bước vào cuộc hành trình suy niệm về Chúa Giêsu Kitô, cầu nguyện và sám hối với Ngài, lòng nhân bản của chúng ta phát triển… Làm thế nào để một tu sĩ thể hiện lòng nhân bản của mình? Thưa thông qua niềm vui, và ngày càng hân hoan hơn nữa! Tôi thật buồn khi nhìn thấy các tu sĩ với khuôn mặt buồn rười rượi. Họ có thể mỉm cười, nhưng đó là một nụ cười giả tạo như những nụ cười của tiếp viên hàng không. Không! Chúng ta hãy cho thấy nụ cười hân hoan đến từ niềm vui nội tâm nhé?41



Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta luôn tín trung suốt đời, cho đến cùng, với Chúa, với Giáo Hội, với Hội dòng, với Chị Em, trong việc thực thi cách khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu ba lời khấn dòng Vâng Lời, Khó Nghèo và Khiết Tịnh mà chúng ta đã tuyên khấn.
  1. Những tâm tình không thể thiếu


Trước hết là tâm tình CÁM ƠN: cám ơn Chúa đã tạo dựng chúng ta từ hư vô thành hiện hữu trong thời gian. Ngài lại đã kêu gọi chúng ta theo Ngài sống đời thánh hiến, với bao nhiêu hồng ân biến đổi mỗi ngày. Cám ơn tổ tiên ông bà cha mẹ và gia đình huyết tộc đã sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người, rồi quảng đại hiến dâng chúng ta cho Chúa và Giáo Hội. Cám ơn Mẹ Hội Thánh và Mẹ Hội dòng, qua các Bề trên hữu trách và các chị em, là gia đình thiêng liêng gồm nhiều thế hệ tuổi đời và tuổi tu, đã đón nhận, chọn gọi và đào tạo chúng ta nên người nữ tu. Cám ơn tất cả mọi người, Bề Trên, bề dưới cũng như chị em bạn bè, đã, đang và sẽ tiếp tục thông cảm, hy sinh, thương yêu để nâng đỡ chúng ta trên hành trình dâng hiến cho đến cuối cuộc đời trần thế. Cám ơn tất cả những ai vì vô tình hay hữu ý, kể cả các hoàn cảnh xã hội thăng trầm, đã gây nên những thử thách đau khổ, hầu nung đúc cho cuộc đời làm người, làm con Chúa và làm người tu sĩ của chúng ta được như ngày hôm nay. Những gì chúng ta có được hôm nay là nhờ ơn Chúa và công lao của rất nhiều người.
Tiếp đến là tâm tình XIN LỖI: xin lỗi Chúa vì chúng ta đã nhận lãnh bao nhiêu hồng ân của Chúa, ơn phần hồn ơn phần xác, mà có khi chúng ta đã không sử dụng hết và cho nên, lại có khi còn có thể phá hư ơn Chúa vì yếu đuối tội lỗi nữa. Xin lỗi cha mẹ và gia đình huyết tộc vì chúng ta đã không làm chi đền đáp được công ơn, mà lời cầu nguyện có khi cũng còn thiếu sót hoặc lơ là. Xin lỗi mọi người thân yêu trong gia đình thiêng liêng là Mẹ Hội dòng, Bề Trên và Chị Em về những thiếu sót trong bổn phận, trong ứng xử, trong tính tình, có khi đã trở nên thánh giá nặng hơn, bắt người khác phải vác, nhất là trong việc nêu gương sống cao độ ba lời khuyên Phúc Âm: Vâng Lời, Khó Nghèo và Khiết Tịnh. Xin lỗi tất cả những ai mà chúng ta đã không làm gương sáng, lại có khi còn gây gương mù gương xấu, hẹp hòi ích kỷ, ghen tương đố kỵ, thành kiến. Xin lỗi tất cả những ai mà bản thân chúng ta vì yếu đuối hoặc vì tính tình hay thiếu hiểu biết và khả năng nên đã lỗi bác ái, cảm thông và công bằng, khiến họ phải mắc lỗi hay chịu đau khổ, có khi mất cả ơn gọi, vì là người sống đời thánh hiến, chúng ta có trách nhiệm liên đới và sẽ không lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục một mình, mà còn kéo theo nhiều người khác nữa 42.
Và rồi tâm tình THA THỨ: Có lỗi mà phải đi xin lỗi làm hòa là lẽ tất nhiên, nhưng mà nhiều khi cũng thật là khó! Ấy vậy mà Chúa lại đòi hỏi phải đi xin lỗi làm hòa với người có lỗi với mình, cả khi đang dâng của lễ lên Chúa (x. Mt 5, 23-26). Tự sức mình, chúng ta không làm nổi, cần phải có ơn Chúa tác động mạnh. Vì khi chưa tha thứ hay không thể tha thứ được, tâm hồn chúng ta trĩu nặng, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta tha thứ để tâm hồn được nhẹ nhàng, thanh thản. Thánh Syrilô dạy: Thiên Chúa thấu suốt lòng dạ con người… Nếu bạn có bất bình với ai, hãy tha thứ đi. Bạn đến để đón nhận ơn tha tội thì bạn cần phải tha thứ cho kẻ xúc phạm đến bạn43. Và ĐTC Phanxicô cũng nói: “Hãy tha thứ, hãy cho thấy sự kiên nhẫn. Thật không phải dễ dàng sống trong một cộng đoàn. Ma quỷ lợi dụng sự khác biệt của anh chị em, để dẫn đến bất hòa chia rẽ. Hãy nâng niu tình bạn, tình yêu mến nhau giữa anh chị em. Một tu viện không phải là một luyện ngục, mà phải là một gia đình… Chúng ta hãy suy nghĩ và xin ơn tha thứ về những gì chúng ta làm cho bạn bè, cho người khác, là chúng ta làm cho Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu ở trong họ.”
Mỗi người hãy lắng lòng nghe tiếng Chúa và tiếng lương tâm mình, xét mình và viết vào giấy điều/người mình muốn xin lỗi nhưng khó xin lỗi, điều/người mình muốn tha thứ nhưng khó tha thứ, điều/người mình đang cảm thấy cực lòng, điều/người mình không thể tha thứ, cả điều mình cảm thấy khó tha thứ cho mình, cứ dằn vặt hận mình tại sao lại làm thế, tại sao lại để xảy ra như thế, viết ra cả tội khó chừa, tính xấu khó bỏ. Buông bỏ và trao phó cho Chúa tất cả. Không cho ai xem, và cũng không ai tò mò xem người khác đã viết cái gì. Chúng ta cầu nguyện trước thánh giá và sẽ đốt cho chúng cháy tan đi trong lửa, như xoá hết dấu vết trong tâm hồn và ký ức chúng ta, để cho quá khứ qua đi, vì mình không thể thay đổi được quá khứ, với mục đích tạo cho tâm hồn mình được thanh thản, nhẹ nhàng, an vui, đổi mới trong ơn thánh và tình thương tha thứ của Chúa Phục Sinh44. ĐTC Phanxicô khẳng định: “Thiên Chúa không bao giờ biết mệt khi tha thứ, Ngài giữ chúng ta trong vòng tay ôm ấp mới, là vòng tay có khả năng tái tạo chúng ta cùng giúp chúng ta tự mình đứng dậy một lần nữa và tiếp tục cuộc hành trình. Bởi vì đây là cuộc sống của chúng ta: không ngừng đứng lên và tiếp tục cuộc hành trình của mình”.
Sau nữa là tâm tình CẦU CHÚC: Cầu chúc mọi người đã tiến bước qua từng ngày mới để đi thêm một bước mới quan trọng trên hành trình dâng hiến, có người chỉ làm một nữ tu tầm thường an nhàn với bổn phận được Bề trên giao phó, có người phải vất vả lo lắng để chu toàn nhiệm vụ cùng với chị em, có người phải gánh vác trọng trách làm Bề trên, ngày đêm lao tâm khổ tứ, lo cho lợi ích phần hồn phần xác của chị em sao cho đúng ý Chúa và đẹp lòng Chúa. Cầu chúc mọi người đều nhận được phần thưởng của lòng quảng đại cảm thông thương xót của Chúa, hơn là bởi những gì mình đã làm được, luôn cảm nhận hạnh phúc và quyết tâm theo Chúa cho đến cùng, không hề do dự hay hối tiếc. Chính hạnh phúc tỏa chiếu nơi niềm vui ngời lên trong ánh mắt và nụ cười làm chứng tá cho Nước Chúa sẽ cổ vũ cho những ơn gọi tiếp nối chúng ta trong tương lai, bởi sự hấp dẫn của tình thương gắn bó với Dòng và với chị em hơn là những cách thế chiêu dụ dành giật ơn gọi. Vâng, xin cầu chúc mỗi người những điều tốt đẹp nhất.
Cuối cùng là tâm tình CẦU NGUYỆN: Mỗi ngày qua đi và một ngày mới đến là thời gian thuận tiện để nhìn lại đời người sinh, lão, bệnh, tử, không ai tránh được không qua những chiếc cầu này, để tận tâm nâng đỡ nhau: không có gì chắc chắn sẽ đến như cái chết, không có gì công bằng và nghiêm ngặt cho bằng cuộc phán xét chung thẩm, không có gì cay đắng và khủng khiếp cho bằng hỏa ngục, và không có gì dịu ngọt hạnh phúc cho bằng thiên đàng. Chúng ta phải cầu nguyện, vì nếu Chúa không ban ơn và thực hiện thì bao lời cầu chúc tốt đẹp mấy cũng vô hiệu. Cầu nguyện cho các thân nhân, ân nhân huyết tộc và thiêng liêng đã qua đời được an hưởng bình an hạnh phúc trong Nước Chúa. Cầu nguyện đặc biệt cho những ai mà đường đi dưới thế đã gần cùng gần hết, biết đâu là trong năm nay, biết tận dụng thời giờ còn lại để hòa giải với Chúa và với mọi người trước khi quá muộn, ngõ hầu được tâm hồn bình an thanh thản. Chúng ta phải luôn cầu nguyện, vì với Chúa không gì là không thể; chính Chúa Giêsu đã dạy “Nếu không có Thầy thì các con chẳng làm được chuyện gì” và chúng ta ai cũng từng trải nghiệm “mưu sự tại nhân thành sự tại Thiên”. Đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, chúng ta cầu nguyện để được nhận lãnh dồi dào ân sủng Lòng Chúa Thương Xót, biến lòng thương xót của Chúa thành lối sống của chúng ta, và thực thi lòng thương xót của chúng ta cho nhau và cho mọi người, nhất là những người kém may mắn hơn chúng ta về vật chất, thể chất cũng như tinh thần, tri thức và thiêng liêng.

  1. Nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô


Người tu sĩ, nhất là tu sĩ Dòng Mến Thánh Giá, lấy Chúa Kitô làm đối tượng duy nhất của lòng trí mình thì càng ngày càng phải nỗ lực nên giống Chúa Kitô hơn, vì đó là tầm mức trưởng thành cao nhất. Chúng ta có thể mô tả và khai triển sự trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô qua các chữ trong CHRIST:
Cross (Thập Giá)

Đời sống người tu sĩ khởi đi từ một con đường, con đường Thập Giá bước theo Chúa Giêsu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Hội Thánh không bao giờ che giấu thập giá, nhưng tán dương và suy tôn thập giá. Không thể xem thập giá như là một gánh nặng, nhưng đúng hơn như là cây gậy nâng đỡ. Cuộc sống tu sĩ càng cắm rễ sâu vào thập giá thì càng sinh nhiều hoa quả. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ tìm cách thoát khỏi bóng thập giá, thoát khỏi khía cạnh hy sinh trong cuộc sống và tác vụ của mình.


Humanity (Nhân Tính)

Khi đọc và suy niệm Tin Mừng45, chúng ta kinh ngạc về nhân tính của Chúa Giêsu, được biểu lộ cách rõ ràng nhất nơi lòng trắc ẩn của Ngài. Lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu khiến Ngài liên kết với mọi người: người bệnh tật và đau khổ, người nghèo đói và bị áp bức, kẻ tội lỗi cũng như người thánh thiện46. Tu sĩ không thể vô cảm hay lãnh đạm trước những nỗi đau buồn và những cuộc chiến đấu của đồng loại. Sống tác vụ với người bệnh tật và đau khổ, người nghèo đói và thiếu thốn cách nào đó làm chúng ta nên mềm mại và dịu dàng, khiến chúng ta trở nên nhân bản hơn và nên giống Chúa Kitô hơn.


Reconciliation (Hoà Giải)

Chúa Kitô đến hoà giải con người với chính mình, với người khác, với Thiên Chúa và với tất cả thế giới được tạo thành. Tu sĩ cũng phải là sứ giả của sự hoà giải bằng cách nhận thức sâu xa rằng mình vẫn mang nơi chính mình những hạt giống tội lỗi và ích kỷ nên cần phải hoán cải và hoà giải trước tiên. Đồng thời tu sĩ cũng nỗ lực giúp tha nhân khiêm tốn và trung thực nhìn nhận sự dữ trong lòng để họ được hoà giải với chính mình, với người khác, với tạo thành và với Thiên Chúa, hầu trở nên sứ giả bình an và hoà hợp trong Hội Thánh cũng như trong cộng đồng xã hội.


Interiority (Đời Sống Nội Tâm)

Các Tin Mừng miêu tả Chúa Giêsu như là một con người cầu nguyện trong mối hiệp thông sâu xa nhất với Chúa Cha47. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng chính gương mẫu của Ngài. Lòng gắn bó của Ngài với con người cũng xuất phát dồi dào từ mối hiệp thông của Ngài với Chúa Cha. Người tu sĩ phải vun trồng đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện, chiêm niệm trong hành động, khi sống trong trần gian nhưng không thuộc về trần gian. Phải yêu mến cầu nguyện, dành ưu tiên cho việc cầu nguyện và hằng ngày dành thời gian chất lượng cho Chúa: sống trong tình hiệp nhất thân mật và liên lĩ với Chúa Cha, qua Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, bảo vệ và củng cố ơn gọi của mình, gia tăng các nhân đức khác và tăng trưởng trong lòng nhiệt thành đem mọi người về cho Chúa.



Servanthood (Phục Vụ như Tôi Tớ)

Ở Á Châu, người tu vẫn còn được tôn trọng và kính phục giữa người tín hữu, ngay cả giữa xã hội. Cần phải làm sáng tỏ, sửa lại và thay đổi nhãn quan này theo gương mẫu Chúa Giêsu, Đấng “đã đến không phải để được phục vụ nhưng là phục vụ và hiến ban mạng sống hầu cứu chuộc muôn người”. Tinh thần phục vụ của một tôi tớ vô dụng, kẻ chỉ làm bổn phận mình48 sẽ làm cho tu sĩ vui vẻ chấp nhận và quảng đại dấn thân trong những nhiệm vụ được trao phó, với nhận thức rằng mình không được thống trị cộng đoàn nhưng phải trao tặng cho cộng đoàn tinh thần phục vụ vị tha của mình.
Teacher (Thầy Dạy)

Việc dạy Lời Chúa sẽ hiệu quả nhờ chính đời sống cầu nguyện và chiêm niệm của người rao giảng. Việc rao giảng hiệu quả là một hoa trái khác của việc cầu nguyện cá nhân. Trước khi dạy dỗ và rao giảng cần phải có kinh nghiệm bản thân về Lời Chúa, như cô Maria đã ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Ngài, thấm nhuần Lời Chúa, để không rao giảng về chính bản thân hay những ý kiến riêng của mình, nhưng rao giảng Tin Mừng với lòng trung tín trọn vẹn.


  1. Người môn đệ trưởng thành (Theo Rev. Ron Rolheiser, OMI):


a) Sẵn sàng đảm nhận những phức tạp cuộc sống với lòng cảm thông: Sự trưởng thành làm cho chúng ta nhìn nhận, thông hiểu và chấp nhận sự phức tạp này với lòng cảm thông như Chúa Giêsu.  
b) Nỗ lực biến đổi ghen tương, giận dữ, chua cay, thù ghét: Khi đối diện với ghen tương, giận dữ, chua cay, thù ghét, chúng ta làm như máy lọc nước, giữ độc tố bên trong và chỉ cho nước tinh khiết chảy ra ngoài.

c) Mềm dẻo chịu đựng, không để tâm hồn chai cứng: Khiêm nhường chịu đựng và tha thứ là phép thử định rõ mức độ trưởng thành và chân tướng của chúng ta.

d) Tha thứ: Nghĩ cho cùng, việc chúng ta phải đấu tranh nhiều nhất là hành động tha thứ. Tha thứ cho những ai đã làm chúng ta tổn thương, tha thứ cho bản thân vì những khiếm khuyết, và tha thứ cho cả Thiên Chúa vì Ngài đã để chúng ta như thế này. Đừng để mình chết đi với một tâm hồn chua cay và bất bao dung.

e) Sống biết ơn: Luôn sống trong tâm tình biết ơn là thánh thiện. Biết ơn Chúa, biết ơn cuộc đời, biết ơn con người.

f) Chúc phúc hơn là chúc dữ: Chúng ta trưởng thành khi chúng ta biết tìm đến tha nhân và nhìn họ với cặp mắt chúc lành hơn là chúc dữ, khen ngợi hơn là chê bai.

g) Sống minh bạch và lương thiện: Sự trưởng thành không có nghĩa là chúng ta trở nên hoàn hảo hay vô tội, nhưng có nghĩa là chúng ta sống lương thiện và chân thật minh bạch nhìn nhận những thiếu sót bất toàn của mình.

h) Cầu nguyện bằng cảm xúc lẫn theo nghi thức: Chúng ta trưởng thành khi biết mình bất lực và biết nhờ đến sức mạnh ân sủng của Thiên Chúa, cũng như khi biết cầu nguyện với tha thân để cho toàn thế giới cũng sẽ cầu nguyện như vậy.

i) Mở rộng vòng tay: Chúng ta trưởng thành khi biết thương xót như Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đón nhận tha nhân một cách đại kết, liên tôn, không kỳ thị phân biệt lập trường tư tưởng.



j) Sống đúng vị thế của mình, và để Thiên Chúa làm phần của Ngài: Sự trưởng thành dựa trên việc chấp nhận sự thật này là chúng ta không thể bảo đảm sự sống, an toàn, ơn cứu rỗi, hay sự tha thứ cho chính mình và những người mình yêu thương. Chúng ta chỉ có thể làm hết sức mình nhiệm vụ được giao và tin như vậy là đủ, chính Thiên Chúa sẽ lo cho phần còn lại.
Bài đọc thêm: HỌC LÀM NGƯỜI

Đại sư Tịnh Vân có một người đệ tử, sau nhiều năm đèn sách, học đại học, thạc sĩ, rồi tiến sĩ, cuối cùng cũng đã hoàn thành luận án tốt nghiệp nên vô cùng mừng vui trở về thưa với Đại sư: Thưa thầy, nay con đã có học vị tiến sĩ rồi, sau này con phải học những gì nữa? Ngài Tịnh Vân bảo: Học làm người. Học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.
Thứ nhất học nhận lỗi: Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, mà tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.
Thứ hai học nhu hòa: Răng rất cứng và lưỡi lại rất mềm; đi hết cuộc đời, răng người ta lại rụng hết mà lưỡi vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn trong việc tu tập.
Thứ ba học nhẫn nhục: Nếu nhẫn được một chút thì thế gian này sóng yên bể lặng (một sự nhịn chín sự lành); lùi một bước, biển rộng trời cao (tiểu sự bất nhẫn tất loạn đại mưu – việc nhỏ không nhịn sẽ hỏng việc lớn). Nhẫn vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.
Thứ tư học thấu hiểu: Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu, thông cảm lẫn nhau để giúp đỡ lẫn nhau. Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương – Giận thì đánh, quạnh thì thương. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?
Thứ năm học buông bỏ: Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, khi không cần dùng nữa thì đặt nó xuống; lúc cần đặt xuống mà không đặt xuống sẽ giống như kéo một túi hành lý nặng nề. Năm tháng cuộc đời có hạn, biết buông bỏ thì mới thoải mái được.
Thứ sáu học cảm động: Nhìn thấy ưu điểm của người chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người chúng ta nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu. Trong cuộc đời có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm chúng ta cảm động, nên chúng ta cũng hãy nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.
Thứ bảy học sinh tồn: Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh, không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm; đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.

Trong các mối tương quan giữa các cá nhân, gia đình và cộng đoàn, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đề nghị 7 lời khuyên:



  • Hãy ứng xử một cách tế nhị khi cảm giác khó chịu xuất hiện, vì nếu không, chúng sẽ chặn đứng cuộc đối thoại.

  • Cố gắng diễn tả ra những gì người khác đang nghĩ, mà không làm mất lòng họ.

  • Cẩn thận lựa lời mà nói để không gây xúc phạm, đặc biệt khi thảo luận vấn đề khó khăn.

  • Khi đưa ra ý kiến cá nhân, đừng bao giờ nhằm trút tức giận và gây tổn thương.

  • Đừng dùng giọng điệu trịch thượng để chế giễu, tố cáo và xúc phạm người khác.

  • Tập quen nhìn nhận tầm quan trọng thực sự của người khác, cố gắng cảm nhận được những bận tâm sâu xa nhất của họ và khởi đầu cuộc đối thoại từ chính những bận tâm này.

  • Coi những bất toàn là điều bình thường; tha nhân quan trọng hơn những điều nhỏ nhặt gây phiền toái cho chúng ta. Tình yêu chưa hoàn hảo không có nghĩa là tình yêu ấy không chân thực.

Những điều giúp mình trưởng thành hơn

  • Đừng ngắt lời người khác, dù đó là chủ đề mình không thích, thậm chí đã biết trước rồi.

  • Đừng cố chứng minh quan điểm của mình đúng bằng cách nhấn giọng cách phản cảm trước mặt bao người khác, song hãy tỏ ra hào hiệp và khiêm tốn.

  • Hãy khiêm tốn và tôn trọng cảm xúc, ý kiến của người khác.

  • Mọi người đều xứng đáng được mình tôn trọng, dù là họ làm ngành nghề gì hay vị trí của họ đứng ở đâu trong xã hội.

  • Điều quan trọng nhất chúng ta có thể học chính là trách nhiệm của mình. Khi có chuyện không hay, nhiệm vụ của mình là tìm cách vượt qua nó.

  • Người nổi giận đầu tiên thường là kẻ thua cuộc. Nếu cảm thấy đang tức giận, hãy thay đổi chủ đề hoặc ngừng nói chuyện. Trong cơn giận dữ, chúng ta có thể thốt ra những từ sẽ khiến chúng ta phải hối tiếc sau này.

  • Đừng bao giờ ngừng học hỏi, mình không bao giờ đứng ở đỉnh cao của kiến thức cả.

  • Không ngừng cố gắng thay đổi bản thân và tận dụng giây phút hiện tại.

  • Người biết lắng nghe và thấu hiểu người khác luôn được tôn trọng hơn một kẻ hay ba hoa.

  • Luôn luôn nói về điểm mạnh của bạn bè, nhưng đừng làm cho bản thân mình kém đi.

  • Tranh cãi với một kẻ ngốc chỉ chứng minh rằng có hai kẻ ngốc.

  • Chỉ cần chân vẫn đứng vững trên mặt đất, đừng xem mình quá nhẹ, cũng đừng xem mình quá lớn.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến kiện toàn tiến trình trưởng thành nhân bản, trưởng thành nhân bản Kitô giáo và trưởng thành đời tu mà Giáo Hội và thế giới đang mong đợi nơi chúng ta. Amen.



Hai




TRƯỞNG THÀNH NHÂN BẢN ĐỜI TU
QUA VIỆC SỐNG TỐT CÁC ĐẶC TÍNH
CỦA ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN


Đời Sống Cộng Đoàn vừa có một thuận lợi rất lớn, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn một nguy cơ không nhỏ cho đời sống huynh đệ. Thuận lợi bởi sự kiện chúng ta lìa xa gia đình tự nhiên, cha mẹ anh chị em thân thuộc, bỏ lại hết mọi sự ở bên ngoài, đến sống trong Dòng như một gia đình mới, phải ngày càng gắn bó thương yêu nhau, cùng nhau cộng tác với ơn Chúa để xây dựng, củng cố, bảo vệ và phát triển lên mỗi ngày. Nhưng nguy cơ là nếu chúng ta không vượt lên nổi những khác biệt, hiểu lầm, xung khắc hay va chạm nhỏ nhặt hằng ngày, thì cuộc sống đời tu sẽ trở nên nặng nề đau khổ, vì phải luôn luôn giáp mặt với cùng những con người và những vấn đề ấy.


Vì thế, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu các khía cạnh đa dạng của đời sống cộng đoàn, soi mình vào các nguyên lý và nguyên tắc để vượt lên các khó khăn, khủng hoảng, chấp nhận nhau hầu sống tốt và triển nở đời sống cộng đoàn, như ĐTC Phanxicô nói: “Cuộc đời là một hành trình dài, và cũng là một hành trình mà ta không thể đi một mình. Cần đồng hành với anh chị em trước nhan Chúa”49.
Để vừa tạo nên những dễ dàng vừa tránh những hệ lụy đáng tiếc cho đời sống cộng đoàn, chúng ta cần ưu tiên xét đến khả năng sống cộng đoàn của mỗi ứng sinh: chúng ta không chọn nhau, mà cũng không được loại trừ nhau; trái lại phải chấp nhận nhau và thích nghi với nhau, cùng nhau dấn thân bền vững cho một lý tưởng chung. Ai không có khả năng sống cộng đoàn mà không biến đổi và tiến bộ được thì nên từ chối, dù người đó có nhiều khả năng đi nữa, vì nếu không, người đó sẽ khổ khi sống trong cộng đoàn và cũng làm cho cộng đoàn phải khổ. Đừng thương hại một người mà để cho nhiều người phải khổ.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng vội thất vọng loại trừ, vì với ơn Chúa và sự cố gắng của mỗi người, đời sống cộng đoàn sẽ giúp mài giũa các mũi nhọn và cạnh sắc của các cá nhân để có thể sống hòa hợp với nhau, như đá sỏi được va chạm và mài giũa mà nên trơn láng trong dòng suối, hay như cây rừng nhờ sống gần nhau mà thân được thẳng ngay vươn lên trời cao.

(Một đời người một rừng cây)

  1. BẢN CHẤT CỦA CỘNG ĐOÀN


Trong dụ ngôn người gieo giống, chúng ta quan tâm trước hết đến đất tiếp nhận hạt giống: Đều là hạt giống tốt, nhưng kết quả sẽ tùy thuộc vào loại đất tiếp nhận hạt giống50, mà chính Chúa Giêsu đã giải thích ý nghĩa của dụ ngôn: “Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả”51.

Tâm hồn mỗi người chúng ta có thể là vệ đường, sỏi đá, bụi gai hay đất tốt. Người khác hay chính chúng ta có thể làm cho chính mình trở nên như thế, và chúng ta cũng có thể làm cho tâm hồn và cuộc đời người khác trở thành vệ đường, đá sỏi, bụi gai hay đất tốt. Cũng thế, cộng đoàn chúng ta là loại đất nào đây? Vệ đường? đá sỏi? bụi gai? Hay đất tốt? để gieo trồng, nâng đỡ và nuôi lớn ơn gọi. Dù loại đất khác nhau (các truyền thống tu đức), nhưng phận vụ của đất vẫn là nuôi lớn, nâng đỡ, gìn giữ và phát triển các cây trồng cho đến sinh hoa kết trái. Cộng đoàn không tồn tại như cứu cánh cho chính mình, nhưng được xây dựng để đáp lại một lời mời gọi của Chúa trong từng thời điểm lịch sử cá biệt và phải trung thành với lời mời gọi đó. Mọi thành viên cộng đoàn cùng chia sẻ một viễn ảnh chung được nâng đỡ bởi sự hiểu biết thần học đời tu, nuôi dưỡng bởi sự tuân thủ luật tu và thực hành tu đức. Việc thực hành truyền thống của Hội dòng cung cấp cơ hội cho các thành viên của cộng đoàn chăm sóc lẫn nhau và bộc lộ cam kết dấn thân của mình. Ứng sinh nào không trở thành đất tốt cho hạt giống ơn gọi được sinh hoa kết trái sẽ bị đào thải. Còn cộng đoàn nào không phải là mảnh đất tốt nuôi dưỡng hạt giống ơn gọi thì phải xem lại lý do tồn tại của nó.
Các thành viên cộng đoàn phải thấu hiểu ý nghĩa mình thuộc “thân mình Chúa Kitô”, có sứ mệnh đi vào thế giới rao giảng Tin Mừng, tỏ rõ là môn đệ trung tín, luôn tự thách đố để trở nên giống những tín hữu của Giáo Hội sơ khai, lấy việc yêu thương lẫn nhau làm “dấu chứng là môn đệ của Chúa Kitô”; đồng thời nghe lời khuyến dụ của Chúa Kitô mà đến với “những người rốt hết”, những người “đau yếu chứ không phải những kẻ mạnh khoẻ”, nhờ đó trở nên hiện thân tình yêu của Chúa cho thế giới, bằng việc “đi ra ngoại biên” để gặp gỡ lương dân và rao giảng Tin Mừng cho họ, như ĐTC Phanxicô năng nhấn mạnh.
Tân Ước đầy những chỉ thị về đời sống cộng đoàn. Ý niệm đời sống tu trì như một cơ cấu sống động không phải là mới mẻ: Các tín hữu của Giáo Hội sơ khai được mô tả như một thân mình mà Chúa Kitô là đầu, trong đó mỗi cá nhân thành viên “đều nên một với nhau”52.
Mỗi cộng đoàn ý thức rằng mình là một cơ cấu sống động ở trong một cơ cấu sống động lớn hơn là Giáo Hội hoàn vũ, trong đó, vì tính cách liên đới, cộng đoàn Dòng góp phần vào sức mạnh và nghị lực của cộng đoàn lớn hơn ấy. Và khi có sự độc hại nào trong cộng đoàn chúng ta thì nó cũng tác động nguy hại đến toàn thể Giáo Hội. Vì là một thân thể, mỗi người chúng ta có thể bị đau yếu bởi sự đầu độc của óc kỳ thị, sự ham muốn tiền bạc, quyền lực, nỗi sợ hãi, tính ác độc của con người và những biểu hiện khác của sự nhẫn tâm và hận thù53, là những thứ phải loại trừ dần ra khỏi cộng đoàn tu trì của chúng ta.
Khi bắt đầu cảm nhận tính liên lụy của các mối liên hệ của chúng ta lẫn cho nhau, chúng ta có thể nhận thấy rằng một chuyển động nhỏ có thể tạo nên một thay đổi lớn lao. Đồng thời nỗ lực có những hành động đúng đắn hầu đóng góp vào những thay đổi lớn lao của toàn thể Giáo Hội Phổ Quát của Chúa Kitô, như thánh Phaolô nói: “Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí54.

  1. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CỘNG ĐOÀN

  1. Tính truyền thống và tính thích nghi


Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người có một Hội Thánh xinh đẹp, lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền”55. Lời này có thể áp dụng cho Cộng Đoàn của chúng ta vốn bao gồm những con người dòn mỏng và bất toàn, muốn cùng nhau và giúp nhau đáp lại lời mời gọi phổ quát nên thánh.
Để được vậy, chúng ta phải ra sức cộng tác liên đới với nhau và với ơn Chúa để xây dựng, trân quí bảo vệ và keo sơn gắn bó với Hội dòng, như tâm tình của thánh Phanxicô đối với cái nôi Poóc-xi-un-cu-la của Dòng Anh Em Hèn Mọn. Ngài quý chuộng nơi này hơn mọi nơi khác và truyền cho anh em phải tôn kính nơi này cách đặc biệt, nên thường dặn dò anh em: “Hãy cẩn thận chớ bao giờ rời bỏ nơi này. Giả như người ta có xua đuổi các con ra cửa này, thì hãy đi cửa khác mà trở vào, vì nơi này thực sự là nơi thánh, là nơi ở của Thiên Chúa. Tại đây, lúc khởi đầu, chúng ta chỉ có một ít người và Đấng Tối Cao đã cho chúng ta ngày càng thêm đông. Tại đây, Người đã lấy nguồn sáng khôn ngoan mà chiếu soi tâm hồn những kẻ nghèo của Người. Tại đây, Người đã dùng tình yêu của Người nung nấu ý chí chúng ta. Tại đây, những ai cầu nguyện với tâm hồn sốt sắng thì xin sự gì sẽ được ban cho sự ấy, còn những kẻ xúc phạm đến nơi này sẽ bị trừng phạt nặng nề hơn56.
Noi gương thánh Phanxicô, chúng ta hết lòng yêu mến, xây dựng, phát triển và bảo vệ Dòng của chúng ta qua ba bước thiết yếu này:
Trước hết là trở về nguồn truyền thống lịch sử Dòng, tìm lại đặc sủng và linh đạo sáng lập. Không đào sâu và sống nền tảng thiêng liêng này là mất gốc và sẽ đi trệch đường, mất hướng vì chưa được đâm rễ vững chắc vào đặc sủng và linh đạo của Dòng mình, vốn là những yếu tố làm cho mình ngày càng gắn bó với Dòng, và Dòng ngày càng đầy sức sống. Chúa Giêsu đã rất coi trọng việc xây nhà trên móng đá vững chắc.
Tiếp đến là xét xem trong quá trình thời gian sống và phát triển cho đến nay, Dòng chúng ta đã bổ sung những gì vào đặc sủng và linh đạo sáng lập của mình để thích nghi với các nhu cầu tông đồ và đòi hỏi của thời đại. Và chúng ta đã có được những thuận lợi hay gặp phải những bất lợi nào?
Sau cùng, khi hướng về tương lai, chúng ta xem Dòng mình có thể có những thích nghi nào để tồn tại và phát triển mà không đánh mất căn tính và truyền thống đặc sủng, linh đạo của mình? Chúng ta không thể tồn tại và phát triển nếu không ý thức rõ và giữ vững được căn tính riêng của mình.

Trong tinh thần ấy, ĐTC Phanxicô nhắc nhở: “Hoài niệm quá khứ không phải chỉ liên quan đến việc tưởng nhớ và trân quí các ân sủng của quá khứ; nó còn có nghĩa là rút tỉa từ chúng những nguồn thiêng liêng để có thể đối đầu một cách khôn ngoan và cương quyết với những gì là hy vọng, hứa hẹn và thách đố trong tương lai… Nhìn về quá khứ mà không nghe thấy tiếng gọi của Thiên Chúa trong việc hoán cải trong hiện tại sẽ chẳng giúp chúng ta tiến tới; trái lại, nó chỉ cầm giữ chúng ta lại và thậm chí còn ngăn cản đà tiến bộ thiêng liêng của chúng ta nữa”57.


  1. Mười điều răn của đời sống cộng đoàn


Để xây dựng, bảo vệ và phát triển cộng đoàn Dòng, chúng ta cần chú trọng tới mười điều sau đây:
Một: Không phàn nàn lẫn nhau. Mỗi người đối với nhau phải được coi là quà tặng, là biểu lộ tình yêu và chăm sóc của Chúa cho nhau. Tạ ơn Cha trên trời đã qui tụ chúng ta lại với nhau.

Hai: Đừng quên rằng mỗi người là một dụ ngôn tình yêu và hiệp thông của Chúa Thánh Thần, để làm cho con đường dẫn tới đức tin được dễ dàng hơn cho những ai chưa biết Chúa Giêsu Kitô (chiều kích truyền giáo): Xem kìa, họ yêu thương nhau là dường nào!


Ba: Hãy sẵn sàng từ bỏ chính mình, chấp nhận thánh giá, và vác đỡ thánh giá cho nhau, bởi vì một cộng đoàn đích thực chắc chắn có khả năng từ bỏ và chết đi cho chính mình (chiều kích khổ chế): Ai muốn theo Ta hãy bỏ mình và vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Ta.

Bốn: Cộng đoàn vệ tinh ở tại các địa phương không phải là cộng đoàn duy nhất. Mỗi thành viên đều sống thuộc về Hội dòng và luôn luôn ở trong Hội dòng, ra khỏi nhà nhưng không bao giờ ra khỏi cộng đoàn. Mỗi người sẽ sẵn sàng để được sai đến bất cứ nhà nào của Hội dòng hay đảm trách bất cứ sứ vụ nào Hội dòng trao cho.


Năm: Một cộng đoàn cầu nguyện chung với nhau sẽ luôn ở lại gắn bó cùng nhau: Ở đâu có hai ba người họp nhau cầu nguyện thì có Ta ở giữa họ. Hãy làm cho cộng đoàn sống như “cô dâu” đích thực và luôn cầu nguyện trong sự kết hiệp mật thiết với “Chú Rể Giêsu”. Hãy làm cho cộng đoàn trở nên phản ánh đẹp đẽ của Giáo Hội cầu nguyện, cảm thấy buồn lòng vì sự vắng mặt của một thành viên nào đó khỏi giờ cầu nguyện của cộng đoàn vì bất cứ lý do gì, và đừng quên cầu nguyện cho thành viên vắng mặt ấy.
Sáu: Là con cái của Cha trên trời, chúng ta đừng sống như những người nô lệ, trái lại phải sống với tự do của những người con của Thiên Chúa và là anh chị em của nhau. Không một ai có quyền bẻ gãy tình huynh đệ nền tảng ấy. Trong cộng đoàn, mỗi người được tự do nói và bộc lộ đúng như mình suy nghĩ. Dĩ nhiên lời nói cuối cùng và quyết định tối hậu phải thuộc về Bề Trên. Điều đó sẽ dẫn đến vâng lời đối thoại và trưởng thành trong mối hiệp thông cộng đoàn. Người và ta, trên và dưới gặp được nhau, hiểu được nhau thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng, tốt đẹp và hạnh phúc.
Bảy: Tất cả phải tham dự vào sự sống còn của cộng đoàn. Mỗi người đều có quyền nói lên ý nghĩ và quan điểm của mình trong sự tôn trọng lẫn nhau vì ích lợi chung của cộng đoàn. Nguyên lý bổ trợ phải được coi trọng và áp dụng. Hãy thực thi tự do của con cái và ngôn sứ của Chúa, cả khi việc đó có thể làm cho bản thân phải đau khổ, miễn là nó làm gia tăng sự hiệp thông huynh đệ và phát triển cộng đoàn.
Tám: Đừng bỏ quên người nghèo, hãy mở rộng cửa nhà đón họ, biến họ thành những vị khách được ưu đãi của cộng đoàn, hãy dành cho họ một chỗ trong nhà, một chỗ nơi bàn ăn của chúng ta. Chúa Giêsu đến viếng thăm chúng ta qua họ. Chớ để bao giờ phải chịu đựng nỗi hối hận vì đã xua đuổi Chúa ẩn mình nơi người cùng khổ.
Chín: Hãy là một cộng đoàn gần gũi với dân chúng. Thường xuyên đối thoại với họ bằng cuộc sống và hành động, như Chúa Giêsu đã từng làm và ĐTC Phanxicô thường nhấn mạnh việc đi ra gặp gỡ. Tuy nhiên, đừng đánh mất căn tính của chúng ta khiến người ta khó chịu: “Tu gì vậy mà tu?” Hãy hòa đồng chứ không đồng hóa: Dân chúng cần đến chúng ta trong tư cách chúng ta là tu sĩ.
Mười: Hãy tránh mọi hình thức cá nhân chủ nghĩa để khỏi đánh mất những đặc tính tối ưu của tinh thần hiệp thông. Đối với một tu sĩ, một việc nhỏ mọn được thực hiện trong tinh thần hiệp thông có giá trị và ý nghĩa hơn một kế hoạch lớn lao với tinh thần cá nhân chủ nghĩa. Hiệp nhất trong sứ vụ là một dấu hiệu hùng hồn của Nước Chúa. Hãy sống tinh thần Hội dòng là một đại gia đình gồm nhiều thế hệ, luôn biết đón nhận nhau, chấp nhận những khác biệt của nhau, yêu thương tha thứ, quên bỏ lỗi lầm và xây dựng cho nhau: “Dập dìu kẻ trước người sau, sức riêng một ít góp vào lợi chung”. (Con Đường Giêsu)


  1. CỘNG ĐOÀN GIẢ DANH VÀ CỘNG ĐOÀN ĐÍCH THỰC


Chắc chắn chúng ta đã có ít nhiều kinh nghiệm thuộc về một nhóm, một tổ ở trường học, ở giáo xứ hay khu xóm, nói chung là một cộng đồng. Nếu chúng ta đã không thể nói với bất cứ ai khác rằng có những lúc chúng ta cảm thấy khiếp đảm, lạc lỏng và không được chấp nhận, không tự tin cảm nhận được là chính mình, không tin tưởng rằng nhóm có thể chấp nhận con người thật dễ bị tổn thương và khuyết điểm của mình, thì chúng ta đã ở trong một cộng đoàn giả danh, có tiếng là cộng đoàn chứ chưa phải là một cộng đoàn đích thực.
Cộng đoàn giả danh bề ngoài tỏ ra như một nhóm đồng nhất và dấn thân, các thành viên cảm thấy bị áp lực phải làm rạng danh nhóm và giá trị của nhóm, nghĩa là có tính cách “đồng phục” hơn là “đồng tâm”. Nhưng cộng đoàn giả danh không phải là nơi cho các thành viên được an toàn để tỏ ra khác biệt, bất đồng, có thể chất vấn về kế hoạch và đường lối của nhóm. Các thành viên nào không làm rạng danh nhóm bị xa tránh, bị loại trừ, lắm khi bằng những đường lối tế nhị và mưu mô nhằm triệt hạ người khác quan điểm với mình, nhất là đối với người có đầu óc độc tài. Các khác biệt tuyệt đối không được phép và bị coi như phản kháng, xung đột, chống đối. Mỗi người không được đánh giá theo những khác biệt hay độc đáo của mình. Nhóm có tính cách loại trừ hơn là bao gồm. Trong một nhóm đội như thế, người “khôn ngoan” thường lẫn tránh va chạm, vì họ không cảm nhận được an toàn, nên nhiều khi phải “giả dại qua ải”.
Trái lại, trong một cộng đoàn đích thực, chúng ta cảm thấy thoải mái như ở nhà mình, và có thể sống là chính mình, không phải che giấu khuyết điểm hay nết xấu gì. Một nhóm đội làm cho mỗi người cảm nhận được là chính mình, thì chắc chắn nhóm đội đó sẽ khiến chúng ta cảm thấy được an toàn. Chúng ta có thể nổi giận hay bất đồng ý kiến, nhưng có thể hòa hợp được với những thành viên khác biệt mình. Chúng ta cảm thấy được lắng nghe, và chúng ta cũng thực sự quan tâm đến các thành viên khác. Chúng ta cởi mở lắng nghe họ vì chúng ta được quan tâm. Chúng ta không cảm thấy bị thúc ép phải ở trong nhóm, trái lại chúng ta cảm thấy được tự do thoải mái có mặt ở đó và trải nghiệm được ân lành. Đó quả là một cộng đoàn đích thực.
Mọi cộng đoàn đều có một căn bản tinh thần và được tổ chức nhằm cho công ích. Chúng được bắt rễ từ một mối quan tâm. Trong một khảo luận về linh đạo của đời sống công cộng, nhà hoạt động xã hội và là nhà giáo Parker Palmer nói rằng ngay cả các cộng đồng trần thế coi mình như những cơ cấu xã hội bên ngoài cũng có một thực tại nội tâm. Trước khi một cộng đồng có thể được xây dựng như một thực tại xã hội hay chính trị thì nó phải được đón nhận như một dữ kiện tinh thần (linh đạo). Nếu chúng ta muốn khôi phục lại ý nghĩa của đời sống chung thì chúng ta phải bắt đầu với chiêm niệm nội tâm chứ không phải với hoạt động bên ngoài. Chúng ta có thể nói đó là ơn linh hứng và đặc sủng của Chúa Thánh Thần ban cho người sáng lập.
Những cộng đoàn lấy đời sống tinh thần làm trọng tâm sẽ là nơi mà các thành viên có thể hiệp thông với nhau cách thành thật và không sợ hãi; giải quyết các xung đột cách riêng tư với nhau trong nội bộ nhóm; học biết yêu thương lẫn nhau, nhờ đó có thể yêu thương kẻ khác và mở ra với những người xa lạ. Những cộng đoàn như thế là an toàn, bao gồm và đích thực. Mọi cộng đoàn đích thực là quà tặng của ân sủng. Một số cộng đoàn là tự phát, những cộng đoàn khác được cố ý xây dựng nên. Một số cộng đoàn cao tuổi đời, những cộng đoàn khác còn mới mẻ. Một số cộng đoàn lớn lên tại chỗ, số khác được du nhập với một nguyên do. Dù mục đích minh nhiên của các cộng đoàn có khác nhau thì người ở trong các cộng đoàn đó cũng kinh nghiệm một cái gì đó giống nhau: đó là sự trải nghiệm về ân sủng của Chúa.
Quà tặng của cộng đoàn đến từ ân sủng của Chúa cũng giống như quà tặng tình yêu. Chúng ta không thể muốn người nào đó phải yêu chúng ta được. Nhưng khi chúng ta sống dễ yêu thì chúng ta sẽ được yêu, và khi chúng ta được yêu thì có nhiều cách để hỗ trợ tình yêu đó, và tình yêu là nền tảng để xây dựng cộng đoàn. Đúng như chúng ta học các nguyên tắc để giúp đôi nam nữ có cuộc hôn nhân phong phú thì chúng ta cũng học những nguyên tắc tương tự để xây dựng cộng đoàn. Nhiều khi việc phải lòng yêu ai xảy ra không có chủ ý, cũng như chúng ta có thể trải qua các kinh nghiệm ân phúc thật bất ngờ trong cộng đoàn, vì một khi yêu thì người ta trở nên tận tụy với nhau.
Trong một cộng đoàn đích thực, các thành viên có thể hiệp thông với nhau cách trung thực, dễ dàng giải quyết các xung đột (khác biệt), luôn biết yêu thương cộng đoàn, yêu thương lẫn nhau và yêu thương cả những người xa lạ. Cộng đoàn đích thực là công trình đang tiến triển để phản ánh sự hoàn hảo của Tin Mừng. Hoàn hảo đây có nghĩa là đang ở trên chính lộ và đang tiến triển cách tiệm tiến nhẹ nhàng trên con đường nên thánh. Các cộng đoàn đích thực luôn biến đổi, đang trở thành, chứ không bao giờ đã đạt tới đích. Chẳng hạn như một cộng đoàn có thể là một nhóm bao gồm, trong đó các thành viên tín nhiệm nhau đủ để là chính mình, dù họ có những khó khăn trong việc giải quyết vài sự xung đột. Nhưng nhóm ý thức về khó khăn đó và cùng trăn trở với nó để tìm cách giải quyết. Cộng đoàn đó đang đi đúng đường về một cộng đoàn lớn hơn là Hội Thánh được Chúa Kitô yêu thương và thánh hóa, mà thánh Phaolô nói đến: “Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp, lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền58.

  1. CỘNG ĐOÀN TRUYỀN THÔNG CHÂN THÀNH VÀ KHÔNG SỢ HÃI


“Tôi có thể là chính tôi ở đây!” Người có thể nói như vậy là nói về một cộng đoàn đích thực. Sự có thể có tiếng nói là một khía cạnh tiên quyết của truyền thông. Nhờ nói và lắng nghe mà chúng ta mạc khải chính mình cho nhau. Người ta không biết chúng ta đang nghĩ gì hoặc muốn nói gì cho đến khi nghe chính chúng ta lên tiếng nói lên. Trong cộng đoàn đích thực, chúng ta có thể nói lên cả câu chuyện đời của chúng ta.
Chúng ta có thể trở nên kinh nghiệm hơn trong việc nói lên điều gì chúng ta muốn. Nhờ được lắng nghe, chúng ta có thể biết đầy đủ hơn chúng ta là ai. Những từ “truyền thông”, “cộng đồng” và “hiệp thông” có cùng một ý nghĩa như nhau. Khi chúng ta truyền thông, chúng ta đi vào mối liên hệ sâu xa, hiệp thông với người khác. Chúng ta trao ban và lãnh nhận. Chúng ta làm điều đó với tất cả con người - thân xác, trí não và linh hồn - của chúng ta. Chúng ta nghĩ tưởng và cảm nhận nguyên vẹn là chúng ta, chứ không bị tha hóa vì điều người khác nghĩ hay đòi hỏi, ép buộc.
Cộng đoàn tu sĩ có thể được giúp đỡ lớn lao nhờ sự hiểu biết về truyền thông hiệu quả học được từ trong gia đình. Mỗi người nhìn thế giới một cách khác nhau do lăng kính giới tính, chủng tộc, khuynh hướng tính dục, tuổi tác, giai cấp, văn hóa, ngôn ngữ… Được thấu hiểu trong mối liên hệ thân thiết, chúng ta phải không ngừng giải thích chúng ta là ai. Khi chúng ta nhận thức rằng người đối tác của chúng ta thực sự muốn biết về chúng ta, chúng ta sẽ chấp nhận bộc lộ về mình. Trái lại, khi cảm thấy rằng người đối tác của chúng ta chẳng tha thiết gì, chúng ta sẽ cảm thấy bị tổn thương, không được chấp nhận và trở nên cô đơn, khép kín. Các đôi vợ chồng được lớn mạnh trong tình yêu và sự chăm sóc nhau, khi cam kết luôn cố gắng thấu hiểu người kia ngày một hơn.
Sự truyền thông không hiệu quả mà chúng ta thường thấy nơi các đôi vợ chồng cũng giống như trong các cộng đoàn. Sự truyền thông có thể được trợ lực nhờ áp dụng các nguyên tắc dùng để giúp đỡ các đôi vợ chồng: cố gắng hiểu người kia hơn là bắt người kia phải hiểu mình; lưu ý đến những khác biệt của người kia; đánh giá cao cái độc đáo của người kia; và không kết án. Nếu những người trong cộng đoàn không cố gắng thấu hiểu nhau, các vấn đề càng trở nên phức tạp hơn. Trong cộng đoàn thực hành các quy luật này, người ta cảm thấy được an toàn đủ để bộc lộ chính mình. Càng cảm thấy được đón nhận, người ta càng cảm thấy thoải mái và càng sẵn sàng đón nhận người khác.
Tất cả chúng ta đều nhằm tìm kiếm những tương đồng để được cảm thấy như ở nhà mình, bớt lo âu. Chúng ta cảm thấy thiện cảm với những ai cùng tâm thức văn hóa và linh đạo với chúng ta. Tuy nhiên trong ý hướng tìm những người như mình thì lắm khi chúng ta lại không nhìn thấy họ đúng như họ thực sự là, vì chúng ta cứ dán mắt vào những cách thức mà họ giống với chúng ta thôi. Chính vì hành động theo những quan niệm về sự “giống nhau” này, thay vì lắng nghe những “khác nhau”, mà các sự ngộ nhận nổi lên trong cộng đoàn. Truyền thông có lẽ được dễ dàng, nếu thay vì cứ dựng lên những giả định về người khác, ta tự hỏi: “Người đó hiểu thế nào về truyền thống linh đạo của chúng ta? Nó khác thế nào với cách tôi nhìn thấy và trải nghiệm? Cả khi quan điểm thần học của người đó khác quan điểm thần học của tôi thì tôi có thể hiểu gì về điều người đó muốn nói lên?”
Chúng ta không thể nào thực sự hiểu biết lẫn nhau được cho đến khi chúng ta có thể nhìn thấy và đánh giá đúng những khác biệt của nhau. Các cộng đoàn không khoan dung với nỗi lo âu của các thành viên thì các khác biệt sẽ làm gia tăng các vấn đề nghiêm trọng. Và khi các vấn đề đó trở thành kinh niên thì cộng đoàn sẽ bắt đầu trải nghiệm một cảm thức thất bại, chẳng khác gì cảm thức thất vọng và chán nản của đôi vợ chồng trước khi phải thực hiện một cuộc tư vấn tâm lý, nghĩa là không cùng nhau giải quyết được mà cần phải có sự can thiệp của người khác.

Những ai trong chúng ta làm người tư vấn tâm lý trong cộng đoàn đều có nhiều kinh nghiệm trong việc quan sát các cuộc hôn nhân trắc trở. Chúng ta biết sự chán nản của những người trước khi kết hôn tưởng đã yêu đủ để kết hôn tốt đẹp. Một số đôi vợ chồng thất vọng này đã giả định rằng một khi đã phải lòng yêu nhau thì chắc chắn rằng tình yêu phải bền vững mãi. Khi lắng nghe họ, chúng ta nhận thấy rằng một phần quan trọng của vấn đề là họ không có khả năng truyền thông lẫn cho nhau biết thực sự mình là ai và như thế nào, vì trong thời gian đó ai cũng khoe cái tốt và che cái xấu, chỉ nói cái tương đồng mà giấu đi những khác biệt (tốt khoe, xấu che), đến khi thấy được bộ mặt thật thì mới vở lẽ! Họ không thể vượt lên tình trạng quá lý tưởng hóa người kia trong cái nhìn của mình. Tư vấn tâm lý dạy cho họ biết rằng hôn nhân của họ đã không thất bại, đúng hơn là tình yêu của họ chưa lớn lên đủ. Tình yêu trong hôn nhân phải được lớn lên và trưởng thành. Trong tiến trình trưởng thành của tình yêu, đôi vợ chồng phải học truyền thông cho nhau.
Thành viên các cộng đoàn tu lắm khi cũng gặp phải cùng một nỗi chán nản tương tự. Các cộng đoàn đó muốn là những nơi chốn yêu thương, nhưng lại giống như những cuộc hôn nhân thất bại vì vận hành trệch chức năng. Họ đã đi từ tình trạng “say yêu” sang tình trạng “cháy sạch”, hoài nghi và không có tình. Các cộng đoàn không yêu thương có thể trở nên lạnh lùng và vô tâm (sống bên nhau mà như nước mây hững hờ!) theo chủ thuyết mackeno, macketa. Những cộng đoàn đó thường hay xét đoán và không chấp nhận nhau, có thể thân thiện nhưng chỉ là bề ngoài, náo nhiệt nhưng thiếu chiều sâu nội tâm. Những lời than phiền của các cộng đoàn này rất giống với những lời than vãn của những đôi vợ chồng chán nản trong hôn nhân và cáo buộc lẫn nhau về sự thất bại.
Các cộng đoàn trong đó mọi người có thể truyền thông cho nhau là những cộng đoàn có tình yêu trưởng thành. Các cộng đoàn tu cũng giống như các đôi vợ chồng có thể lấy tư vấn tâm lý để khám phá ra cái gì phải làm để giúp cho tình yêu được trưởng thành trong cộng đoàn. Thực ra việc bắt đầu một tiến trình nhằm mục đích giúp các thành viên hiểu nhau hơn để giải quyết các vấn đề là rất quan trọng và có thể khởi đầu sự chữa lành.
Câu chuyện “Nói ra mới hiểu nhau” minh họa cho điều vừa nói: Nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà, còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng canh chừng cửa. Một hôm trâu đi làm về, thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc quá mệt, trâu nổi cáu bảo chó: - Không có ai sung sướng bằng mày, chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự!
Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ với mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu: - Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc, sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự phải cầm canh rất mệt ai đâu có biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được. Đêm đêm trong khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh, họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ?
Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảm của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi: - Đúng là mày cũng không sung sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả.
Khi một cộng đoàn bị rối loạn, xung đột, hay trải nghiệm “hết yêu”, thì nhiều thành viên sẽ không còn thực sự tha thiết trong việc tìm thấu hiểu người khác nữa. Họ muốn được hiểu, nhưng nhu cầu muốn được hiểu của họ lại giữ họ xa khỏi sự hiểu người khác. Mọi người đều có kinh nghiệm ấy trong các cuộc họp cộng đoàn mà sự thấu hiểu nhau thực sự đã không có. Người ta không lắng nghe nhau. Họ nhẩm lại trong đầu và chờ đợi đến phiên họ nói. Mỗi người đều chuẩn bị nói, mà không ai chịu quan tâm đến điều người khác nói. Do đó thật là cần thiết việc học lắng nghe nhau và hiểu nhau khi cộng đoàn bị rối loạn như thế. Lời Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô cần được cất lên để cầu nguyện chung với nhau biết bao!
Cộng đoàn có thể chọn trở nên cộng đoàn yêu thương, làm cho các thành viên dễ dàng hiểu nhau và cộng tác với nhau hơn. Như các bậc phụ huynh học kỹ năng nuôi dạy con làm cho gia đình được hạnh phúc, cộng đoàn cũng có thể học lắng nghe với sự thấu hiểu và sẵn sàng chấp nhận nhau khiến cộng đoàn trở thành nơi an toàn cho mọi thành viên.

  1. CỘNG ĐOÀN VÀ CÁC ÂN BAN TÀI NĂNG

  1. Nhận định


Tất cả mọi ân ban tài năng đều bởi Chúa mà ra: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Chúa ban”59. “Thật vậy, bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?60. “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”61. “Nhận nhưng không, hãy cho đi nhưng không62. Mỗi người đều được Chúa kêu gọi và ban cho một số tài năng nào đó thì phải có trách nhiệm nhận ra và phát triển thêm lên mãi để xây dựng cộng đoàn và đẩy mạnh Nước Trời. Việc sử dụng ân ban tài năng của mình mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Cộng đoàn là nơi đặc biệt giúp mỗi người nhận biết các ân ban tài năng của mình, đã nổi bật ra hay đang tiềm ẩn, vì không ai có được mọi tài năng, nhưng nơi cộng đoàn thì mọi tài năng cần thiết cho sứ vụ đều có mặt.
  1. Các đặc điểm của ân ban tài năng


Nhờ bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều được Chúa kêu gọi và ban cho những tài năng để sống cộng đoàn, trưởng thành kitô, thi hành sứ vụ và nên thánh. Sử dụng cho nên các tài năng Chúa ban là đáp trả lại ơn gọi của mình. Về mặt tri thức thì ai ai cũng đều chấp nhận xác tín đó, nhưng việc nội tâm hóa xác tín ấy thì lại là vấn đề khác. Nhiều người nghĩ họ mới là người xứng đáng với những tài năng đặc biệt để thi thố địa vị của họ trong gia đình, trong cộng đoàn và sứ vụ, nên dễ tự phụ nâng mình lên như “không thể thay thế” và không chịu khám phá tài bồi các tài năng đang tiềm ẩn.
Cộng đoàn phải cố gắng nhận ra các ân ban tài năng đặc biệt của mỗi giai đoạn tuổi đời và tuổi tu, chẳng hạn cùng tìm hiểu xem những người già có thể làm gì để đóng góp với cộng đoàn. Kết luận là các chị già hưu có nhiều thời giờ, có thể cầu nguyện và chầu Thánh Thể liên lỉ thay cho cộng đoàn. Người phụ trách có thể nêu lên cho họ các ý chỉ cầu nguyện cho những nhu cầu và biến cố đặc biệt của Dòng. Có thể trước đó không ai nhận ra và vận dụng ân ban thời giờ và khả năng cầu nguyện của các chị già hưu dưỡng hay ốm đau bệnh tật. Bây giờ chính họ cũng cảm thấy cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn: bản thân họ đang nỗ lực nên thánh từng ngày và góp phần vào lợi ích của cộng đoàn.
Làm cho người khác biết các ân ban tài năng của họ và giúp họ phát huy chúng là một việc bác ái cao độ vừa mang tính cá nhân vừa mang tính cộng đồng. Chúng ta hãy cố gắng nhận ra và gọi tên ân ban tài năng của người khác, cũng như của chính mình. Các tài năng mà Chúa phú ban cho mỗi người sở hữu cần phải được chia sẻ với cộng đoàn, chúng là phương tiện sống ơn gọi và xây dựng Giáo Hội: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh chị em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa: Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”63.
Vì thế, người tu sĩ phải dùng các ân ban tài năng của mình, bằng lời nói và việc làm để nuôi lớn sứ mệnh của cộng đoàn: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm”64. Sứ mệnh chung là làm cho Chúa Kitô hiện diện trong thế giới và nỗ lực phát triển Nước Thiên Chúa. Chúng ta làm thế nào để khích lệ lẫn nhau sử dụng các tài năng của mình hầu phục vụ sứ mệnh ấy? Mỗi người bị bó buộc phải nhận biết và làm phát triển các tài năng Chúa ban. Trách nhiệm cá nhân này được Chúa Giêsu nhấn mạnh trong Dụ ngôn các nén bạc. Trong câu chuyện này, tên đầy tớ đã chôn giấu nén bạc bị khiển trách nặng nề về sự quản lý vô trách nhiệm là “đầy tớ xấu xa và lười biếng!” Nếu đầy tớ ấy phá huỷ hay tiêu mất nén bạc ấy đi nữa thì sẽ thế nào?
Vấn nạn ấy mạnh mẽ khuyến cáo mỗi người chúng ta: Trách nhiệm về các ân ban tài năng Chúa ban vẫn đè nặng trên vai người lãnh nhận. Trách nhiệm ấy kéo theo trách nhiệm phát triển các ân ban tài năng và biện phân xem ở đâu và làm thế nào để chúng được sử dụng tốt nhất hầu phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân: “Vậy ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?... Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” 65.
Sự nhận biết ân ban tài năng sẽ mang lại ý nghĩa và cứu cánh cho cuộc sống. Ý thức về ân ban tài năng của mình là cần thiết để giúp đỡ kẻ khác nâng cao kỳ vọng của cuộc sống họ và cộng tác mở rộng Nước Chúa. Vai trò của cộng đoàn rất quan trọng trong việc khám phá, nhìn nhận và phát triển các ân ban tài năng của mỗi cá nhân. Cá nhân có thể chỉ thấy cách phiến diện ân ban tài năng của mình, nhưng nó sẽ nổi bật lên khi các người khác trong cộng đoàn bồi đắp cho. Và nhờ cách đó, họ giúp mở ra những tài năng trổi vượt đang nằm ẩn bên trong mỗi người.

Các tài năng mà một người sở hữu có thể thay đổi. Chẳng hạn Chị kia làm việc rất thành công với các em thanh tuyển còn bé bỏng trong nhiều năm lại thấy khó khăn và mất nhẫn nại với các em Kinh Viện không còn trẻ con nữa nhưng cũng chưa lớn đủ. Chị không còn thấy hứng thú và bắt đầu nhận thấy ân ban tài năng đào tạo của mình đã thay đổi. Các giai đoạn chuyển tiếp của ơn gọi cũng thế: “Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con”66. Khi suy nghĩ về điều này, chúng ta có thấy tài năng nào đó của mình đã thay đổi không vậy? Và có sẵn sàng chấp nhận những ân ban tài năng đã thay đổi đó không? Điều đó thường xảy ra trong cộng đoàn qua việc thay đổi nhiệm sở và nhiệm vụ theo yêu cầu khách quan của cộng đoàn.


Một trong những khẳng định an ủi nhất về các ân ban tài năng là không ai có hết mọi tài năng, nhưng người này có thể có một số tài năng nào đó mà người khác không có. Đáng tiếc thay có những người ảo tưởng rằng mình có mọi tài năng và kỳ vọng tìm đủ cách giữ mãi vị trí của mình, và hậu quả là không nhìn thấy hoặc không chấp nhận các ân ban tài năng của người khác, ngay cả bao biện ngăn cản không cho các thành viên khác của cộng đoàn phát triển các ân ban tài năng của họ (như tính tham quyền cố vị). Trong khi thành công lớn nhất của người có trách nhiệm là chuẩn bị cho có người sẽ thay thế mình, qua tiến trình bốn bước: - Dạy cho người ta biết làm, - giúp người ta làm khi họ đã biết làm, - để cho người ta làm khi họ đã làm được, - và mình rút lui vì sứ mệnh đã hoàn thành.
Tính khác biệt và bổ túc của các ân ban tài năng là căn bản cho đời sống cộng đoàn và tinh thần hợp tác với nhau, vì chẳng có ai có hết mọi ân ban tài năng trong khi cả tập thể cộng đoàn lại có tất cả. Khẳng định đó giúp chúng ta để ý đến các ân ban tài năng của mình và của người khác, đồng thời làm cho cộng đoàn nhạy bén với các ân ban tài năng vốn có trong các thành viên của mình: “Anh chị em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện”67.

  1. Các loại ân ban tài năng


a. Ân ban tài năng đức tin

Những thời gian thinh lặng trong nguyện cầu, cảm nhận sự hiện diện và tình yêu Thiên Chúa, ân huệ đã lãnh, ơn soi sáng đã nhận, những khoảnh khắc đắm mình trong chiêm niệm,… tất cả đều là những ân ban nổi lên từ đời sống đức tin và từ mối tương quan với Chúa. Các trải nghiệm đức tin này cần được suy ngắm và chia sẻ với người khác, nhờ đó đức tin của cộng đoàn sẽ được gia tăng.


Chứng từ của bà Claire-Emmanuelle, 46 tuổi: “Chính trong cuộc tĩnh tâm mà tôi khám phá ra Thiên Chúa là Tình Yêu! Tôi tiếp nhận, tôi sống và tôi khao khát thứ tình yêu này, Tình Yêu đến từ Thiên Chúa! Tôi bỗng nồng nhiệt ý thức rằng chỉ khi nào tôi mở rộng lòng tiếp rước Thiên Chúa thì Ngài mới đưa tôi vượt qua cõi chết và bước vào sự sống. Điều đó đã thay đổi cuộc đời tôi kể từ ngày ấy: tôi vẫn nguyên vẹn là chính tôi với những yếu đuối và hạn hẹp, nhưng tôi có lòng tin tưởng, dưới cái nhìn của Thiên Chúa, để có thể trao lại cho người khác: tôi giao tế với tha nhân bằng tình yêu và sự tin cậy, tin tưởng khi gặp gỡ và quan hệ với mọi người trong đời sống thường nhật, và tôi được lãnh nhận hết ơn lành này sang ơn lành khác”.
b. Ân ban tài năng tự nhiên

Các ân ban tài năng tự nhiên là những khả năng, những đức tính, những kỹ năng chuyên môn… làm cho mỗi người trở nên độc đáo. Các ân ban tài năng này thay đổi, phát triển và mở rộng khi con người lớn lên, trưởng thành. Khi sử dụng các ân ban tài năng tự nhiên đó, người ta cảm thấy dễ dàng, vui mừng thích thú và thoải mái. Những ân ban tài năng thông thường và đơn giản của cuộc sống là tính tự phát, nhiệt tình, hiếu khách, dễ gần, tế nhị, hài hước, cảm thông, khả năng lắng nghe, khả năng nghệ thuật, thuật lãnh đạo, tính quảng đại, khả năng kỹ thuật, nhạy bén… Các ân ban tài năng tự nhiên cũng có thể bị bỏ quên hay giảm thiểu.


c. Ân ban tài năng từ kinh nghiệm sống

Các kinh nghiệm thường để lại dấu ấn trong cuộc sống của mỗi người. Các ân ban tài năng từ kinh nghiệm sống nổi lên từ cuộc sống dưới hai hình thức: do giáo dục đào tạo hoặc trải qua khủng hoảng và gặp gỡ Chúa. Cần đặc biệt chú ý các kinh nghiệm kèm theo những tổn thương có nhiều biến tố trên tinh thần con người. Qua các tình huống đau đớn và thống khổ này, người ta tìm thấy vài khả năng hay đức tính nổi lên như một hậu quả: “Ai từng chiến thắng mà không hề chiến bại? Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần?“Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn”68. Những ân ban tài năng không chờ đợi này thường được chia sẻ với người cùng trải nghiệm những tổn thương tương tự (những người đồng cảnh thương nhau). Đó là nguyên tắc làm việc của những người cai nghiện: Những người đã từng chiến đấu với bệnh nghiện sẽ quảng đại trợ giúp và đồng hành với các người khác đang vật lộn để lướt thắng cơn nghiện của họ.
Một điển hình khác của loại ân ban tài năng từ kinh nghiệm sống này có thể được tìm thấy trong câu chuyện của một chị kia sắp được đổi tới một cộng đoàn mà chị trưởng có tiếng là khó tính, hay bắt bẻ và làm khổ chị em. Những chia sẻ kèm nước mắt của các chị đã ở trước khiến chị rất trăn trở và lo âu. Chị tìm đến một chị lớn tuổi có tấm lòng nhân hậu và hiểu biết để xin tư vấn. Chị này khuyên chị trước hết nên cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần biến đổi chị lẫn chị trưởng cộng đoàn ấy, rồi hãy quên đi các dư luận kia mà cố gắng sống thật tốt vai trò của một người em, một người con đối với chị trưởng, thật lòng kính trọng, thương yêu và giúp đỡ chị trưởng, thông cảm những khó khăn riêng của chị trưởng, nhẫn nại chịu đựng khi bị chị trưởng mắng mỏ, nghĩ rằng mình có lúc cũng có những cái sai. Chị đã làm theo những gì được tư vấn. Thời gian qua, mọi sự đều biến đổi. Chị em sống với nhau rất tốt và hạnh phúc, không ai nghe một tiếng ca thán nào về phía này lẫn phía kia. Đâu là kinh nghiệm bản thân của chúng ta đã trở thành phương tiện để Chúa chuyển tải cho chúng ta một ân ban mới? Một khả năng thấu cảm với người cùng cảnh ngộ? Ân ban đó là gì và chúng ta làm thế nào để chia sẻ với người khác? Cái bi đát là có tài năng mà không sử dụng đúng tài năng đó. Người Trung Hoa xưa có câu ngạn ngữ: “Nếu bạn cho một người một con cá, người đó chỉ ăn được một ngày. Nhưng nếu bạn cho một cần câu và dạy người đó biết cách câu cá, y sẽ ăn được cả đời”.
Tóm lại, khám phá ân ban tài năng của mình là triệt để đáp lại lời mời gọi của Chúa trong cuộc đời mình. Cộng đoàn là một nhà kho các ân ban tài năng mà Chúa đã đặt ở đó, và các cá nhân có cùng ân ban tài năng thường dễ liên kết với nhau nhắm đến một sứ vụ chung. Tiến trình biện phân các ân ban cung cấp cho các cá nhân cơ hội khám phá ra những con đường đẹp đẽ duy nhất mà Chúa đã làm cho chúng ta nên phong phú. Sự biện phân này cũng làm cho người ta ý thức cao độ rằng các ân ban tài năng của họ là con đường họ sống ơn gọi của mình.


  1. Những trở ngại trong việc nhận biết và phát triển các ân ban tài năng


Hành trình vào những ân ban tài năng không phải là không có những trở ngại và rào cản dọc đường. Dù ước muốn khám phá các ân ban tài năng là thực tế, luôn vẫn có đối kháng và trở ngại khiến các ân ban tài năng không lộ ra một cách trọn vẹn. Các chướng ngại giữ không cho nhận ra các ân ban tài năng riêng biệt của mình. Sự có mặt của các trở ngại có thể tạo nên một sự tê liệt làm nản lòng một người trong tiến trình khám phá và phát triển các ân ban tài năng Chúa ban cho. Có năm trở ngại chung đáng lưu ý cho mọi người:

a. Đức khiêm nhường đặt không đúng chỗ

Do văn hóa và bối cảnh sống, có thể có khuynh hướng tự ti bẩm sinh làm giảm thiểu các khả năng tích cực của một người: tự coi mình không là gì và chẳng làm được gì. Trái lại, phải nhìn nhận các tài năng và đức tính của mình là do Chúa ban để ca tụng lòng tốt của Chúa: “Tôi không là gì và cũng chẳng làm được gì cả, nhưng tôi có là gì và có làm được gì thì tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa”69. Điều đó không hàm ý khoe khoang phô trương những ân ban tài năng cá nhân của mình, vì lòng khiêm nhường đích thực là nhìn nhận sự thật về ân ban tài năng của mình, nhưng xác tín rằng nguồn gốc của chúng là chính Thiên Chúa nhân lành và quảng đại để cám ơn Chúa.



b. Coi ân ban tài năng của mình là bình thường

Trở ngại thứ hai là không để cho một ân ban tài năng được nhìn nhận vì nó xem ra tầm thường và bình thường. Quan niệm sai lầm rằng tất cả các ân ban tài năng phải thật ngoạn mục có thể cản trở một người chấp nhận các ân ban tài năng Chúa ban cho mình và cho người khác. Khi kỳ vọng quá cao vào một ân ban tài năng ngoạn mục thì những ân ban tài năng như lắng nghe, cảm thông, tính vui vẻ, dễ gần, hiếu khách… là những cái làm cho cuộc đời con người được phong phú sẽ bị coi thường.



c. Coi ân ban tài năng là phổ quát

Tính kiêu ngạo thiển cận cho rằng một ân ban tài năng nào đó là phổ quát sẽ là chướng ngại trong việc quan tâm tìm biết và phát triển tài năng của nhau. Một chị kia không chịu nhận ra ân ban “tư vấn khôn ngoan” mà chị đã cống hiến cho cộng đoàn. Cả nhóm chỉ ra cho chị thấy đó là sự thật, nếu không thì tại sao nhiều người bị lôi kéo liên hệ với chị, cách đặc biệt khi họ cần một lời khuyên hay an ủi? Việc họ đánh giá cao ân ban tài năng của chị đã dẫn chị đến ý thức rằng chị sở hữu một ân ban tài năng mà không phải bất cứ người nào cũng có được, để biết tạ ơn Chúa và gắng sức giúp đỡ chị em.



d. Ghen ghét các ân ban tài năng của kẻ khác

Trong khi ân ban tài năng của người khác là một thách đố để mình cố gắng phát triển ân ban tài năng của mình thì lắm khi lại đâm ra ghen ghét vì tài năng của họ. Những ân ban tài năng nổi bật của người này có thể là đối tượng khiến người kia hao tốn nhiều nghị lực trong việc ham muốn, thèm khát và ghen ghét. Có những người đã phung phí nghị lực của mình để chú tâm vào những ân ban tài năng mà mình không có, đến đỗi bỏ quên khám phá và phát triển những ân ban tài năng mà mình có.



e. Những nỗi sợ hãi.

Đây có thể là chướng ngại đặc biệt khó vượt qua vì gốc rễ của sợ hãi có nhiều mặt: một số ân ban tài năng nào đó đi kèm theo thách đố trong việc sử dụng chúng. Đối với một số người, sợ hãi có thể nổi lên do cảm thấy không chắc chắn hay không an toàn trong việc thi thố ân ban tài năng mới khám phá được. Một chiều kích khác của sợ hãi là do ân ban tài năng đó có thể đòi hỏi một sự thay đổi trong cuộc sống, như thay đổi nhiệm sở, cách ứng xử, các hoạt động, sứ vụ, công việc và ngay cả lối sống. Chướng ngại thông thường đối với sự thay đổi mà ai cũng kinh nghiệm thấy [phải đến nơi không muốn, ở với người không ưa, làm việc không thích] có thể rõ nét ở đây và làm cho việc thắng vượt sợ hãi trở nên đặc biệt khó khăn.



  1. CÁC ÂN BAN TÀI NĂNG GIÚP SỐNG TỐT ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN

  1. Ân ban tài năng lắng nghe


Có người nói rằng “Chúa đã ban cho chúng ta hai lỗ tai và một cái miệng, do đó chúng ta phải nghe nhiều hơn nói hai lần.” Tỉ lệ hai/một này xem ra đúng đó. Quả vậy, người lắng nghe tốt trong một cộng đoàn là một phúc lành cho cộng đoàn, vì người đó thường chú ý tới những thành viên khác của cộng đoàn. Ngoài ra, ân ban tài năng lắng nghe thường phát xuất từ một ý thức lành mạnh về chính các giới hạn và thiếu sót của mình. Càng ý thức về những bất toàn của mình, chúng ta càng nhận thấy cần lắng nghe để học hỏi và lãnh nhận từ người khác. Để lắng nghe tốt, cần phải có lòng khiêm tốn, vì khi mình lắng nghe thì người kia chắc chắn có cái gì giá trị để nói, có cái gì đó mà mình có thể được lợi ích hoặc mang lại lợi ích cho người kia. Nhưng người thực sự lắng nghe tốt không chỉ nghe bằng đôi tai, mà còn nghe với trí não (cởi mở và không kết án), nghe với con tim (nhạy cảm với nhu cầu của tha nhân và của chính mình), nghe với đầu óc biện phân (biết cái gì phải lưu ý và cái gì phải bỏ qua), và nghe với sự thức thời nhạy bén (biết khi nào phải tiến ra và khi nào phải yên lặng rút lui).
  1. Ân ban tài năng ăn nói


Điều rất quan trọng là tài năng lắng nghe cần một người bạn đồng hành, đó là ân ban tài năng ăn nói. Có lẽ tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm sống với người không nói. Đừng lẫn lộn người tự nhiên kín đáo hay trầm lặng ít nói với người thực sự không nói là người bí hiểm, người như ngôi mộ. Những người không nói không bao giờ để cho chúng ta biết được cái gì diễn ra ở sau vừng trán hay trong con tim của họ, đến đỗi dù sống lâu năm với họ mà cho đến bây giờ chúng ta hầu như chẳng biết được gì về tư tưởng hay cảm nhận cá nhân của họ.
Những cộng đoàn lành mạnh cần đến những cá nhân sẵn sàng và có thể nói cách cởi mở. Chúng ta cần những con người có can đảm và tình thương để đưa ý tưởng của mình ra cộng đoàn để được đánh giá, dù không chắc ý tưởng của mình sẽ được hoan nghênh, hoặc bị tấn công hay bị bỏ rơi vào quên lãng. Chia sẻ như thế có thể đưa đến những rủi ro, vì những gì nói ra có thể không phù hợp hay không đúng, hoặc có thể làm tổn thương ai đó, làm cho ai đó nổi giận hoặc không thoải mái, hoặc có thể bị hiểu lầm và mang họa (bệnh do những gì vào qua miệng, còn họa do những gì từ miệng đi ra). Nhưng những lợi ích phát sinh do điều nói lên với cộng đoàn sẽ lớn hơn tất cả các rủi ro kia. Bất chấp những hậu quả và khó khăn, ngôn ngữ là phương tiện tốt nhất cho đến nay để truyền thông với người khác, và nhờ vậy mà làm thêm mạnh mẽ các mối ràng buộc hiệp nhất chúng ta lại với nhau.
Nhưng truyền thông là sinh tử, không phải chỉ vì nó là một phương tiện trao đổi các ý tưởng và cảm nhận, mà còn hết sức quan trọng cho cộng đoàn chung sống vì nó nuôi dưỡng các nhân đức kitô khác. Truyền thông xây dựng niềm tin cậy. Truyền thông còn giúp chúng ta làm sáng tỏ các tư tưởng và cảm nhận của chính chúng ta, đem lại can đảm và làm dịu đi cảm giác cô độc của chúng ta (đau đớn nhất là nỗi cô đơn giữa cộng đoàn đông người, không ai nói với ai thật là nặng nề!). Thật đáng mừng là ngày nay nhiều cộng đoàn đã đầu tư nhiều thời gian đáng kể và nghị lực để học biết và thăng tiến các kỹ năng truyền thông, qua các cuộc chia sẻ, hội thảo.
  1. Ân ban tài năng nhạy cảm


Một số người có thể nghĩ rằng sự nhạy cảm là thánh giá hơn là ân ban. Họ nói: “Nếu tôi không quá nhạy cảm như thế thì có lẽ tôi đã không quá bị tổn thương vì những lời của chị ấy” hoặc “Nếu tôi đã không quá nhạy cảm thì tình huống đã không làm tôi quá bực mình như thế”. Mặc dù tính nhạy cảm có thể gây nên nỗi đau lớn như vậy, nó vẫn là một ân ban quí báu và trong thời gian dài, nó sẽ làm cho cộng đoàn chung sống trở nên tốt hơn, hiểu nhau hơn (“Đi lâu mới biết đường dài, ở lâu mới biết con ngài phải chăng”).
Quả thật, hầu hết điều tốt lành đã được thực hiện trên thế giới là kết quả trực tiếp của sự nhạy cảm của một người nào đó. Chẳng hạn việc thiết lập một cộng đoàn tu thường là kết quả của sự nhạy cảm của một cá nhân (Đấng sáng lập Dòng) đối với nhu cầu của Giáo Hội hay của những người đáng quan tâm. Tính nhạy cảm quan trọng vì nó cũng là mầm móng phát sinh tất cả những nhân đức căn bản khác như lịch sự, thiện cảm, thấu hiểu, nhẫn nại, cảm thông. Trái lại, sự thiếu nhạy cảm có thể sản sinh ra sự khiếm nhã, ác cảm, ích kỷ, tiên kiến, ngay cả bạo lực vô tâm và bất nhân. Trong cuốn sách Sống Cùng Nhau Trong Cộng Đoàn, Carlos Valles nói về tính nhạy cảm như sau: “Nhạy cảm là nghệ thuật của cái nhỏ, không phải những hy sinh lớn, những kế hoạch cao, những giải pháp anh hùng, mà đúng là những chú ý nhỏ mọn, những chi tiết dễ thương, lời nói thích hợp, một cái nhìn, một cuộc thăm viếng, một tiếp xúc”.
  1. Ân ban tài năng kiên trì


Ân ban kiên trì gây được nhiều tín nhiệm bởi vất vả làm việc. Người ta giả thiết rằng Michelange lần kia đã nói “Nếu người ta biết tôi đã phải làm việc vất vả như thế nào để đạt được kết quả đó thì sự việc có lẽ chẳng xem ra kỳ diệu như thế đâu!” Ân ban tài năng kiên trì như thế cũng là một ân ban tốt phải có ở trong cộng đoàn. Người năng nổ, làm việc hăng say, sẵn sàng chia sẻ gánh nặng đem lại niềm vui cho những ai sống với họ. Nhưng người kiên trì không sợ làm cho đến cùng công việc đã bắt đầu bảo đảm sự thành công và thành tựu của cộng đoàn.
  1. Ân ban tài năng khẳng định mình là ai


Có một câu chuyện cũ về một rabbi đã cầu nguyện rằng “Lạy Chúa, xin làm cho con nên giống Mosê!” Và ông nghe Chúa trả lời “Sao Ta lại cần phải có một Mosê khác làm chi! Ta đã có một Mosê rồi! Nhưng người Ta thực sự có thể sử dụng là ngươi. Câu chuyện nói lên một chân lý sâu xa. Nó nhắc cho chúng ta rằng Chúa không cần dòng vô tính, kể cả dòng vô tính của các vị đại thánh, mà Ngài chỉ cần những nguyên bản độc đáo, những con người cá biệt. Và chúng ta sẽ mang lại cho Chúa niềm vui và vinh quang lớn nhất khi chúng ta là những cá nhân duy nhất mà Chúa kêu gọi trở thành. Có một mối nguy hiểm trong đời sống cộng đoàn, là có những người cố gắng trở nên quá giống nhau, đánh mất đi tính cá biệt để thích nghi với người khác. Sự rập khuôn trong cuộc sống chung cách không may có thể làm giảm thiểu tính cách riêng của các thành viên thành cái mẫu số chung thấp nhất, vì làm mờ nhạt đi sự phong phú của đặc tính duy nhất của các thành viên và của chính cộng đoàn.
Phải giữ tỉnh táo và nghị lực để duy trì tính cá vị trong một nhóm. Cũng phải xác tín rằng chính tính cách độc đáo của chúng ta nâng cao cộng đoàn chúng ta sống. Quả vậy, nếu thành thật, chúng ta không muốn sống với người quá giống chúng ta, như sống trong một cái hộp gương phản chiếu lại hình ảnh của chính mình. Chúng ta vừa thách đố vừa làm phong phú lẫn cho nhau nhờ tính cách riêng biệt của chúng ta. Hợp nhất trong đa dạng, phong phú trong khác biệt là vậy đó. Nếu chúng ta hỏi Chúa “Hoa nào Chúa thích nhất?” Có lẽ Chúa sẽ không nói là hoa hồng, hay hoa phong lan, hay hoa thủy tiên, mà Chúa sẽ nói “cả bó hoa!” Hy vọng cộng đoàn tu sĩ của chúng ta là bó hoa tuyệt đẹp gồm nhiều loại khác nhau, những bông hoa quí giá, duy nhất và hiếm hoi.
  1. Ân ban tin rằng mình được yêu thương


Victor Hugo đã viết rằng “hạnh phúc tột đỉnh của cuộc sống là xác tín rằng chúng ta được yêu thương”, nhất là được chính Thiên Chúa yêu thương. Xác tín rằng chúng ta được yêu thương đặt chúng ta thoải mái với người khác và làm cho chúng ta dễ dàng sống với họ. Các thành viên cùng sống trong cộng đoàn có thể đánh giá tính dễ thương của chúng ta là đích thật, nhưng chúng ta không được quá dựa vào đánh giá của họ để tự phụ. Tính dễ thương của chúng ta cũng có thể lớn lên qua mối tương quan với gia đình và bạn bè của chúng ta ở bên ngoài cộng đoàn, qua sứ vụ của chúng ta, và qua sự kết hiệp thân mật sâu xa với Chúa trong cầu nguyện. ĐTC Phanxicô nói với 5.000 tu sĩ nam nữ Đại Hàn ngày 17/8/2014: “Tất cả chúng ta đều biết rằng dù niềm vui không được phát biểu cùng một cách ở mọi lúc trong đời, nhất là lúc gặp khó khăn lớn lao, nhưng “nó vẫn luôn tồn tại, dù chỉ lấp loé, phát sinh từ niềm chắc chắn bản thân của ta rằng, xét cho cùng, ta được Thiên Chúa yêu thương vô hạn70. “Niềm xác tín được Thiên Chúa yêu thương nằm ở ngay tâm điểm ơn gọi của anh chị em: trở thành cho người khác dấu chỉ hữu hình sự hiện diện của Nước Thiên Chúa, một sự nếm trước các niềm vui thiên đàng vĩnh cửu”.
  1. Ân ban tài năng hài hước


Một cuộc nghiên cứu chỉ ra rằng một ngày cười một trăm lần tránh được bệnh tim mạch tương đương với mười phút chèo thuyền. Một cuộc nghiên cứu khác lại cho hay người có ý thức hài hước làm việc tốt hơn, có tính sáng tạo và uyển chuyển hơn, có khả năng thực hiện các ý tưởng và phương pháp mới. Chắc chắn rằng cười là tốt cho cả thân xác lẫn tinh thần. Cười làm dịu bớt những căng thẳng của cuộc sống hằng ngày. Cười làm nên mềm mại những sắc cạnh của những cá nhân phải sống với nhau. Vì thế, chúng ta cần tinh thần hài hước khắp nơi, trong nơi chúng ta làm việc, trên báo chí, trên truyền hình, trong hiệu buôn, trong gia đình, và trong cộng đoàn, cả trong nơi thờ tự (chúc bình an với một nụ cười thì tốt hơn là với một nét mặt nghiêm nghị). Việc nỗ lực tìm kiếm hài hước gia tăng cơ may cho chúng ta gặp được nó.
Một cách khác để trau dồi ý thức hài hước là nới rộng các viễn ảnh của chúng ta trên cuộc sống. Khi gặp một tình trạng căng thẳng, dĩ nhiên ta không thể bông đùa, nhưng cũng nên dừng lại và nhìn lui nó với một viễn ảnh rộng lớn hơn, chúng ta có thể khám phá được vài nét hài hước trong đó. Chúng ta cũng có thể nuôi dưỡng tinh thần hài hước bằng những cách khác, như đọc chuyện khôi hài, sách bông đùa, sưu tập các bức tranh biếm họa, các tranh quảng cáo ngộ nghỉnh, lướt qua những bài viết khôi hài, chòng ghẹo hay trêu đùa một ai đó (nhưng đừng đùa giai). Khi gặp thời khắc khó khăn, sự hài hước trở thành gần như cần thiết. Hài hước cũng liên kết mật thiết với đức tin, vì nó giúp chúng ta tin tưởng vào sự quan phòng và tình thương của Chúa hơn (nếu Chúa không thương che chở, chắc tôi còn tồi tệ hơn nữa). Quả vậy, để xây dựng cộng đoàn cần thiết phải có một chút hài hước, phải biết dễ dàng tự cười mình, và không quá suy sụp vì những thất bại. Mẹ thánh Têrêsa khi bị thương ở chân đã hài hước thưa với Chúa “Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện này nữa sao? - Cha đối xử với bạn hữu của cha như thế đó. - Vâng lạy Chúa, không lạ gì mà Chúa ít bạn”.
Đó là bảy ân ban tài năng có thể giúp cho cuộc sống chung được dễ dàng. Một cá nhân không cần phải có tất cả bảy ân ban đó để trở nên một người tốt trong cộng đoàn. Không ai có hết mọi ân ban tài năng. Mỗi người trong chúng ta sở hữu được một số ân ban tài năng nào đó và thiếu những ân ban tài năng khác. Nhưng chính nhờ đó mà có nét đẹp của việc sống chung với nhau. Tôi có thể có một ý thức hài hước tốt, nhưng tôi lại cần đến tính nhạy cảm của chị. Chị có thể lắng nghe tuyệt vời, nhưng chị lại cần ân ban tài năng của bạn chị để nói ra lưu loát những gì chị suy nghĩ. Nói cách khác, ân ban tài năng của người này đổ đầy sự thiếu sót của người khác. Nhưng chúng ta không được chước miễn khỏi việc phát triển một số ân ban tài năng mà tự nhiên chúng ta không có được. Tất cả mọi ân ban tài năng phải được học hỏi và trau dồi. Hãy nhớ lại câu chuyện của Michelange.
Và cũng hãy nhớ lại mẫu gương Chúa Giêsu. Ngài cho thấy tầm quan trọng của những ân ban tài năng này bằng cách bộc lộ chúng ra trong chính cuộc sống của Ngài. Chúa đã lắng nghe tuyệt vời những tiếng kêu lớn giọng cũng như những tiếng kêu không lời ở chung quanh Ngài. Ngài đã làm phép lạ đáp lại tiếng kêu xin công khai của mười người phung cùi, cũng như nỗi đau không lời của người đàn bà góa ở Naim. Chúa Giêsu đã nói cách rõ ràng và hùng biện. Ngài đã phát ngôn những bài giảng tuyệt vời, đã nói những câu chuyện không thể quên được. Ngài đã công khai thẳng thừng lên án những kẻ biệt phái và giả hình; đồng thời nói riêng điều bí mật cho các tông đồ, lắng nghe những câu chuyện riêng tư của các bạn thân tín, và thường xuyên đàm đạo thân mật với Chúa Cha. Ngài đã liều mình mạc khải những điều con người không thể hiểu và chấp nhận, và đã chịu đóng đinh thập giá vì điều đó. Chúa Giêsu rất nhạy cảm: người đàn bà bị bệnh loạn huyết chỉ chạm đến áo choàng của Ngài mà Ngài cũng cảm nhận được nó; người đàn bà góa nghèo bỏ hai đồng xu vào hòm tiền đền thờ, Ngài cũng để ý thấy; ông Simon lẫm bẫm chống lại người đàn bà đã xức dầu thơm cho Chúa, Ngài cũng nghe thấy hết.

Mẹ Têrêxa Calcutta nói: “Cách thức mà chúng ta thinh lặng, lắng nghe, tha thứ, nói năng và hành động là những giọt dầu chân chính giúp cho ngọn đèn chúng ta cháy mãi suốt cuộc đời mình”. Chúng ta có thể kết thúc suy niệm về các ân ban tài năng này bằng một lời cầu nguyện ngắn:


Lạy Chúa Cha toàn năng là Đấng ban phát mọi ân ban tài năng, Chúa đã ban cho chúng con nhiều ân ban tài năng để dễ dàng sống chung với nhau. Xin làm cho chúng con càng ngày càng ý thức về những ân ban tài năng mà chúng con đã sở hữu, và xin giúp chúng con phát triển các ân ban tài năng mà chúng con còn cần đến. Xin cho chúng con biết quí trọng hơn các ân ban tài năng của chúng con, cũng như các ân ban tài năng của những anh chị em mà chúng con cùng sống và làm việc với. Chúng con cảm tạ Chúa về tất cả những ân ban tài năng này nhân danh quà tặng lớn nhất của Chúa cho chúng con là Chúa Giêsu.” Amen.
  1. CÁC XUNG ĐỘT CỘNG ĐOÀN VÀ CÁCH GIẢI QUYẾT


Cha ông chúng ta thường nói: “từ ban sơ bản tính con người vốn tốt, tính thì gần nhau nhưng tập quán lại xa nhau”. Và chính vì các hành xử xa nhau này mà có những khác biệt gây nên những mâu thuẫn và xung đột. Cuộc sống chung quanh chúng ta luôn có những khác biệt gây nên xung đột. Có thể nói xung đột là chuyện thường ngày. Darwin đã khám phá ra định luật cạnh tranh sinh tồn trong thiên nhiên. Trong xã hội con người, chúng ta thấy sự “cạnh tranh sinh tồn” đó bộc lộ ra bằng trăm cách nghìn thế, giữa các cá nhân, các tập thể, phe nhóm, đảng phái, quốc gia, thậm chí giữa các tôn giáo. Thường có xung đột khi quyền lợi của mình hay của phe nhóm mình bị đe doạ. Quyền lợi đó có khi chỉ là một tình cảm, một ý kiến, hay một lợi lộc nào đó. Có thứ xung đột tích cục (nhắm tới một lợi ích chung), có thứ xung đột tiêu cực (tranh đấu nhằm loại trừ nhau).
Xét cách nào đó, xung đột là cần thiết, vì nó giúp tồn tại, phát triển và tiến bộ. Nếu một ngày nào đó, chẳng ai còn suy nghĩ khác người khác, chẳng còn góp ý, trao đổi gì hết, thì cộng đoàn sẽ ra sao? Có phát triển được khi không có sự đóng góp phong phú từ các thành viên? Nhưng xung đột cũng mang trong mình nguy cơ phá đổ trật tự cộng đoàn. Và về phía các cá nhân, xung đột có thể làm cho người yếu thế cảm thấy bị loại trừ và sinh ra tiêu cực.

  1. Cộng đoàn là nơi có thể có các xung đột


Theo quan niệm tu đức cổ điển truyền thống coi việc giữ kỷ luật và sự đồng bộ của một khuôn mẫu qui định sẵn, mọi cá nhân được chỉnh sửa hay tự uốn nắn theo, bề trên hành xử quyền bính cách tuyệt đối, bề dưới vâng theo như “vâng ý Chúa” thì không thể chấp nhận có xung đột trong cộng đoàn và coi xung đột như một xì-căng-đan cần phải loại bỏ.
Mẫu tu đức hiện nay tổng hợp cả ba chiều kích cá nhân, cộng đoàn, và sứ vụ: người tu sĩ nỗ lực trưởng thành về nhân bản và siêu nhiên, chịu trách nhiệm về cuộc đời và ơn gọi của mình; cộng đoàn là nơi cho tình huynh đệ và sứ vụ được xây dựng, là không gian cho người tu sĩ sống đời thánh hiến của mình. Mẫu đời tu này đề cao sự hoà hợp giữa cá nhân và tập thể. Nhưng khi thực hiện không thể tránh khỏi “xung đột”, vì việc thăng tiến cá nhân ảnh hưởng đến tự do và quyền phát triển cuộc sống của người khác. Xung đột ấy lại mạnh hơn khi phải duy trì sự bình an trong cộng đoàn, là điều không thể có được nếu cứ để mỗi người phát triển theo lựa chọn cá nhân.

Trong cuộc viếng thăm mục vụ Hàn Quốc ngày 14-18/8/2014, ĐTC Phanxicô nói với các tu sĩ rằng: “Theo kinh nghiệm, tôi biết rằng đời sống cộng đoàn không phải luôn dễ dàng, nhưng đó là trường huấn luyện cho tâm hồn. Ước mong không có những va chạm là không thực tế; sẽ có những hiểu lầm và chúng ta phải đối mặt với chúng. Nhưng dù có những thách đố này, chính trong cuộc sống cộng đoàn mà chúng ta được mời gọi lớn lên trong lòng thương xót, trong nhẫn nại và đức ái hoàn hảo”. Đừng lấy làm lạ với khẳng định cộng đoàn là nơi có khả năng có những xung đột, có xung đột vì chúng ta được làm nên bằng xương bằng thịt, bằng cảm xúc, bằng dục vọng: “Chúa biết chúng ta được nắn nên bằng gì, Người nhớ chúng ta chỉ là cát bụi71.



Song phải phân biệt ý nghĩa tích cực “xung đột là có khác biệt” với ý nghĩa tiêu cực “xung đột là đụng chạm, là cư xử kỳ cục với nhau, chống nhau”. Chúng ta không nên nhìn xung đột trong đường lối tiêu cực này, mà phải nhìn xung đột như một phần của tiến trình thăng tiến những khác biệt. Chúng ta có thể có một cuộc tranh luận trong đó các tư tưởng và ý kiến có thể khác biệt nhau, nhưng những người có các ý kiến khác biệt ấy không chống nhau. Mặc dù những lời nói nảy lửa có thể bay ra, nhưng chúng ta không sợ, và vẫn đứng vững. Ai cũng trăn trở mong nắm chắc và giải quyết các vấn đề phức tạp đang có. Nếu không có các ý tưởng khác biệt nhau, cộng đoàn sẽ không thể đạt tới sự hiểu biết đầy đủ các vấn đề được. Các cộng đoàn có thái độ thân thiện với xung đột sẽ có khả năng sống cộng tác với nhau hơn. Xung đột không đưa tới chiến tranh, nếu nó được hiểu là khác biệt hơn là đối chọi: bất đồng mà không bất hòa. Mỗi người được mời gọi có khác biệt và biểu lộ các khác biệt của mình vì công ích, đừng phớt lờ đi hay chẳng đếm xỉa tới khác biệt của nhau.
Có câu chuyện này đáng chúng ta suy nghĩ và rút ra được bài học qúi báu: Một phụ nữ da trắng đi taxi cùng cậu con trai nhỏ tuổi nhưng khá thông minh. Thằng bé trong lòng rất sợ hãi người tài xế da đen, bèn hỏi mẹ: “Người này có phải là người xấu không mẹ?” Người phụ nữ liền nói với con trai: “Chú không phải người xấu, mà là một người tốt con à!” Cậu con trai nhíu mày trầm tư một hồi lại hỏi tiếp: “Nếu chú ấy không phải là người xấu, vậy chắc chú đã làm điều gì xấu nên Thượng Đế mới trừng phạt đen thui như vậy chứ?” Người mẹ nói: “Chú là một người rất tốt, chú cũng không làm điều gì xấu xa. Vườn hoa của chúng ta có màu hồng, màu trắng, màu vàng … có phải không?” - “Vâng! Đúng ạ!” - “Vậy hạt của hoa có phải đều là màu đen không?” Đứa bé nghĩ ngợi một lúc: “Đúng thế ạ ! Toàn màu đen hết.” – “Hạt giống màu đen nhưng cho nở ra những đóa hoa đầy màu sắc và hương thơm, tô điểm cho thế giới này thêm muôn màu muôn vẻ, đúng thế không?” - Vâng!” Cậu bé đột nhiên ngộ ra và nói: “Vậy chú tài xế không phải là người xấu rồi ! Cám ơn chú đã chở chúng ta đi, con muốn cầu nguyện cho chú ấy.” Đứa bé thơ ngây bắt đầu cầu nguyện, người tài xế da đen nước mắt lăn dài trên má, lòng nghĩ: “Những người da đen bị xem thường, không ngoi đầu lên nổi, hôm nay, người phụ nữ da trắng này đã dùng lời lẽ ôn hòa dạy con trai mình hóa giải nỗi ám ảnh trong lòng, nó đang cầu nguyện và chúc phúc cho mình, thật cảm ơn bà ta rất nhiều! ” - Lúc xe đã đến điểm dừng, người tài xế kiên quyết không lấy tiền, ông ta nói: “Lúc bé, tôi đã từng hỏi mẹ cũng cùng một câu hỏi ấy, mẹ nói vì là người da đen, nên chúng tôi phải chịu thua kém. Nếu khi xưa mẹ tôi đổi thành câu trả lời của bà, hôm nay tôi nhất định sẽ có một thành tựu khác…”. Chúng ta có tôn trọng sự khác biệt của anh chị em và cho họ cơ hội thăng tiến hơn không?
  1. Các phương sách giải quyết xung đột


Để giải quyết một vấn đề hay xung đột, chúng ta có thể có nhiều phương sách: có phương sách đúng, có phương sách sai, có phương sách tốt, có phương sách tốt hơn, và có phương sách tốt nhất. Phương pháp luận sáng tạo giúp chúng ta suy nghĩ để chọn lấy phương sách tốt nhất trong các phương sách có thể có, trong đó chúng ta luôn tìm đạt tới mục tiêu của mình và giữ được mối liên hệ tốt với người khác. Người ta thường đưa ra năm cách hành xử sau đây:

  • Hành xử như con rùa: Rùa từ bỏ tất cả và rút lui vào trong cái vỏ mai của mình để tìm sự an toàn, chạy trốn khỏi xung đột để yên thân.

  • Hành xử như cá mập: Cá Mập tấn công áp đảo buộc đối thủ chấp nhận giải pháp của mình để đạt mục tiêu, bất chấp tương quan sẽ thế nào.

  • Hành xử như cáo : Cáo sẵn lòng hy sinh một phần mục tiêu và mối tương giao của mình để thỏa hiệp với đối thủ, cả hai cùng nhượng bộ để cùng được hưởng một mối lợi nào đó.

  • Hành xử như cú vọ : Cú Vọ nhìn trực diện vấn đề, giản lược những căng thẳng giữa đôi bên để đạt mục tiêu và cải thiện tương giao.

  • Hành xử như gấu bông : Gấu Bông sẵn sàng từ bỏ mục tiêu để giữ mối tương giao với đối thủ bằng cách hòa nhã xoa dịu xung đột.



Cộng đoàn giải quyết tốt các xung đột


Những cộng đoàn giải quyết tốt các xung đột có những đặc điểm này: hiểu biết tích cực về xung đột, coi xung đột là một phần của tiến trình thăng tiến; đồng ý có khác biệt và giải quyết để yêu thương; nỗ lực hiểu biết những khác biệt của nhau; xem xung đột như một khó khăn phải vượt qua, chứ không phải một vấn đề nan giải; chấp nhận sự giận dữ khi nó nổi lên; chấp nhận có bất đồng nhưng không sống bất hòa (một nghịch lý là thái độ chấp nhận của cộng đoàn làm giảm thiểu các cơ hội nổi giận); có khả năng khoan dung với tình trạng nhập nhằng, vì khi cho phép có những lập trường khác biệt thì ít cần đến những qui tắc cứng nhắc; có ý hướng học lắng nghe nhau và lắng nghe Chúa; có những đường lối chính thức và không chính thức để vượt qua các khác biệt và khẳng định lẫn nhau.

Cộng đoàn có khó khăn với xung đột


Những cộng đoàn có khó khăn đối với xung đột có các đặc điểm này: Có thái độ tiêu cực đối với xung đột, tin rằng xung đột và chiến tranh là như nhau; không hiểu vai trò của xung đột hay khác biệt trong tiến trình thăng tiến; chống nhau vì những khác biệt, muốn mọi người như nhau, không có khác biệt; coi sự thay đổi như mối đe dọa; coi xung đột như vấn đề và tìm cách loại trừ bằng bất cứ cách nào và khi nào có thể; không thể chấp nhận tình trạng nhập nhằng; tưởng rằng lắng nghe nhau nhưng không phải; mặc dầu hết lòng hiến dâng cho Chúa, nhưng lại dựa vào lãnh đạo để giải thích ý Chúa (coi ý Bề trên luôn là ý Chúa!)72; tìm giải quyết xung đột bên ngoài cộng đoàn trực tiếp của mình, chứ không “đóng cửa dạy nhau”. Đời sống và sứ vụ của cộng đoàn sẽ dễ dàng hơn, nếu cộng đoàn biết thoải mái hơn với sự đúng/sai, cách của chúng ta/cách của chúng nó.
  1. Mấu chốt của vấn đề


Một cách nào đó, hầu hết các cộng đoàn rơi vào một trong hai loại: dễ hoặc khó giải quyết xung đột. Quả thế, đa số cộng đoàn bị lúng túng về cách ứng phó với xung đột. Bỏ ra một số thời giờ suy nghĩ về hai viễn tượng này là rất hữu ích đối với các cộng đoàn tu. Tiến trình tranh luận về xung đột theo đường lối khách quan là hữu ích, vì ta không thể có được một cuộc tranh luận hữu lý về lập trường của mình liên quan đến xung đột cộng đoàn khi ta đang ở giữa lòng cuộc chiến, khư khư với lập trường chủ quan của mình! Một số cộng đoàn khó tìm được một diễn đàn hay một cuộc trao đổi khách quan về cách giải quyết xung đột. Họ sợ nói về xung đột và tránh tranh luận về nó. Họ giống như đám trẻ con tin rằng khi cha mẹ chúng cãi nhau thì họ sắp sửa ly dị đến nơi rồi! Tuy nhiên, khi cộng đoàn khách quan tranh luận về thái độ của mình và lên kế hoạch giải quyết xung đột thì nỗi sợ hãi của những ai sợ xung đột sẽ bị giảm sút. Thật hữu ích khi nhìn thẳng vào lãnh vực mà trong đó cộng đoàn đã có xung đột. Với ý thức vượt lên xung đột và khách quan đánh giá cách cộng đoàn đã xử lý xung đột trong quá khứ, ta có thể thấy rõ những gì còn tồn đọng và ai là người còn bị tổn thương, hầu tìm ra giải pháp đúng và hiệu quả.

Chúng ta hãy phóng cái nhìn vào vũ trụ: So sánh quả đất chúng ta đang sống với Kim tinh, Hỏa tinh, Thủy tinh, Diêm vương tinh thì quả đất thật lớn; nhưng so sánh với Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên vương tinh và Hải vương tinh thì quả đất lại nhỏ hơn rất nhiều; còn so sánh với Mặt trời thì quả đất chỉ là một chấm nhỏ. Nếu vượt ra khỏi Thái Dương hệ để so sánh với Pollux, Arcturus thì chúng ta không còn nhìn thấy quả đất của mình nữa.



Trong bức ảnh mà phi thuyền thám sát Cassini-Huygens chụp được khi bay vào rià quỹ đạo Sao Thổ, thì quả đất chúng ta chỉ là một chấm nhỏ, mà trong cái chấm bé tí này, loài người chúng ta cùng muôn thú muôn loài đang chen chúc nhau, với toàn bộ những cuộc tranh chấp và chém giết, với toàn bộ những vấn nạn, với toàn bộ vinh quang và thất bại, với nền khoa học kỹ thuật, nghệ thuật và phát minh, với toàn bộ giống nòi và tín ngưỡng, với toàn bộ các quốc gia và những nhà cầm quyền, với toàn bộ những người thương kẻ ghét, với tổng số hơn 7 tỷ phần hồn đang lúc nhúc đấu tranh để tồn tại ngày này qua ngày khác… Chắc có người trong chúng ta nghĩ rằng mình đơn độc trên cái chấm nhỏ bé này và không ai quan tâm đến sự hiện diện của mình… Nhưng con mắt của Chúa đang nhìn chúng ta, cảm thông với chúng ta, và mời gọi chúng ta mở rộng lòng mình ra hơn nữa… để tự hỏi: Chúng ta to lớn đến cỡ nào? Và vấn đề mà chúng ta đang gặp phải trong cộng đoàn ngày hôm nay có còn quan trọng lắm không? Để vượt lên và giải quyết xung đột cộng đoàn, chúng ta hãy thực hành lời khuyên của thánh Phaolô “xem kẻ khác hơn mình”, cùng với ước nguyện của Gioan Tẩy Giả là “Chúa Giêsu phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”.
  1. Một số xung đột điển hình trong cộng đoàn


Một số xung đột điển hình tìm thấy trong đời sống cộng đoàn: Những bất hòa, hiểu lầm, cảm nhận bị tổn thương giữa các cá nhân; những bất đồng liên quan đến đường lối tổ chức như quyền hành, cơ sở và tài sản của cộng đoàn; Sứ vụ cộng đoàn phải làm hay nên làm; Giáo thuyết về việc thực hành đức tin và đời sống tu trì theo đường lối chung của Giáo Hội; những chuẩn bị hướng tới Tổng Tu Nghị, như đào sâu linh đạo, tìm lại đặc sủng sáng lập, những thách đố mới, những người lãnh đạo tương lai; việc phát triển cơ sở mới của Dòng; các vấn đề và thực hành xã hội: kế hoạch hóa gia đình, xu hướng tính dục, tính dục tiền hôn nhân, sống thử, phá thai, độc thân, thủ dâm, đồng tính luyến ái, vai trò phụ nữ, những vấn đề nổi cộm về nhân quyền và dân quyền; sợ thay đổi và coi thay đổi như mối đe dọa nguy hiểm, đang khi cần phải canh tân liên lỉ: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”73.
Nếu hiểu xung đột là vì có khác biệt thì tìm giải quyết xung đột là cùng nhau đi tìm mẫu số chung cho những khác biệt đó. Công cuộc tìm kiếm mẫu số chung này cần áp dụng “biện chứng pháp tiến lên”, nhờ đó sự hòa hợp ngày càng gia tăng và sự hiệp thông cộng đoàn sẽ được thực hiện: Tiền đề ↔ Phản đề → Hợp đề. Hợp đề này lại trở thành một tiền đề mới, cần có một phản đề mới tương ứng để sản sinh ra một hợp đề mới tương ứng... Và cứ thế mà tiến triển và tiến bộ. Khi tìm được mẫu số chung, người và ta, trên và dưới gặp được nhau, hiểu được nhau thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo”74. “Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa kia, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”75.
  1. Tiến trình bốn bước tâm lý và thiêng liêng để vượt lên xung đột


Đã sống chung thì thế nào cũng có đụng, và có đụng thì hẳn phải có đau. Chúng ta sẽ dùng tiến trình bốn bước tâm lý và thiêng liêng để giải quyết các nỗi đau do người khác gây ra cho mình hầu giữ tâm hồn bình an thanh thản:
a. Lấy ý ngay lành mà nghĩ rằng HỌ VÔ Ý, chẳng hạn nếu ai dẫm phải chân chúng ta rất đau, nhưng họ bảo rằng ‘Xin Lỗi, TÔI VÔ Ý’ thì chúng ta sẽ dễ dàng tha thứ bỏ qua. Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta bài học từ trên thập giá: Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết. Ngài xin Chúa Cha tha thứ và còn biện hộ cho những kẻ làm khổ và giết Ngài.

b. Với tất cả lý luận sắc bén, chúng ta chứng minh được rằng HỌ CỐ Ý, thì làm sao giải quyết nỗi bực mình? Thưa, với người cố ý này, hãy coi họ là NẠN NHÂN của chính ác tâm của họ. Đối với nạn nhân, chúng ta thường THƯƠNG HẠI. Khi thương hại ai thì tâm lý chúng ta cảm nhận là chúng ta ở trên nạn nhân, đồng thời có thể coi thường họ, thậm chí coi khinh họ, dù họ là ai đi nữa! Và nỗi đau của chúng ta như thể được xoa dịu, tâm lý chúng ta được giải tỏa, bù đắp. Xin nhớ đây là vấn đề tâm lý, không phải vấn đề thiêng liêng hay quyền bính gì cả, và chúng ta chỉ giải quyết trong lòng mình, chứ đâu có tỏ thái độ ra với ai đâu. Nếu lẫn lộn hai lãnh vực này thì không những tâm lý không giải quyết được gì, mà có thể bị mặc cảm vô phép, hoặc có lỗi dày vò.

c. Nghĩ tới ĐIỀU TỐT NHẤT CHÚA LÀM CHO TA: Chúa đã nói rõ rằng mọi sợi tóc trên đầu chúng ta đều được đếm cả rồi, và mỗi sợi tóc chúng ta rụng xuống Chúa cũng biết. Vậy thì chuyện ai đó làm chúng ta bị tổn thương sẽ quá lớn so với chuyện một sợi tóc rụng, lẽ nào Chúa không biết? Chúa biết mà Chúa vẫn để xảy ra, tại sao? Thánh Phaolô dạy rằng Chúa luôn biến mọi sự nên tốt cho những ai yêu mến Chúa. Vậy trong tất cả mọi việc Chúa làm, Chúa đều nhắm cái gì đó tốt đẹp nhất cho chúng ta, dù bây giờ chúng ta chưa có thể biết được nó tốt đẹp như thế nào cả. Nhưng tin vào sự thông minh và tình thương vô hạn của Chúa, chúng ta cảm tạ Chúa và sẽ không còn buồn giận hay căng thẳng nữa, trái lại lòng chúng ta sẽ cảm thấy bằng an, thanh thản.

d. CÓ LÒNG BIẾT ƠN NGƯỜI XÚC PHẠM: Chúa có thể trực tiếp làm điều tốt nhất ấy cho chúng ta, nhưng có thể Ngài dùng người đó. Quyền năng Chúa lại có thể biến đổi điều xấu thành điều tốt, rút ra cái tốt từ cái xấu. Như thế người làm cho chúng ta bị tổn thương ấy trở thành dụng cụ để Chúa thực hiện điều tốt nhất cho chúng ta, và chúng ta phải có lòng biết ơn đối với người đó. Ví dụ người thân chúng ta ở xa nhờ người mang lại cho chúng ta một món quà, chúng ta biết ơn người thân cho quà lẫn người mang quà đến. Cũng thế, chúng ta biết ơn Chúa và biết ơn người Chúa dùng để làm điều tốt nhất cho chúng ta. Từ cảm giác buồn giận hay đau khổ đi đến lòng biết ơn, vấn đề không còn đè nặng nữa, mà lòng chúng ta trở nên thanh thản, bình an. Nỗi đau hay xung đột đã được giải quyết.

Xin Chúa chúc lành và soi sáng cho chúng ta hiểu và vận dụng đúng tiến trình bốn bước mà hai bước đầu có tính cách tâm lý, còn hai bước sau có tính cách thiêng liêng hơn, không lẫn lộn nhưng phối hợp các bước này giúp chúng ta giải quyết được xung đột và có được tâm hồn nhẹ nhàng, thanh thản, bình an và hạnh phúc trong cuộc sống. Chúng ta hãy có cái nhìn tích cực về cộng đoàn đôi khi có xung đột của chúng ta như ĐTC Phanxicô nhìn về Giáo Hội: “Có đúng thật là cùng nhau bước đi đòi hỏi dấn thân và đôi khi có thể gây mệt nhọc: có thể xảy ra là vài anh chị em gây vấn đề cho chúng ta hay làm gương mù gương xấu cho chúng ta... Nhưng Chúa đã tín thác sứ điệp cứu độ cho những con người, cho tất cả chúng ta, cho các nhân chứng và chính trong các anh chị em của chúng ta với các ơn và các hạn hẹp của họ, Chúa đến gặp gỡ chúng ta và làm cho chúng ta nhận biết Người”76.

Chúng ta có thể ví cách hành động của Chúa Giêsu như tác dụng của một thiết bị lọc nước. Thiết bị lọc nước giữ những thứ không sạch lại và cho chúng ta dòng nước sạch. Ngài đã lấy đi tội của chúng ta, biến đổi chúng và mang lại ơn cứu độ; Ngài đón lấy hận thù, biến đổi nó và mang lại tình yêu; Ngài đón lấy ghen tương đố kỵ, biến đổi nó và mang lại sự nâng đỡ; Ngài đón lấy phẫn uất, biến đổi nó và mang lại thương cảm; Ngài đón lấy nhục hình, biến đổi nó và đem lại tha thứ. Đó là mẫu gương cho chúng ta trong việc xử lý căng thẳng và phẫn uất bằng cách chấp nhận, biến đổi và đẩy chúng ra khỏi đời sống chúng ta. Chúng ta không chỉ ngưỡng mộ những gì Chúa Giêsu đã làm, mà phải bắt chước những gì Ngài làm và phải làm như thế.


  1. VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ XÂY DỰNG TÌNH HUYNH ĐỆ ĐÍCH THỰC


    1. Vượt lên khủng hoảng tình huynh đệ

Một điều tốt lành theo như tôi được biết và chúc mừng là cộng đoàn Đan viện Cát Minh Huế luôn được hiệp nhất tâm hồn và phẩm trật. Tuy nhiên, cũng như mọi cộng đoàn khác, trong các tương quan cá nhân của phận người yếu đuối chắc không thể tránh khỏi cơn khủng hoảng tình huynh đệ, như thánh vịnh gia mô tả: “Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi, trong đền Thiên Chúa, giữa hội vui cùng sánh bước”77; “Tên phản phúc ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh, lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm!”78; “Kẻ đến thăm, miệng nói lời giả dối, nhưng chủ ý thâu tin độc địa, vừa ra khỏi nhà, đã vội rêu rao. Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con!”79. Còn sách Huấn Ca nhận định: “Có k ch là bn nht thi, khi con gp nn, nó chng còn là bn na. Có ngưi bn li tr nên thù, tiết l chuyn khiến con phi xu h. Có ngưi là bn khi bình an, lúc con gp nn, nó chng còn là bn na. Lúc con sa cơ, nó lin chng li và lánh mt con luôn”80. Nếu gặp phải kẻ nịnh hót “lừa thầy phản bạn, đội trên đạp dưới” thì đau biết bao!
Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chung sống trong tu viện với một chị bạn tên là Marthe. Chị này có một tật xấu là quá quyến luyến và cái gì cũng tỉ tê tâu trình Mẹ Bề trên. Têrêxa, sau nhiều tháng chờ đợi và cầu nguyện, chị quyết định nói, nhưng trước khi nói, chị đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy đúng sự thật”. Chị đã nói cùng người bạn với tất cả tâm hồn và với tất cả kinh nghiệm đã có. Chị Marthe như được giải tỏa tâm hồn và cũng nhìn nhận rằng “Vị chăn chiên đừng nghe theo những lời dua nịnh dối trá, vì không có gì tai hại cho bằng những lời ca tụng đầy nọc độc”.
Nhưng âu đấy cũng là vì ai cũng quá nghĩ tới mình, tìm kiếm và tranh dành ảnh hưởng, địa vị, tiếng khen, rồi ghen ghét phá hại nhau. Nhiều khi còn tệ hại hơn nữa là lập vây cánh, phe nhóm, tác hại đến đời sống hiệp nhất cộng đoàn, và tổn thương trầm trọng đến tình bác ái huynh đệ.
Chính ĐTC Phanxicô thú nhận: “Đã biết bao nhiêu lần cha thấy các cộng đoàn, các chủng viện, các dòng tu hay giáo phận, nơi đó lời nguyện tắt thông thường nhất là chuyện ngồi lê đôi mách! Thật kinh khủng! Họ “lột da” nhau.... Và đó là thế giới giáo sĩ, thế giới tu trì của chúng ta.... Xin lỗi, nhưng điều đó cũng bình thường thôi: ghen tương, đố kỵ, nói xấu lẫn nhau. Không chỉ nói xấu Bề trên, điều này cũ rồi! Nhưng cha nói với các con rằng chuyện này rất hay xảy ra, nó phổ biến lắm! Cha cũng từng bị sa ngã vào chuyện này. Cha đã từng làm thế nhiều lần, rất nhiều lần! Và cha thấy xấu hổ! Cha xấu hổ về điều này! Thật không phải, khi làm như vậy là đi ngồi lê đôi mách. ‘Chị đã nghe chưa? Anh đã nghe chưa?’ Một cộng đoàn thế này quả là một địa ngục! Điều này chẳng mang lại lợi ích gì. Và vì thế, mối quan hệ của tình bạn và tình huynh đệ thật quan trọng81.
Dầu vậy, chúng ta cũng gắng sống cao thượng, vượt lên những nỗi đau buồn ấy chứ không để chúng đè bẹp và nghiền tán mình, như thánh Phaolô khuyên trong thư Êphêsô: “lấy điều thiện mà chiến thắng điều ác, chứ đừng để bị điều ác đánh bại mình”. Ngài nói trong thư Côlôssê: hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau82; và trong 1 Thessalônica: Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người83.
Thánh Phaolô khuyên: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn84. Ngài còn nghiêm khắc cảnh cáo: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!”85
Chúng ta hãy cầu xin Chúa biến chúng ta thành những người biết đem lại bình an cho anh chị em: “Nơi nào có oán ghét hận thù, xin giúp con xây dựng tình thương. Nơi nào có khinh khi nhục mạ, xin giúp con mang lại thứ tha. Nơi nào có mâu thuẫn bất đồng, xin giúp con nên người hoà giải. Nơi nào có giả dối sai lầm, xin giúp con rao truyền chân lý. Nơi nào có hoài nghi ngờ vực, xin giúp con củng cố đức tin. Nơi nào có nản chí sờn lòng, xin giúp con gieo niềm hy vọng. Nơi nào có bóng tối mây mù, xin giúp con khơi nguồn ánh sáng. Nơi nào có u sầu buồn bã, xin giúp con đem lại an vui”86.
Kinh nghiệm cho biết khi buồn phiền, cô đơn, thất vọng, chán nản là lúc dễ bị sa ngã, bỏ cuộc nhất. Thấu hiểu điều đó, mỗi người trong cộng đoàn cố gắng trở nên bạn thật tốt của nhau; đừng để ai phải cô đơn ở giữa cộng đoàn của mình. Thánh Phêrô khuyên: “Tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc87. Tôi không có nhớ rõ đọc ở đâu câu chuyện khi chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ngồi giặt có một chị ác ý xạc mạnh áo quần cho bọt xà phòng bắn mạnh vào chị Têrêsa. Ban đầu chị rất bực bội ngồi tránh sang chỗ khác, nhưng chị bạn ấy lại cũng đổi hướng quay về Têrêsa và tiếp tục trò cũ. Chị Têrêsa dâng hy sinh đó cầu nguyện xin Chúa thanh tẩy tâm hồn mình và biến đổi chị bạn ấy. Và về sau chị bạn ấy không còn làm như vậy nữa.

Khi được hỏi về quan hệ huynh đệ, ĐTC Phanxicô nói mối quan hệ này có một sức lôi cuốn mạnh mẽ, bao hàm việc chấp nhận những khác biệt và xung khắc. Có những lúc cuộc sống huynh đệ gặp khó khăn, nhưng nếu không có tình huynh đệ thì sẽ không thể sinh hoa trái. Dù thế nào đi nữa chúng ta không bao giờ được hành động như những nhà quản lý mỗi khi có xung đột: cần phải biết làm cho xung đột dịu xuống88. Và trong ngày Đời Sống Thánh Hiến 2/2/2014 trước sự hiện diện của hàng ngàn nam nữ tu sĩ, ngài kêu gọi đừng bao giờ sống khép kín, cứng nhắc, mà nên sống tốt hơn với người trẻ, người già trong cộng đoàn, trong tu viện của mình.

    1. Chỉ bảo huynh đệ đích thực

Chúa Giêsu dạy chỉ bảo huynh đệ trực tiếp với người có lỗi: “Nếu anh chị em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người anh em”89. Để thực hiện việc chỉ bảo huynh đệ ấy, chúng ta sử dụng Feed-Back, một kỹ thuật cảm thông và giao tế có nghĩa chuyên môn là “gửi trả lại”: một người xin kẻ khác nhận xét về mình, người kia cho nhận xét, và người này trả lời lại về nhận xét đó, ta gọi là Kỹ Thuật Chỉ Bảo Huynh Đệ. Nhưng điều quan trọng phải làm trước tiên là cầu nguyện, để có Chúa Giêsu ở giữa tác động và biến đổi mới mong đạt kết quả được.

a. Cuộc đời mỗi người có bốn ô không đều:

    1. Phần mù là ô chỉ người khác biết về ta những điều mà ta không biết hay ý thức được.

    2. Phần che đậy là ô chỉ ta ý thức và biết về mình, còn người khác không biết được.

    3. Phần hiển nhiên là ô người khác biết về ta, và ta cũng biết và ý thức được.

    4. Phần vô thức, bí mật và huyền nhiệm cuộc đời là ô người khác không biết về ta, mà ta cũng chẳng ý thức được.

Ta cần được người chỉ cho biết điều họ biết về ta mà ta không biết và ta cũng phải nói với người điều ta biết về họ mà họ không biết. Khi được ta xin, người khác sẽ nói cho ta biết phần mù của ta, và ta sẽ trả lời lại, giải thích cho họ về điều họ nói, đồng thời nói cho họ biết phần còn che đậy của ta. Như thế, người và ta sẽ dần dần thu hẹp lại phần mù lẫn phần che đậy, và khai mở biên giới của phần hiển nhiên, để rồi cả đôi bên hiểu biết nhau hơn, cảm thông nhau hơn, tín nhiệm nhau hơn, thân nhau hơn, thương nhau hơn và cộng tác tích cực với nhau hơn.


b. Tám điều kiện của người cho nhận xét

  1. Đợi cho người nghe phải sẵn sàng đã mới góp ý.

  2. Mô tả một hành vi như quay một cuốn phim, không phê phán.

  3. Việc xảy ra không lâu, để người đó còn nhớ rõ mà kiểm chứng.

  4. Nói những điều người kia vô tình không ý thức được.

  5. Nói những điều có thể sửa đổi được (hiện tượng chứ không phải bản chất).

  6. Chỉ nói những điều có thể sửa đổi được, nhưng không bắt buộc người kia phải sửa đổi.

  7. Nói để giúp ích cho người kia, chứ không phải nói cho hả giận hoặc để trả thù.

  8. Nói với sự kính trọng và yêu thương, như chia sẻ một mối ưu tư, một cảm tưởng, một phản ứng tự nhiên.


c. Bốn điều kiện của người nhận góp ý

  1. Phải xin người khác cho mình nhận xét.

  2. Lắng nghe và kiểm chứng là mình đã hiểu rõ.

  3. Đừng mất tinh thần, nếu gặp phải nhận xét tiêu cực (bị chê, bị chỉ trích).

  4. Trả lời cho người cho mình nhận xét với lòng biết ơn, vì người ta đã bởi lòng bác ái mà cho mình nhận xét, nhất là khi nhận xét làm cho mình khó chịu.

Vấn nạn: Người cho nhận xét phải đợi người nhận sẵn sàng đã, nhưng nếu người nhận chưa sẵn sàng (không xin), mà việc cần góp ý ngay thì phải làm sao? – Thưa phải theo gương Chúa Giêsu chủ động đi bước trước: “Ông Simon, tôi có điều này muốn nói với ông. – Xin Thầy cứ nói”90.


Muốn xin người góp ý hay muốn góp ý cho người đều phải tế nhị, đừng quá đường đột, bằng cách xin hẹn một cuộc gặp gỡ, một cuộc nói chuyện riêng. Bề dưới có thể chủ động xin giờ hẹn để Bề Trên chuẩn bị tâm lý sẵn sàng lắng nghe trình bày và góp ý. Bề Trên cũng có thể hẹn trước để bề dưới chuẩn bị tinh thần, nhất là đối với người dễ phản ứng mạnh. Chị em ngang hàng với nhau cũng thế. Tất cả cũng chỉ vì bác ái, muốn điều tốt nhất cho nhau và cho sứ vụ tông đồ. Có thể nói rằng nếu chúng ta không sẵn lòng chỉ bảo và lắng nghe nhau thì không ai muốn làm công việc đó.
Việc góp ý nhận xét mang lại cho nhau cơ hội tốt để giải thích rất nhiều hiểu lầm (x. Chuyện Khổng Tử và Nhan Hồi). Nó giúp ta và tha nhân ý thức được những khía cạnh nhân bản và giao tế của mình rõ hơn để thăng tiến; gia tăng sự tin cậy, tình bằng hữu và loại trừ sợ hãi, tạo bầu khí bình an và an toàn vốn là đặc tính thiết yếu của một cộng đoàn tu trì. Nếu thấy lỗi lầm cụ thể của chị em, trước hết hãy cầu nguyện cho mình và cho chị em được biến đổi, rồi đến nói trực tiếp với người chị em như Chúa dạy, nếu người chị em quyết tâm sửa thì thôi, bỏ qua, không nói gì với ai nữa. Nếu người chị em chưa sửa được, hãy nhẫn nại cầu nguyện và khích lệ, vì cái gì cũng cần có thời gian. Khi nói chuyện với các chủng sinh và tập sinh, ĐTC Phanxicô dạy: “Nếu tôi có điều gì chống lại một người anh một người chị, tôi sẽ nói điều đó trước mặt họ, hoặc tôi sẽ nói điều đó cho ai có thể giúp đỡ, nhưng tôi sẽ không nói với người khác để bôi tro trát trấu vào mặt họ. Ngồi lê đôi mách thì thật kinh khủng! Đằng sau việc ngồi lê đôi mách, và ẩn dưới việc ngồi lê đôi mách này là đố kỵ, ghen tuông, tham vọng. Các con hãy nghĩ về điều này91.
Nếu gặp một lỗi nghiêm trọng mà người chị em thiếu tinh thần phục thiện và ngoan cố thì để tránh thiệt hại lớn cho cộng đoàn lẫn đương sự, sau khi đã cầu nguyện và trực tiếp làm mọi cách có thể, hãy theo lương tâm, can đảm đích thân kín đáo trình bày với Bề Trên và người có thẩm quyền, cùng sẵn sàng chịu trách nhiệm kiểm chứng về điều mình nói, cả khi đương sự có mặt. ĐTC Phanxicô căn dặn: “Hãy nói điều đó với Bề trên, với Giám mục là những người có thể sửa chữa. Nhưng đừng nói điều đó cho người không thể giúp ích gì”92.
Lạy Chúa Cha nhân lành, sửa lỗi cho nhau để giúp nhau nên tốt hơn là một trong những bổn phận quan trọng của mỗi người chúng con. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn thật để chúng con có thể vui lòng đón nhận những lời góp ý xây dựng của anh chị em93. Chớ gì chúng ta có được một tình huynh đệ như tình bạn của Gionathan và Đavít mà chân phước viện phụ Enrêđi đã nhắc đến trong khảo luận về tình bằng hữu hoàn hảo94.

Tình huynh đệ đích thực sẽ là:



  • một sự đoàn kết bên nhau để cùng tiến bước,

  • một cuộc đối thoại thường xuyên trong cuộc sống đa nguyên, đa diện,

  • một cuộc gặp gỡ cởi mở hơn cho cuộc hành trình đầy gian khó và nguy hiểm,

  • một sự có mặt khích lệ hay một nâng đỡ hỗ trợ tinh thần,

  • một lời vui, một tiếng cười thanh thỏa cùng chia sẻ tình thương dâng lên vời vợi,

  • một cái nhìn cảm thông khi vướng trở ngại, hay khi bị thất bại chua cay,

  • một “tôi khác” để mỗi người có dịp phản tỉnh nhìn lại bộ mặt của mình, có khi đã hoen ố bụi đời,

  • một bạn đồng hành để con đường thập giá bớt nỗi đơn côi,

  • một Simong vác đỡ hay một Vêrônica lau mặt,

  • một cái gì khỏa lấp chỗ trống vắng tình thương sau tình yêu Thầy Chí Thánh,

  • một hiện diện và hiện thân của Thiên Chúa cao xa vô hình.

Chớ chi mỗi người chúng ta trước hết hãy là người bạn đích thực như thế cho nhau và cho kẻ khác, Chúa sẽ quảng đại ban cho chúng ta những người bạn quý như vậy.


  1. CỘNG ĐOÀN CẢM THÔNG

  1. Mời gọi cảm thông


Phúc cho ai thương xót người vì họ sẽ được xót thương95: Chúa Giêsu hứa rằng vì họ đã cảm thông với người nên họ sẽ nhận được lòng thương xót của Chúa. Một người không cảm thông thì lạnh lùng, dửng dưng, vô cảm “sống bên nhau mà như nước mây hững hờ…” Một người như vậy không thể đồng cảm với người khác, không thể thấu hiểu cái gì xảy ra trong họ và cho họ. Sự vô cảm đưa tính ích kỷ và sự chăm lo bản thân đến độ thái quá (tự say mê mình, narcissisme: “tôi mê tôi”), khiến trở nên tha hóa và thiệt hại cho đời tu của mình.
Trái lại, sự cảm thông đưa người ta đến với tha nhân và đồng cảm với họ (x. Đôi bạn Quản Trọng và Bảo Thúc Nha). Cảm thông bao gồm khả năng nhận biết, kể cả tưởng tượng ra hoàn cảnh thực tế của tha nhân. Thời nay các thực tế ảo của kỹ thuật số, phim truyện, truyền hình có thể đánh động trí tưởng tượng và các cảm nhận ở một mức độ sâu xa, khiến người xem có thể bật khóc, chẳng hạn ai cũng cảm phục câu trả lời khôn khéo của Jeanne d’Arc trước các phán quan của Tôn giáo pháp đình “Cô có nghĩ là mình có ơn nghĩa Chúa không? [Nếu trả lời ‘không’ thì là tội đáng chết, mà nếu trả lời ‘có’ thì bị khép tội kiêu ngạo cũng phải chết]: Nếu tôi không có ơn nghĩa Chúa, xin Chúa dẫn tôi vào; nếu tôi đang sống trong ơn nghĩa Chúa, xin Chúa giữ gìn tôi”, và rơi lệ khi chứng kiến những giây phút cuối cùng của đời nàng trên giàn lửa thiêu.
Tuy nhiên, việc phơi bày nỗi đau khổ của người khác có thể phản tác dụng, chẳng hạn người xem có thể trở nên nhẫn tâm trước những điều trông thấy và bỏ đi. Những hình ảnh truyền hình về chiến tranh, bạo lực trên trẻ em và phụ nữ động viên những người này chống chiến tranh bạo lực và sự ngược đãi phụ nữ trẻ em, nhưng cũng có thể đóng lòng trí những người khác lại trước thực tế thương tâm ấy, kể cả phủ nhận nó và coi nó như là đã được dàn dựng nên [x. Câu chuyện Vô duyên – Vô tâm].
  1. Cảm thông và Công bằng


Thấy được mối liên hệ giữa cảm thông và công bằng, đồng thời biết rằng nếu không có cảm thông thì không thể sống cách công bằng được là điều quan trọng, khiến người ta tỏ ra bất bình và can thiệp khi người lớn bắt nạt trẻ nhỏ, người mạnh ăn hiếp người yếu… ‘Kiến nghĩa bất vi bất nghĩa’. Do đó, việc lấy lại được cảm thức thương xót và coi nó như căn bản của bất cứ cảm thức luân lý và công bằng nào là điều thế giới này đang rất thiếu sót, và ĐTC Phanxicô đã nhiều lần lên tiếng mạnh mẽ tố cáo.
Cảm thông là tâm điểm của công bằng đích thực. Nếu nhìn thấy những người chung quanh đau khổ mà kết luận là do lỗi của họ, và nếu nghe các nhà chính trị nói về sự cân bằng ngân sách trên lưng người lao động mà vẫn thản nhiên, thì chúng ta đã đánh mất không chỉ cảm thức cảm thông mà còn đánh mất cả cảm thức về công bằng nữa. Chúng ta phải thấy là có cái gì đó “không ổn” khi nghe có kẻ nói ‘Tại sao đồng tiền của người khó nhọc làm việc lại phải giúp cho những kẻ biếng nhác ăn xin?’, vì những lời nói đó tỏ ra vô cảm với những người đau khổ, trẻ em, người già, thất nghiệp (x. dụ ngôn người làm từ giờ thứ 11), và tạo nên hố sâu giữa mình và những người đang phải đau khổ.

Đòi hỏi công bằng không phải là việc của một chọn lựa, song đúng hơn là việc của trách nhiệm. Đó là một lời mời gọi căn bản đối với nhân tính, được các tôn giáo kêu gọi và hỗ trợ. Ngay cả trẻ con cũng nhận ra cái gì là công bằng và cái gì là không công bằng, và chống lại những việc bất công. Cái dễ làm cho chúng ta trở nên bất nhân đối với nhau chính là khuynh hướng thiết lập sự đối chọi ‘chúng ta - chúng nó’. Nếu nhìn mình đối nghịch với tha nhân thì càng dễ trở nên độc ác hơn nữa. Chúng ta hãy nghe câu chuyện cảm động về một bà cụ già nghèo nàn phải tội ăn trộm sắn để nuôi đứa cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ, bị chủ nông trại sắn bắt được đưa tòa đòi bồi thường một triệu đồng. Sau khi xem xét, quan tòa nói với bà cụ: “Tôi rất thông cảm hoàn cảnh của cụ, nhưng cứ pháp luật thì tôi tuyên phạt cụ phải trả một triệu đồng hay hai năm tù ở”. Trong khi bà cụ đau khổ bàng hoàng tuyệt vọng, ông nói với mọi người hiện diện: “Chúng ta không thể chấp nhận ở thời đại kinh tế phát triển của đất nước chúng ta mà còn có việc người dân nghèo đến đổi phải đi ăn trộm sắn heo ăn để nuôi cháu mồ côi. Nhân danh lòng cảm thông liên đới của tình người, tôi tuyên phạt mỗi người hiện diện năm mươi ngàn đồng, bắt đầu từ tôi, và số tiền thu được sẽ giao hết cho bà cụ”. Nói rồi ông ngã mũ bỏ vào năm mươi ngàn đồng và giao cho thư ký đi thu gom. Mọi người tích cực hưởng ứng và số tiền thu được giao cho bà cụ là ba triệu rưỡi, nộp phạt một triệu, còn lại hai triệu rưỡi nuôi cháu. Bà cụ hết sức cảm động cám ơn, nước mắt chảy dài. Và nhiều người cũng ngấn lệ.

(Lời Kinh Hòa Bình của Từ Duyên)
  1. Trọng tâm của đời sống cộng đoàn


Một thực tế vừa phát triển vừa suy tàn trong thế giới hiện đại là khát vọng sống cộng đoàn, bởi vì thực tế đời sống cộng đoàn (sống hiệp nhất với) bị áp đảo bởi nhu cầu cá nhân vun vén và bảo vệ chính mình (cá nhân chủ nghĩa). Sống cộng đoàn có nghĩa là hợp nhất với nhau và cam kết trả cái giá của sự hợp nhất ấy: sẵn sàng cống hiến sự trợ giúp cũng như sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp. Có một sự hỗ tương trong cộng đoàn đòi hỏi cả hai, vừa trao ban vừa lãnh nhận: Cộng đoàn không thể tồn tại nếu không có hiểu nhau và cảm thông nhau. Mỗi thành viên được kêu gọi tự giúp mình, giúp đỡ người khác và để người khác giúp đỡ mình. Kẻ không muốn ai giúp mình vì sợ làm phiền người ta là kẻ làm phiền lòng người khác nhất.
Cộng đoàn cảm thông phải được ưu tiên xây dựng trên lòng tín nhiệm và mối tương quan tốt. Công trình này phải được thực hiện bởi các nỗ lực cá nhân và nhóm. Hạt giống ‘con người là con vật có tính xã hội cao’ đã được gieo sâu vào văn hóa nhân bản, nhưng cần phải được nuôi dưỡng, nhất là vào thời điểm mà lòng cảm thông và nếp sống cộng đoàn bị đe dọa bởi khuynh hướng tự vun quén cho bản thân. Chúng ta cần được chuyển vào một giai đoạn liên đới quan trọng của lịch sử con người. Nhiều người viết và nói đến giá trị của một “xã hội tốt đẹp hơn” phối hợp lợi ích cá nhân với ý thức cộng đồng. Chúng ta thấy gương của những người đã kinh nghiệm một biến đổi nội tâm khiến họ chìa tay ra cứu giúp những người đang gặp khó khăn. Càng ngày càng có nhiều tình nguyện viên chăm sóc những người khác, vì đó cũng là giúp đỡ chính mình chu toàn trách nhiệm nhân tính mà Tin Mừng đòi hỏi.
Thời đại mới đòi hỏi những cơ cấu mới phục vụ công ích. Nếu muốn phát triển những cơ cấu như thế, chúng ta sẽ cần đến những con người có quan tâm và khả năng thực hiện những quan niệm mới và những chương trình hành động mới. Để được như vậy, chúng ta cần không ngừng đổi mới quan niệm, cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động, cách sống và cách yêu thương. Lòng cảm thông là cái cần phải có để mang lại sự đổi mới các yếu tố cộng đoàn rất cần thiết cho ngày hôm nay. Các cơ cấu nhân bản cần được trở về với lòng cảm thông và chú tâm tới đời sống cộng đồng hơn. Cảm thức tùy thuộc lẫn nhau phải là tâm điểm của bất cứ cộng đoàn đích thực nào. Người ta không thể quay lưng lại với nhau: cùng đi trên một chiếc thuyền, để thuyền chìm thì cùng chết tất cả. Nhưng tinh thần thuộc về nhau này bị đánh mất bởi cái tôi chủ nghĩa, và những hình thức bạo động chống đối và loại trừ lẫn nhau. Cộng đoàn cảm thông vận hành một cách đúng đắn rõ ràng là nhu cầu thiết yếu cho thế giới hiện tại. Chính cộng đoàn cảm thông và công bằng làm cho hành trình thiêng liêng của chúng ta càng ngày càng tiến bộ. Thánh Phaolô nhận định: “không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cùng vui chung”96. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ cổ vũ nền “văn hóa gặp gỡ” và tố cáo nền văn hóa loại trừ”.
  1. Lòng cảm thông và lầm lỗi của tha nhân


Chúng ta đừng quên tiến trình chỉ bảo huynh đệ để sửa chữa lầm lỗi của người khác mà Chúa Giêsu dạy trong Phúc âm Matthêu97. Ai cũng có thể mắc phải lầm lỗi, cố tình hay vô tình, biết rõ hay không biết gì. Có thể có hai thái độ hành xử: Người cảm thông phòng bệnh đi bước trước, ngăn ngừa những ảnh hưởng tác hại từ bên ngoài, hay dập tắt ngay từ trứng nước cái mầm từ bên trong, để lỗi lầm không thể xảy ra. Người cảm thông tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, cho người phạm lỗi biết lỗi, lắng nghe lời giải thích, cùng nhau xác định đúng lỗi lầm, cho đương sự cơ hội và thời gian sửa chữa, nhẫn nại giúp đương sự tập đức tính ngược lại, hy vọng vào kết quả sẽ có trong tương lai. Đó là viễn ảnh Tin Mừng “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi98. Thật đẹp khi người đào tạo can đảm bảo lãnh cho thụ huấn sinh sửa mình.
Trái lại, người thiếu cảm thông mới khám phá thấy lỗi lầm đã có biện pháp ngay, vì óc cầu toàn đòi hỏi và đốt giai đoạn, coi người khác như đã đạt tới trình độ của mình. Hoặc khá hơn, người thiếu cảm thông sẽ chờ đợi lỗi lầm trở nên rõ ràng để có biện pháp, nhất là khi người có lỗi che đậy, giấu giếm vì một lý do nào đó. Cũng tùy thái độ ngoan cố và thiếu tinh thần phục thiện của người lầm lỗi, người thiếu cảm thông thường âm thầm theo dõi, hoặc tệ hại hơn, ngược với sư phạm giáo dục đích thực là đặt người theo dõi báo cáo, có khi còn tệ hơn “gài bẫy” cho mắc phải để đương sự không thể chữa mình hay chối cãi được nữa.
Chớ gì tiến trình chỉ bảo huynh đệ của Chúa Giêsu được thực thi. Cha ông chúng ta cũng từng quan niệm: “Nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cãi, thị vị vô quá” (Đã là người thì ai ai cũng đều có lỗi, có lỗi thì sửa lỗi, và như vậy sẽ không còn lỗi nữa). Tuy nhiên, để thực hiện lòng nhân ái ấy, chúng ta cần khéo léo sử dụng kỹ thuật chỉ bảo huynh đệ “feed-back”, áp dụng vào cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Tiến trình này sẽ dễ dàng hơn khi cùng nhận ra hoạt động biến đổi của Chúa Thánh Thần xuyên qua các biến cố thăng trầm của cuộc đời. Gương David khiêm tốn nhận ra chương trình của Chúa trong cơn hoạn nạn chạy trốn khỏi chính con trai phản loạn của mình, khi bị Sim-y nguyền rủa và A-vi-sai đòi giết nó: “Nếu Đức Chúa bảo nó: ‘Hãy nguyền rủa Đa-vít’, thì ai dám hỏi: ‘Tại sao mày làm như thế?’ ‘Này con trai ta, do chính ta sinh ra mà còn tìm hại mạng sống ta, huống chi là tên Ben-gia-min này! Cứ để nó nguyền rủa, nếu Đức Chúa đã bảo nó. May ra Đức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta và Đức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc, thay vì lời nguyền rủa của nó hôm nay99.
  1. Cộng đoàn và đường lối cảm thông


Người thời nay nhấn mạnh đến quyền lực kinh tế và sự thống trị chính trị. Nhiều người lãng quên giáo huấn trọng tâm của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Cuộc sống chúng ta cách nào đó còn xa lạ với giáo huấn của Chúa Giêsu, Đấng đã bước đi gần gũi với dân chúng, chữa lành người ốm đau, nuôi ăn người đói khát, tha thứ cho người ngoại tình bị bắt quả tang, và dạy luật mới của tình yêu: yêu người như chính mình, yêu cả kẻ thù, và trên hết là yêu người như Chúa yêu ta. Cộng đoàn chúng ta phải làm chứng tá cho các giá trị Phúc Âm trên con đường canh tân cuộc sống và các mối tương quan, đồng thời truyền lại sức sống ấy cho thế giới đã lạc đường và không biết anh chị em mình đang ở đâu! Việc khám phá và sống sự phong phú của đời sống tu đức giúp chúng ta đạt tới một ý thức được canh tân về một cộng đoàn cảm thông và công bằng. Tu đức nhắc nhở chúng ta rằng yếu tố quan trọng nhất của cuộc sống trên trần gian này được nối kết sâu xa với một cái gì lớn hơn thế giới này, tức Nước vĩnh hằng của Thiên Chúa, và chúng ta phải nỗ lực thiết lập một nền tảng vững chắc cho một cộng đoàn nhân ái, cảm thông và công bằng, vốn là dấu chỉ và chứng tá của Nước Trời.
Kinh Thánh luôn nói đến tầm quan trọng của việc chăm sóc người nghèo, người đau khổ, cô nhi quả phụ, người bệnh tật, người bị gạt ra bên lề. Và cám ơn Chúa, đó là một nét nổi bật của đạo Công giáo chúng ta. Lòng cảm thông trắc ẩn là phẩm chất nồng cốt trong đời sống của bất cứ ai lấy Chúa làm trọng tâm để bắt chước: “Hãy có lòng trắc ẩn như Cha trên trời hằng động lòng trắc ẩn”100 - “Vui với người vui, khóc với người khóc101. Sự bắt chước Chúa này vượt quá đầu óc duy lý của con người trần gian, giúp cảm nhận nỗi đau của người khác, thúc đẩy chúng ta ra tay làm một cái gì để làm nhẹ bớt nỗi đau khổ đó. Lòng thương xót dẫn chúng ta đến từ tâm trong hành động. Chúa Giêsu kể câu chuyện vị tư tế và trợ tế đã tránh đi qua bỏ mặc người bị nạn trên đường Giêricô, trong khi người Samaritanô đã dừng lại băng bó vết thương, mang vào quán trọ cứu giúp và trả trước tiền chăm sóc cho người ấy. Người Samaritanô không bỏ đi là mẫu gương của người cảm thông. Cộng đoàn nào bỏ đi khỏi người đang có nhu cầu liều mình làm cho Chúa không hài lòng: “Kẻ nào áp bức người nghèo là lăng mạ Đấng dựng nên mình, còn kẻ nào tốt với người quẩn bách là tôn vinh Thiên Chúa102.
Sự công chính đích thực mà Chúa đòi hỏi là sự cảm thông sâu xa hơn là sự công bằng đơn thuần. Thế mà thực tế là thường chúng ta không đạt tới những đòi hỏi của Chúa. Có khi còn tệ hơn nữa là làm hỏng đòi hỏi đó bằng cách sống thiếu cảm thông, thiếu ân cần đối với người nghèo, người bị bỏ rơi, người quẫn bách, người bên lề, người bị áp bức, người không có tiếng nói, trái với cách hành xử của Chúa, “Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó”103.
  1. Công bằng bên trong cộng đoàn cảm thông


Trong đời sống phục vụ với tư cách là linh mục/tu sĩ, nhiều việc chúng ta cho là bác ái, nhưng kỳ thực là việc của đức công bằng. Có thể nói rằng chăm sóc một thành viên trong cộng đoàn bị ốm thuộc về công bằng, trong khi chăm sóc một cụ già hàng xóm neo đơn thuộc về bác ái. Suy tư về từ ngữ bác ái và công bằng, chúng ta nhận thấy mỗi chữ có một cảm nhận khác nhau. Khi nghĩ tới bác ái, cái đến ngay trong trí chúng ta là những công việc của lòng từ tâm phát ra từ sự dư dật hay những cảm nghĩ cao thượng của chúng ta. Những việc này chúng ta không bị bó buộc phải làm, nhưng vì chúng ta động lòng. Động lòng vì đau khổ của người khác, chúng ta làm một việc bác ái, nghĩa là làm một việc gì đó chúng ta không bị bó buộc phải làm. Trái lại, công bằng là một cái gì bó buộc phải làm.
Sống công bằng là một thách đố. Bác ái là làm cái gì chúng ta có khả năng hay do lòng tốt. Trái lại, công bằng đòi hỏi chúng ta làm tất cả những gì chúng ta phải làm, bất kể cái giá phải trả. Như một phần thiết yếu của cuộc sống tốt, đức công bằng là mối quan tâm và trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Công bằng là một lời mời gọi dựa trên tình nhân loại, và cũng là một đức tính cần thiết để có những cơ cấu tốt. Nhưng nếu không có những cơ cấu, những hệ thống và chính phủ tốt biết thực thi chức năng của mình cách công bằng với tất cả mọi người, thì bác ái trở nên một trợ lực thiết yếu bù đắp cho một thực tế bất công của thế giới chung quanh chúng ta. Trải qua lịch sử nhân loại, đã có những thời kỳ đức công bằng rất yếu nên vai trò của bác ái trở nên thiết yếu. Thường công việc bác ái của các Giáo Hội, của những hiệp hội thiện nguyện, của những người thiện chí cố gắng bù đắp cho những bất công của chính phủ và của thế giới thương mại.
Cái khó khăn là chỉ có bác ái không thể bù đắp cho những bất công trên cấp độ rộng lớn. Do đó cần có liên minh các tiếng nói đòi hỏi công bằng. Công bằng và cảm thông phải cùng nhau hành động. Chúng ta bịt mắt lại với bất công khi chúng ta không thể cảm thông. Chúng ta có thể khoan dung cho bất công bằng cách tự nhủ rằng “không phải trách nhiệm của tôi”, hay “điều đó vượt sức tôi”. Nếu làm như thế thì dù có giải thích thế nào đi nữa, chúng ta vẫn hỗ trợ cho bất công và trở nên có lỗi. Phải đối mặt với bất công, phải nói với các hệ thống và cơ cấu về những bất công căn bản của chúng, vì chúng cũng phải gánh chịu hậu quả hành vi bất công ấy.
Công bằng và bác ái phải sát cánh bên nhau. Công bằng mà không có bác ái có thể trở nên lạnh lùng và vô cảm. Bác ái mà không có công bằng sẽ không thể tiếp cận với hết những ai phải đau khổ. Mọi cá nhân, cộng đồng và các cơ cấu đều cần phải vừa công bằng vừa bác ái. Đòi hỏi đó còn cao hơn đối với cộng đoàn tu sĩ chúng ta, qua chứng tá cá nhân và tập thể cho tình yêu của Thiên Chúa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con… Cứ dấu này mà thiên hạ nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con hãy yêu thương nhau”; “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến đỗi ban Con Một Ngài cho thế gian được sống”.
Thánh Phêrô khuyên chúng ta: “Anh em đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi, thì hãy cố gắng hết mình, để làm cho các ơn đó nên vững mạnh. Có thế, anh em sẽ không bao giờ vấp ngã, và nhờ đó, con đường rộng mở để đón nhận anh em vào Nước vĩnh cửu của Đức Giê-su Ki-tô là Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta104.
  1. CỘNG ĐOÀN HIỆP THÔNG


Không thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương các người anh em, không thể yêu Thiên Chúa ngoài Giáo Hội: Không thể hiệp thông với Thiên Chúa mà không hiệp thông trong Giáo Hội, và chúng ta không thể là các kitô hữu tốt, nếu không cùng với tất cả mọi người tìm theo Chúa Giêsu như một dân tộc duy nhất, một thân mình duy nhất và đó là Giáo Hội105.
  1. Nhận định chung


Tại sao chúng ta cần suy tư thần học về cộng đoàn hiệp thông? - Vì đó là nhu cầu và xác tín của tu sĩ chúng ta, được huấn quyền Giáo Hội xác nhận. Quả thế, cộng đoàn tu sĩ được khai sinh bởi một lời mời gọi của Thiên Chúa và là kết quả của một lời đáp trả của con người. Huấn thị Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn tuyên bố: “Tình yêu Chúa Kitô đã qui tụ một số đông môn đệ để họ trở nên một, để như Ngài và nhờ Ngài, trong Chúa Thánh Thần, qua dòng lịch sử, họ có thể đáp lại tình yêu của Chúa Cha, yêu mến Ngài ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’ (x. Dnl 6,5) và yêu thương cận nhận như chính mình (x. Mt 22,39)106.
Được sinh ra không phải “bởi ý muốn xác thịt”, cũng không phải do sự hấp dẫn của con người hay bởi những động lực nhân loại, song bởi Thiên Chúa, cộng đoàn tu sĩ là dấu chỉ sống động của tình yêu ưu tiên của Chúa, Đấng thực hiện những điều kỳ diệu, và cũng là dấu chỉ của tình yêu cho Chúa và cho anh chị em, như đã được Chúa Kitô biểu lộ và thực hành. Bởi đó, cộng đoàn tu sĩ là một thực tại thần học, vốn là kết quả của cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người. Vì thế, chúng ta cần học hỏi và suy tư về cộng đoàn tu sĩ với tinh thần đức tin. Mục tiêu của cuộc học hỏi này là suy tư có tính cách thần học về nguồn gốc, sự hiện hữu và mục đích của cộng đoàn tu sĩ. Do đó, chúng ta sẽ đề cập đến: nền tảng Thánh Kinh của cộng đoàn tu sĩ, với chú ý đặc biệt về các linh hứng Phúc âm; sự tăng trưởng có tính cách thần học và tu đức của cộng đoàn tu sĩ bên trong lịch sử Giáo Hội; căn tính của cộng đoàn tu sĩ trong Giáo Hội hiện đại và sứ mệnh của Giáo Hội trong thế giới hôm nay.
  1. Tình trạng phân mảnh


Kinh nghiệm chung của con người hôm nay là sự phân mảnh, ở mọi cấp độ và mọi lãnh vực cuộc sống. Chúng ta thấy sự phân mảnh hiện nay về các thực thể địa lý, chính trị. Cả những tương quan về giống cũng bị phân mảnh và sự bất cân đối nam-nữ vẫn chưa được chữa lành. Toàn cầu hóa đem các dân nước xích lại gần nhau, nhưng cũng không tránh được tình trạng phân biệt đối xử và bất bình đẳng. Trong nhiều quốc gia, người nghèo, phụ nữ và trẻ em bị gạt ra bên lề. Việc phá hủy môi trường tự nhiên, phá hủy văn hóa bản xứ và làm băng hoại các giá trị nhân bản càng gây thêm sâu hơn nữa tình trạng phân mảnh. Vì thế một quan niệm đúng đắn và sự hiệp thông tinh thần là rất cần thiết, như Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho chúng được hiệp nhất nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.
Sự phân mảnh cũng tác động ở mức độ cá nhân: Cuộc sống cá nhân xem ra đánh mất sự duy nhất nội tâm, cũng như sự phô diễn ra bên ngoài và định hướng về tương lai, vì bị lèo lái bởi những thúc đẩy của tình trạng phân tán, phân mảnh và tha hóa. Do đó lời mời gọi thăng tiến những liên hệ của tình liên đới trở nên cấp bách. Phải thay đổi tình trạng loại trừ, gạt ra bên lề và bất bình đẳng do nền văn hóa phân mảnh ngày nay mang lại. ĐTC Phanxicô thường mạnh mẽ tố cáo “văn hóa loại trừ” và tích cực cổ vũ nền “văn hóa gặp gỡ”. Cũng cần nuôi dưỡng một não trạng sinh thái, nghĩa là tất cả mọi vật được tạo thành đều kết nối với nhau, bổ túc lẫn nhau, có cùng một số phận, phá hủy một cái sẽ gây nên những hậu quả sinh tử cho toàn thể.
Đứng trước bối cảnh phân mảnh đó, tìm kiếm hiệp thông quả thật là một việc phức tạp. Nó bao trùm mọi cấp độ và mọi khía cạnh của cuộc sống: liên chủng loại, liên sắc tộc, liên quốc gia, liên cộng đồng, liên nhân vị và nội tại trong mỗi con người nữa. Cái mà con người ngày nay cần đến là một hiệp thông đời sống vừa trao ban vừa nhận lãnh cách hỗ tương.
  1. Kinh nghiệm tìm kiếm hiệp thông


Ở Nhật, người ta thiết lập những đường điện thoại dành cho các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần tư vấn, và cũng mở ra cho những người cần có ai đó để nói chuyện. Một buổi tối nọ, nhà tư vấn tâm lý Nishiga nhận một cú điện thoại. Một cậu bé hỏi: “Tôi có thể nói chút việc được không ạ?” Rồi cậu thêm: “Mà xin lỗi, đừng cúp máy nhé!” Nishiga bảo đảm với cậu bé rằng ông vẫn giữ đường dây. Rồi cậu bé hỏi: “Tôi muốn cảm nhận như đang nói với một người nào đó, được không ạ?” Nishiga lại bảo đảm với cậu bé là cậu cứ việc nói. Cậu bé đáp: “Cám ông ông”. Rồi cậu im lặng. Ba phút sau, cậu lên tiếng hỏi: “Ông có còn đó không ạ?” Nishiga hỏi cậu đang nghĩ gì. Và cậu bé trả lời: “Tôi rất vui vì có một người chịu để mất thời giờ cho một ai đó như tôi.” Và cậu còn thêm: “Tôi có thể gọi lại không ạ?” Rồi cậu cúp máy. Rõ ràng cậu bé cần kết nối hiệp thông. Cậu tìm một người đồng hành. Biết bao nhiêu người trẻ trên thế giới cùng trải qua kinh nghiệm tìm kiếm ấy. Thật chẳng may, nhiều người trong họ kết cục nhập bọn với đám trẻ đường phố, hay tương tự như thế. Nhiều người lớn cũng đi tìm người đồng hành, tìm tình bạn. Và nhiều người đã gia nhập vào bất cứ nhóm nào họ gặp: đủ thứ câu lạc bộ và hiệp hội, nhóm cầu nguyện, ngay cả các nhóm giáo phái.107 Ngày nay những hoạt động tư vấn đa dạng đang được mở rộng. Chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa, Giáo Hội và Hội dòng luôn cung ứng cho chúng ta món quà quí báu là sự đồng hành thiêng liêng, linh hướng. Và trong hoàn cảnh chưa có được như mong muốn thì chúng ta cũng có thể tìm được cách nào đó qua cha giải tội nơi tòa xưng tội. Trong các dịp tĩnh tâm, cha giảng phòng luôn sẵn sàng phục vụ lắng nghe, xin chị em đừng có ngại.
  1. Khao khát hiệp thông là rất người


Hiệp thông là cái con người hôm nay tha thiết ao ước. Henri Nouven nói: “Chúng ta thực sự ao ước cái gì? Khi tôi cố gắng lắng nghe ước muốn sâu xa nhất của chính tôi, cũng như ước muốn của kẻ khác, thì xem ra từ ngữ tốt nhất để tóm tắt ước muốn của trái tim con người là HIỆP THÔNG. Hiệp thông có nghĩa là “hiệp nhất với”. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một trái tim sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nào tìm được hiệp thông trọn vẹn với Ngài”. Chúng ta tìm sự hiệp thông nơi tình bạn, tình yêu trong cộng đoàn, cả nơi sự khao khát thân mật giới tính, dù phải đối mặt với những nguy hiểm. Hiệp thông là một khao khát do Chúa ban, một ước ao có khi mang lại đau khổ miên man, có khi vui sướng bao la. Nhưng sự khao khát hiệp thông của chúng ta sẽ không ra vô ích, mà sẽ được lấp đầy bởi Đấng đã ban cho chúng ta khao khát ấy.
Những khoảnh khắc hiệp thông chóng qua chỉ là dấu hiệu lờ mờ của Hiệp thông mà Chúa hứa cho chúng ta là hiệp thông với Ngài. Nếu không có khao khát hiệp thông thì cuộc sống chúng ta mất đi sức sống và con tim chúng ta ra giá lạnh. Một đời sống thiêng liêng đích thực là một đời sống trong đó chúng ta không tìm được an nghỉ cho đến khi nào được nghỉ ngơi trong vòng tay của Chúa, Đấng là cha là mẹ của mọi khao khát, như thánh Augustinô từng nói: “Lạy Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa”.
  1. Hiệp thông với Chúa


Cựu Ước thấm đậm ý muốn sáng tạo - hiệp thông của Giavê và khao khát hiệp thông với Thiên Chúa của Israel (nhân loại). Sự khao khát hiệp thông hỗ tương này bắt nguồn từ ý muốn tự do cao cả của Giavê khi tuyển chọn và thiết lập với Israel một mối liên hệ mật thiết. Chúng ta lùi lại thời điểm sáng tạo để thấy ước muốn hiệp thông của Thiên Chúa với nhân loại khi Ngài phán: “Chúng ta hãy làm nên con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…”108. Việc sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa nhằm đến cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Tạo Hóa dựng nên một tạo vật tương ứng với Ngài: một ai đó mà Ngài có thể nói với và kẻ đó lắng nghe Ngài. Nhưng phải lưu ý rằng từ ngữ “con người” là một từ ngữ tập thể. Vì thế, liên quan đến việc sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ đến một con người cá vị, mà phải nghĩ đến tất cả mọi người.
Tên “Giavê” được mạc khải cho Mosê và cho dân chúng chỉ rõ ý tưởng của Thiên Chúa là “ở với”. Giavê “ở với” Israel: sự hiện diện trở nên hữu hình trong cuộc giải phóng của biến cố Xuất Hành và xuyên suốt lịch sử của dân được tuyển chọn. Thiên Chúa hằng sống luôn xuất hiện cho Israel như vị Thiên Chúa gần gũi, một Thiên Chúa luôn mong muốn đem con người đi theo mình. Ước muốn hiệp thông hay sự gần gũi của Thiên Chúa với con người là một đề tài rất được nhấn mạnh. Chẳng hạn trong những mô tả liên quan đến các tổ phụ: Enoch “bước đi với Chúa”109, Noe “một người công chính bước đi với Chúa”110. Nhưng tương quan trực tiếp với Chúa không được tái lập sau Đại hồng thủy: sự yếu đuối của con người đặt ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người, tạo nên một hố sâu giữa con người và Thiên Chúa, ngay cả với Abraham cũng đã được nói “bước đi trước mặt Chúa” chứ không phải “bước đi với Chúa”111. Thiên Chúa không đến “bước đi với” con người nữa, mà chỉ đơn giản hiện ra trong thị kiến112.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng với Abraham, Thiên Chúa bắt đầu phục hồi sự hiệp thông của Ngài với con người. Ngài muốn là Chúa của Abraham và miêu duệ ông113, một diễn tả nhắm đến sự đi theo, sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân Người. Những biến cố lớn của nỗ lực về phía Thiên Chúa để phục hồi sự hiệp thông của Ngài với con người là: Lời hứa cam kết vĩnh viển với Abraham và miêu duệ ông, cuộc giải phóng Israel khỏi ách nô lệ Ai cập114, và việc xây dựng Đền Thờ, nhờ đó Ngài luôn luôn hiện diện giữa dân115. Điều đòi hỏi Israel phải cam kết là chu toàn các chỉ thị phượng tự và tuân giữ giới răn của Chúa. Trong sách Lêvi, Thiên Chúa tuyên bố: “Nếu các ngươi theo các quy tắc của Ta, tuân giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành, Ta sẽ đặt nơi ở của Ta giữa các ngươi, và sẽ không chán ghét các ngươi. Ta sẽ đi đi lại lại giữa các ngươi; Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, còn các ngươi sẽ là dân của Ta116.
  1. CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG

  1. Bài học từ đàn ngỗng trời


Chúng ta hãy quan sát đàn ngỗng trời di trú bay sang một vùng đất ấm áp hơn để tránh mùa đông theo đội hình chữ V, để nương nhau và che chắn cho nhau bớt sức cản của gió. Khi có cùng một lòng một chí hướng và làm việc liên kết với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta sẽ đạt đến mục tiêu nhanh hơn, dễ dàng hơn và công việc thực hiện được sẽ lớn hơn.
Khi một con ngỗng lìa bỏ đội hình, nó sẽ cảm nhận sức cản của gió và những khó khăn khi bay một mình. Bấy giờ nó sẽ mau chóng quay trở lại trong đội hình, để hưởng lợi ích sức mạnh của nhóm bay đàng trước nó. Cũng thế, khi sống ăn khớp và hiệp nhất bên cạnh những người cùng chí hướng, chúng ta sẽ bớt phải gắng sức hơn, lại sẽ đạt đến mục đích dễ dàng và vui thú hơn. Thánh Phaolô nhắc nhở về đời sống cộng đoàn: “Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu. Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí117.
Khi con ngỗng đầu đàn bay đã mỏi mệt, nó sẽ lui vào cuối đội hình chữ V để dưỡng sức, và một con ngỗng khác sẽ bay lên thay thế dẫn đầu. Để kiện toàn công cuộc chung của cộng đoàn, chúng ta cần phải biết tôn trọng và giúp đỡ, chia sẽ những vấn đề và những phận vụ khó khăn của Bề Trên, biết cùng nhau tập hợp các khả năng, tài năng và các nguồn nhân lực vật lực của chúng ta lại với nhau. Còn Bề Trên thì luôn chú ý phát hiện và bồi dưỡng cho có người sẽ thay thế mình, để cộng đoàn không bao giờ thiếu lãnh đạo. Một lãnh đạo tốt sẽ luôn quan tâm đến tiến trình bốn bước chuẩn bị cho người thay thế này: - Dạy cho người ta biết làm; - Khi người ta biết làm rồi thì hãy giúp người ta làm; - Khi người ta đã làm được rồi thì hãy để cho người ta làm; - Cuối cùng, rút lui vì đã hoàn thành sứ mệnh.
Các con ngỗng trời bay trong đội hình chữ V kêu “quác quác” để khích lệ những con bay ở tuyến đầu, đồng thời duy trì được cùng một khoảng cách và tốc độ với nhau. Khi mỗi người trong cộng đoàn có được khích lệ và can đảm, sự tiến bộ chung sẽ lớn hơn. Một lời khích lệ đúng lúc luôn thúc đẩy, giúp đỡ và tăng sức mạnh. Nó sẽ sản sinh ra những lợi ích tốt nhất cho cộng đoàn (x. Câu chuyện vui của một cậu bé nghịch ngợm và thông minh tên “Quác” – “Con Trời”).
Khi một con ngỗng trời bị ốm, bị thương hay bị mệt phải lìa bỏ đội hình, thì một số những con ngỗng khác cũng lìa bỏ đội hình để bay với nó, giúp đỡ và bảo vệ nó. Chúng ở lại với nó cho đến khi nó chết hoặc có thể bay trở lại theo kịp nhóm đội của chúng, hoặc chúng sẽ tạo nên một đội hình chữ V khác và bầy đàn tiếp tục phát triển. Người bệnh, yếu mệt, lầm lỗi trong cộng đoàn chúng ta được đối xử thế nào? Chúng ta hãy ở lại sát cánh bên nhau, bất chấp những khác biệt của nhau, đặc biệt trong những lúc khó khăn và những thách đố lớn lao của mỗi người. Nếu chúng ta ràng buộc với nhau và trợ giúp lẫn nhau, nếu chúng ta làm cho tinh thần đồng đội trở nên thực sự, chẳng bận tâm đến những khác biệt của nhau, thì chúng ta có thể đương đầu được với các thách đố cam go của chúng ta. Nếu chúng ta ý thức đầy đủ về tình gia đình thiêng liêng của mình, chúng ta sẽ tìm mọi cách thích hợp để bảo vệ, phát triển và thăng tiến nó, vì việc dấn thân tuyên khấn trong linh đạo và truyền thống Hội dòng thực sự đưa chúng ta vào một gia đình thấm đậm tình người và tình Chúa, vừa nhân loại vừa thiêng liêng, trong mối tương quan của tình mẫu tử và tỉ muội. Và nếu chúng ta ý thức được lợi ích của tinh thần chia sẻ và cộng tác với nhau trong cộng đoàn, cuộc sống cộng đoàn sẽ trở nên dễ dàng và phong phú hơn thành một cộng đoàn yêu thương thực sự. ĐTC Phanxicô nói với 5.000 tu sĩ nam nữ Đại Hàn ngày 17/8/2014: “Bất kể các đặc sủng của anh chị em hướng anh chị em vào chiêm niệm nhiều hơn hay vào đời hoạt động nhiều hơn, anh chị em vẫn bị thách thức trở thành “các chuyên viên” về lòng Chúa Thương Xót qua cuộc sống của anh chị em trong cộng đoàn... Đức khiết tịnh, nghèo khó và vâng lời của anh chị em sẽ là chứng tá hân hoan cho tình yêu Thiên Chúa bao lâu anh chị em đứng vững trên tảng đá lòng Người thương xót”.
  1. Tâm sự của Cha Mẹ với con cái


Chúa dạy phải thảo kính Ông Bà Cha Mẹ đã sinh dưỡng chúng ta nên người, chúng ta cũng hãy nghĩ đến các Đấng Bề Trên, những người đồng hành đào tạo, những vị cao niên, những người đi trước chúng ta, vốn đã dày công hy sinh vất vả để đào luyện, nâng đỡ, dìu dắt chúng ta bằng cuộc sống đầy gương sáng và lời cầu nguyện không ngừng của các ngài. Chúng ta hãy tri ân các ngài, cầu nguyện và nâng đỡ các ngài, ngõ hầu trong những ngày cuối đời, chờ đợi giờ Chúa gọi về nhà Cha, các ngài cảm nhận được đền đáp, an ủi, yêu thương, bình an và hạnh phúc. Hy vọng đến lượt chúng ta, thế hệ mai sau cũng làm cho chúng ta như vậy.
Sách Huấn Ca dạy: Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa118. Trong tâm tình ấy, chúng ta hãy lắng nghe những lời tâm sự của cha mẹ cho con cái. Đó cũng là những lời tâm huyết của các Đấng Bề Trên và của thế hệ các tu sĩ lớn tuổi cho thế hệ tu sĩ trẻ chúng ta hôm nay.
Con yêu dấu...

Ngày nào con thấy cha mẹ quá già, thì con cố nhẫn nại và thông cảm cho cha mẹ, nghe con. Nếu cha mẹ tay chân run rẩy, ăn uống đổ lên đổ xuống… Hãy thông cảm và nhớ lại ngày con còn bé cha mẹ nhẫn nại bón cơm cho con ăn như thế nào!
Nếu cha mẹ mặc đồ khó khăn… xin con hãy nhẫn nại! Hãy nhớ lại số thì giờ mà cha mẹ đã bỏ ra để dạy cho con biết bao điều khi con còn thơ: học ăn, học nói, học gói, học mở...
Nếu cha mẹ không còn siêng năng tắm rửa như trước, thì đừng la rầy cha mẹ và nói rằng như vậy là điều nhục nhã. Hãy nhớ lại cha mẹ phải tìm ra bao nhiêu sáng kiến để cho con chịu tắm lúc con còn bé thơ.

Nếu cha mẹ cứ nói đi nói lại mãi một điều. Hãy cố lắng nghe! Khi con còn bé, con vẫn muốn cha mẹ kể đi kể lại mãi một chuyện, từ đêm này sang đêm kia, cho đến khi con thiếp ngủ. Và cha mẹ đã chiều con…
Nếu thấy cha mẹ không biết gì về những công nghệ mới, thì đừng chế nhạo cha mẹ, mà hãy để từ từ cho cha mẹ hiểu ra.
Nếu thỉnh thoảng cha mẹ quên đi điều gì hay không theo kịp điều con nói… thì con hãy để cho cha mẹ đủ thì giờ mà nhớ lại… và nếu cha mẹ không nhớ ra, thì đừng cau có cằn nhằn nghe con… bởi vì điều quan trọng nhất đối với cha mẹ là muốn được ở cạnh con và nói chuyện với con thôi.
Khi cha mẹ không muốn ăn thì đừng có ép nữa! Cha mẹ biết khi nào mình đói muốn ăn và khi nào thì không thể ăn được.
Khi chaân cha m khoâng coøn sc để bước đi, con haõy ñi chaäm laïi, ñöøng hoái thuùc vaø loâi keùo maïnh tay nghe con… hãy giúp cha m như xưa kia cha m ñaõ tng giuùp con chp chng đi nhng bước đầu đời…
Rồi đến ngày kia, khi cha mẹ nói rằng mình không còn muốn sống nữa, con chớ nổi giận lên, vì sẽ đến lúc, tới lượt mình, con sẽ hiểu vì sao. Hãy cố hiểu rằng đến một tuổi nào đó, người ta không còn thực sự sống nữa, nhưng chỉ tồn tại đó như đời sống thực vật mà thôi.
Một ngày kia, con sẽ hiểu rằng, mặc cho bao nhiêu sai lầm, cha mẹ lúc nào cũng muốn điều tốt đẹp nhất cho con và đã chuẩn bị tương lai để con sống cuộc sống trưởng thành.
Con đừng buồn khổ hay bối rối trước tuổi già và thể trạng của cha mẹ. Con cứ ở cạnh cha mẹ, gắng hiểu lối sống của cha mẹ, và cố gắng hết sức mình như cha mẹ đã từng cố gắng hiểu con từ ngày con mới ra đời cho đến khi con trưởng thánh lớn khôn hôm nay.
Hãy giúp cha mẹ bước đi… giúp cha mẹ hoàn tất cuộc đời với tâm tình yêu thương và nhẫn nại. Cách duy nhất để cha mẹ còn có thể cám ơn con, ấy là nở với con một nụ cuời kèm với tất cả yêu thương.
Cha mẹ yêu con lắm, con ơi.

Cha mẹ của con…
  1. Ước nguyện của con cái đối với Cha Mẹ


Sống lâu ra lão làng, nhiều người trong chúng ta đã từng lãnh nhận một trách nhiệm nào đó, và rồi với tuổi đời và tuổi tu, càng ngày chúng ta càng có nhiều đàn em theo sau, và có khi cũng sẽ làm Bề Trên nữa, nếu Chúa muốn và được chị em tín nhiệm bầu đặt. Chúng ta hãy lắng nghe những ước nguyện của con cái đối với cha mẹ. Đó cũng là lời nói chân thành của các thành viên trẻ đang trải qua các giai đoạn đào tạo thưa với Bề Trên và các vị hữu trách, mà biết đâu một ngày nào đó Chúa và chị em lại chẳng giao cho chúng ta gánh vác.
Đôi tay con quá bé nhỏ, xin cha mẹ đừng trông đợi sự hoàn hảo khi con tập tễnh làm việc nọ việc kia… Đôi chân con quá ngắn, xin cha mẹ đi chầm chậm để con có thể bước theo kịp cha mẹ.
Đôi mắt con không nhìn được mọi sự trên thế giới như cha mẹ đã nhìn thấy, xin cha mẹ để cho con được khám phá từ từ; và xin cha mẹ đừng hạn chế con một cách không cần thiết.
Công việc vẫn luôn bề bộn, nhưng con còn quá nhỏ đối với một lượng công việc như thế trong một thời gian ngắn. Xin cha mẹ hãy sẵn lòng giải thích cho con và cho con thời gian để hoàn thành.

Các cảm nhận của con còn non nớt, xin cha mẹ vui lòng nhạy cảm với các nhu cầu của con. Xin cha mẹ đừng lúc nào cũng rầy la con. Xin cha mẹ hãy đối xử với con như cha mẹ đã muốn được đối xử.
Con là một quà tặng đặc biệt Chúa gửi đến, xin cha mẹ hãy trân trọng như Chúa mong muốn. Xin cha mẹ cho con có trách nhiệm về các hành vi của con, cho con những chỉ dẫn để sống, và bắt con giữ kỷ luật một cách đầy yêu thương.
Con cần được những lời động viên và khen lao của cha mẹ để lớn lên, chứ không phải những lời chỉ trích. Xin cha mẹ nhớ rằng cha mẹ có thể chỉ trích những việc con làm, chứ không chỉ trích con.
Xin cha mẹ vui lòng cho con được tự do có những quyết định liên quan đến chính con. Xin cho phép con được vấp ngã, nhờ đó con có thể học được từ những lầm lỗi của con. Như thế con sẽ được chuẩn bị để một ngày kia lấy những quyết định mà cuộc sống đòi hỏi ở con.
Xin cha mẹ đừng làm các việc thay con, dù các nỗ lực của con không đáp ứng được những trông đợi của cha mẹ. Con biết như vậy là khó khăn, và xin cha mẹ đừng so sánh con với các anh chị em con.
Xin cha mẹ đừng sợ vắng mặt khỏi nhà. Trẻ con cần có những lúc không có cha mẹ, giống như cha mẹ cần những lúc không bận vướng con cái.
Xin cha mẹ thường xuyên đưa con đến nhà thờ, nêu cho con một tấm gương tốt để noi theo. Con thích thú được học hỏi thêm về Chúa.
Có thể những người mới bắt đầu tiến trình tu luyện cũng muốn nói những lời như thế với các nhà đào tạo đòi hỏi những tiêu chuẩn đánh giá quá cao so với trình độ tuổi tác, kiến thức, sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng của họ. Thánh Phaolô đã viết: “Tôi đã cho anh em uống sữa, chứ không phải đồ ăn cứng, bởi khi ấy anh em chưa sao chịu nổi, mà cả bây giờ anh em cũng chưa chịu nổi đâu!119 Và chính Chúa Giêsu cũng phán: “Thầy còn nhiều điều cần nói với các con, nhưng hiện giờ các con không thể hiểu nổi. Khi Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dắt các con đi vào Chân Lý toàn vẹn, vì Ngài không tự mình mà nói, nhưng sẽ nói mọi điều Ngài nghe và báo cho các con những gì sẽ đến120. Không ai một sớm một chiều mà nên hoàn hảo được ngay; đừng đốt giai đoạn; đốt giai đoạn là đốt cháy luôn một con người.
Chúa Giêsu phải thực sự là Tâm Điểm của đời sống cộng đoàn trong Chúa Thánh Thần… Nếu Chúa Giêsu thực sự là Tâm Điểm và nếu mỗi thành viên thực sự sống điều Chúa Giêsu dạy “Điều Thầy truyền cho các con là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” – “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.... Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con tuân giữ những diều Thầy truyền dạy”, chắc chắn cộng đoàn chúng ta sẽ là một cộng đoàn yêu thương tuyệt vời. Quả thế, khi Chúa Giêsu thực sự là Tâm Điểm của đời sống cộng đoàn chúng ta trong Chúa Thánh Thần, cộng đoàn chúng ta sẽ mở ra với thế giới, cho thế giới noi theo, và thế giới sẽ hiệp nhất và được cứu độ.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến kiện toàn tốt đẹp tiến trình Tân Phúc Âm hóa bản thân và cộng đoàn của chúng ta mà Ngài đã thương khởi sự cho chúng ta, với chúng ta và qua chúng ta. Amen.

(Tâm điểm yêu thương)

PHẦN THỨ HAI



NHÀ ĐÀO TẠO TÂM HUYẾT

Một

TIẾN TRÌNH ĐỒNG BỘ ĐƯỢC ĐÀO TẠO,
TỰ ĐÀO TẠO VÀ ĐÀO TẠO ỨNG SINH
CỦA NHÀ ĐÀO TẠO




    1. Nhận định tổng quát


Một thực tế ai cũng nhìn nhận: Tất cả chúng ta đang có mặt đây đều là những người có trọng trách đào tạo các thế hệ tu sĩ hiện tại và tương lai. Nhưng không ai trong chúng ta sinh ra đã đương nhiên là một nhà đào tạo cả, mà chúng ta đều đang được đào tạo để làm nhà đào tạo có cái tâm. Trước hết, các Bề Trên đã và còn đang tiếp tục đào tạo chúng ta, các đồng nghiệp của chúng ta và cả những người chúng ta đào tạo cũng đã và đang tiếp tục góp phần đào tạo chúng ta nữa. Thứ đến, chúng ta phải luôn tự đào tạo chính mình bằng việc học hỏi ở người khác (người trên, người ngang hàng và cả người dưới – hiếu học bất sỉ hạ vấn), nghiên cứu các tài liệu của huấn quyền, của khoa sư phạm, của tâm lý giáo dục và tập luyện áp dụng những điều ấy cho bản thân mình. Thứ ba là đem chia sẻ cho ứng sinh cái mình đã lãnh nhận được trong khi được đào tạo và tự đào tạo. Người ta nói “cách học hay nhất là dạy học”, ta cũng có thể nói “cách tự đào tạo hay nhất là nỗ lực làm thật tốt công việc đào tạo ứng sinh, vì không ai có thể cho cái mình không có”. Làm tốt được tiến trình đồng bộ được đào tạo – tự đào tạo – đào tạo ứng sinh này là chúng ta hoàn tất được sứ mạng làm nhà đào tạo tâm huyết: đào tạo theo ý muốn của Thiên Chúa, giáo huấn của Giáo Hội, đặc sủng và linh đạo cũng như sứ mệnh tông đồ của Dòng mình.
Chúng ta hãy học bài học quá khứ, thành công cũng như thất bại, để làm tốt sứ vụ hiện tại cũng như tương lai của mình. Thật thế, trước khi là nhà đào tạo, chúng ta đã trải qua những thời gian dài được đào tạo, với đủ mọi tình huống đa dạng, có những lúc rất bình an hạnh phúc, nhưng cũng có những lúc rất khó khăn, tùy ở tính khí và cách thức của những người đã đào tạo chúng ta. Chúng ta đã cảm thấy có cái gì đó “trắc trở” về cả hai phía, có những kỷ niệm ngọt ngào an ủi, nhưng cũng có những kỷ niệm đắng cay nặng lòng. Nhưng một điều chắc chắn là Bề Trên và các nhà đào tạo đi trước đều muốn đào tạo chúng ta nên những con người tốt, những tín hữu tốt, những tu sĩ tốt. Và đó cũng chính là điều chúng ta hôm nay muốn mang lại cho những người đang hay sẽ được trao phó cho chúng ta, mà chúng ta không muốn để những nỗi đau đã qua làm lòng mình xơ cứng và trở nên vô cảm trước những nỗi đau của những người thụ huấn của chúng ta121.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi122.

Một khi có trách nhiệm và đã bắt tay vào việc, chúng ta cảm thấy việc đào tạo người trẻ hôm nay khó hơn việc chúng ta được đào tạo ngày trước. Và có những người dự đoán rằng việc đào tạo càng ngày càng khó hơn vì ảnh hưởng của tâm thức thời đại, của các điều kiện và hoàn cảnh xã hội bên ngoài, về phía các nhà đào tạo cũng như về phía các ứng sinh. Đại hội quốc tế về việc đào tạo các tu sĩ ngày 7-11/4/2015 tại Rôma nhận định: “Không thể có lòng trung thành sáng tạo và khả thể sống hiện tại với lòng say mê và giang tay ôm tương lai vào lòng nếu không có một việc đào tạo phẩm chất và thích hợp với các nhu cầu ngày nay, trong đó có thách đố của thế giới vi tính, công lý, hòa bình và việc bảo vệ thụ tạo là các biên giới mới của việc đào tạo cho cuộc sống thánh hiến trong lòng Giáo Hội và giữa lòng thế giới123.



Có thể nói thời bấy giờ khả năng và phẩm chất của các nhà đào tạo có trọng lượng và uy tín trên ứng sinh rất cao, hơn bằng một khoảng cách rất lớn (magis-ter: hơn ba lần). Thêm vào đó, phương pháp đào tạo được áp dụng dựa trên luật lệ rất nghiêm minh, tạo nên một khoảng cách rõ rệt biểu lộ một niềm tôn kính cao kèm theo cả sợ hãi. Trái lại, ngoài các yếu tố tâm thức và xã hội tự do bình đẳng thế tục, người trẻ hôm nay được học hành và khả năng chuyên môn có khi còn cao hơn chúng ta, nhưng lòng đạo đức, sự trưởng thành nhân bản và tinh thần vâng phục siêu nhiên, kính trên nhường dưới có thể lại kém xa chúng ta. Phương pháp đào tạo hôm nay lại hướng về đồng hành, gần gũi, đối thoại, trao đổi, “thương lượng”... đang khi chúng ta còn thiếu cái “tâm đào tạo”, thiếu trọng lượng của uy tín được tâm phục, chứ không chỉ quyền phục và lý phục, lại nhiều lúc chúng ta vẫn bị cám dỗ hành xử quyền bính. Tuy ngày nay mặt bằng tri thức và chuyên môn của một số người trong chúng ta có thể không bằng họ, nhưng chúng ta phải hơn hẳn họ về chiều sâu đạo đức, về tình thương bao dung và nhẫn nại.

Công cuộc đào tạo vốn đã khó khăn thì ngày nay càng khó khăn phức tạp hơn nữa. Nhưng những khó khăn đó có thể vượt qua được, khi mỗi người và mỗi thế hệ cùng chung tay quyết định biến những giá trị lớn lao trong quá khứ thành của mình và đổi mới bản thân bắt nhịp với bước đi của Ơn Thánh và khoa sư phạm tân tiến. Chúng ta hãy khích lệ nhau rằng việc càng khó càng có giá trị. Hơn nữa, chúng ta sẽ không đơn độc, vì công cuộc đào tạo là việc của muôn người và của muôn đời, trong nỗ lực cộng tác với ơn trợ giúp không thể thiếu của Chúa Giêsu. Chính Ngài mới là nhà đào tạo đích thực và gương mẫu cho chúng ta noi theo, để tự đào tạo chính mình thành nhà đào tạo có khả năng và tâm huyết, có cái tâm đào tạo như Ngài, và có cả những kỹ năng cần thiết, để cho sứ vụ của chúng ta được hiệu quả hơn.

Chúng ta phải chấp nhận giới trẻ ngày nay không giống như chúng ta hồi còn trẻ và nhìn nhận ứng sinh có quyền có được người đồng hành tốt nhất giúp họ tự biết mình là ai, hầu trở thành người tu sĩ quân bình và bền vững qua mọi tình huống đời sống và sứ vụ như cuộc đại hội vừa nêu nhấn mạnh: “Cần phải biết tạo ra thế quân bình trong cuộc đời thánh hiến giữa việc cầu nguyện, suy niệm, học hành và các công việc khác trong ngày sống”. Nhà Dòng được lập ra để đón nhận và đào tạo những con người muốn trở thành tu sĩ của Thiên Chúa, nên việc đào tạo phải diễn ra trong đức tin và lòng thương xót. Việc đào tạo ngày nay tuy làm chung với nhiều người và cho nhiều người, nhưng phải chú trọng đến từng cá nhân, với từng hoàn cảnh cụ thể, để hướng họ tới đời sống cộng đoàn tốt hơn (xem tiến trình mài giũa của những viên đá trơn tru, tròn trịa, bóng láng dưới các dòng suối).  

Những ai tin vào Chúa Kitô càng có thêm động lực mạnh mẽ để không sợ hãi, vì Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, và tình yêu của Ngài luôn đến với chúng ta trong trách nhiệm và trong thân phận yếu đuối con người của chúng ta, để giúp chúng ta đào tạo nhân sự tương lai của Hội Dòng và của Giáo Hội. Quả thế, Chúa Giêsu là người đầu tiên được Chúa Cha sai đi chia sẻ tình thương cứu độ và qui tụ toàn thể thế giới tạo thành về lại cho Chúa Cha và Ngài đã chu toàn sứ vụ của mình. Nay Giáo Hội và mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu, liên tục từ thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến.



Làm nhà đào tạo phải là một ơn gọi đặc biệt Chúa ban xuyên qua tiến trình: - Chúa mời gọi và chúng ta được xác nhận qua sự trạch cử của thẩm quyền hữu trách; -Chúng ta sẵn sàng đáp lại ơn gọi và sự trạch cử khó khăn và tế nhị này, không hề có miễn cưỡng, về phía chúng ta cũng như về phía thẩm quyền; - Chúng ta cam kết đi theo mẫu gương và đường lối đào tạo của Chúa Giêsu, Mục tử nhân lành; - Chúng ta dần dần biến đổi và điều chỉnh chính mình cho phù hợp với giáo huấn của Chúa, của Giáo Hội và đặc sủng linh đạo của Hội Dòng, trong việc đào tạo các ứng sinh; - Chúng ta quyết tâm kiên trì chu toàn sứ vụ đã nhận lãnh trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Song song với việc thực thi nhiệm vụ đào tạo ứng sinh các cấp, chúng ta còn có một nhiệm vụ kép: Một là lưu tâm tuyển chọn và tài bồi những nhà đào tạo tương lai sẽ thay thế chúng ta, qua tiến trình: - Dạy cho người ta biết làm; - Khi người ta biết làm rồi thì giúp họ làm; - Khi người ta làm được rồi thì hãy để cho họ làm; - Và khi người ta đã tự mình làm tốt được rồi thì mình rút lui đàng sau, chỉ giữ vai trò cố vấn khích lệ, đôn đốc, vì đã hoàn thành việc chuẩn bị người thay thế. Người giữ một chức danh nào đó khi xong sứ vụ,nhiệm kỳ mà nghĩ rằng mình là người không thể thay thế và không sẵn lòng giúp đỡ hay làm khó người sau, là một người thất bại lớn. Mối quan hệ thăm viếng, bàn hỏi của ĐTC Phanxicô với Đức Giáo Hoàng Danh Dự Biển Đức XVI là một gương sáng cho mối tương quan giữa người tiền nhiệm và người kế nhiệm, giữa người cũ và người mới là điều luôn luôn tiếp diễn trong Giáo Hội124.
Hai là không ngừng cập nhật việc đào tạo chính mình, nâng cao phẩm chất con người và sư phạm bằng khiêm tốn học hỏi với người trên, với đồng nghiệp và với cả những người đang được chúng ta đào tạo, khi khơi gợi và lắng nghe những thao thức và trông đợi của họ, dù còn nhiều chủ quan, phiến diện và sai lầm. Nhớ luôn rằng trong khi rèn và bằng cách rèn, người ta trở nên thợ rèn lành nghề.
    1. Cần những nhà đào tạo phẩm chất


Ngoài đời, người ta đầu tư rất lớn cho việc đào tạo nhân sự của họ. Nhà tu chúng ta cũng cần đào tạo các nhà đào tạo chất lượng để đào tạo nhân sự của mình. Và nhà đào tạo phải có lòng khiêm nhường, ý thức giới hạn và yếu đuối của mình, để tin tưởng vào Chúa, đồng thời phải có tinh thần khoan dung rộng lượng, để đào tạo những con người bất toàn.
Các Đấng Bề Trên ý thức sự khác biệt rất rõ giữa người dạy học và nhà đào tạo: vị giáo sư nhằm truyền đạt kiến thức và chuyên môn, trong khi nhà đào tạo huấn luyện con người; một giáo sư dạy học tốt không hẳn là một nhà đào tạo tốt; một giáo sư dạy học xong ra về, nhưng nhà đào tạo dành trọn thời gian đồng hành với ứng sinh, hiện diện hữu hiệu và chia sẻ đời sống hằng ngày, tính đều đặn và gương sáng của nhà đào tạo là hết sức quan trọng đối với ứng sinh. Một người dạy học tốt (có trình độ và bằng cấp chuyên môn cao) không hẳn là một nhà đào tạo tốt. Nhưng một nhà đào tạo dày kinh nghiệm đào tạo có thể đồng thời cũng là một người dạy học tốt. Công việc đào tạo là một nghệ thuật, và là một ơn ban của Chúa, đòi hỏi những khả năng tự nhiên và những khả năng sư phạm thủ đắc nhờ kinh nghiệm và học hỏi liên tục. Nói tóm lại là cần có cái tâm đào tạo, cần một tấm lòng yêu thương người thụ huấn.
Nơi nhà đào tạo có hai nhiệm vụ khác biệt nhưng liên đới với nhau: giảng dạy và đào tạo. Giảng dạy nhằm soi sáng trí tuệ, chuyển giao kiến thức chuyên môn, trong khi đào tạo nhằm biến đổi tận thâm sâu ứng sinh, giúp họ có khả năng đáp ứng lại những đòi hỏi của ơn gọi đời sống thánh hiến. Vì thế, nhà đào tạo được mời gọi chu toàn các nhiệm vụ này: - Làm chứng nhân của Chúa; - Hiệp thông và cộng tác với nhóm đào tạo; - Quí ơn gọi và thương ứng sinh với con tim mục tử; - Làm cho ứng sinh thấy sức hấp dẫn của ơn gọi; - Khích lệ ứng sinh chấp nhận những đòi hỏi của ơn gọi; - Giúp ứng sinh nhận ra con người thật của mình với những điểm mạnh và điểm yếu, thuận lợi và cản trở, đồng thời chỉ đường dẫn lối giúp họ vượt thắng và trung thành.
Vì thế, các Đấng Bề Trên thường thổ lộ rằng tìm người dạy học tốt đã khó, tìm nhà đào tạo phẩm chất còn khó hơn nhiều, nhất là trong lãnh vực đời sống thánh hiến: nhà đào tạo phải sống gương mẫu vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”: dạy điều mình tin và sống điều mình dạy125, trong tinh thần hiệp thông và vâng phục đối với đặc sủng và linh đạo của Hội dòng, đối với giáo huấn của Giáo Hội và kế hoạch của thánh ý Thiên Chúa, như ĐTC Phaolô VI đã nói trong Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy đó là những chứng nhân126.
Nhiều người trong chúng ta tự cảm thấy mình chưa được trang bị đầy đủ và thích hợp cho việc đào tạo người trẻ hôm nay, cả về phương diện kỹ năng lẫn phương diện phẩm chất,127 vì người trẻ hôm nay rất lý tưởng và đòi hỏi, nhưng rất thiếu kinh nghiệm trưởng thành, lại dòn mỏng, dễ bị hoàn cảnh xã hội bên ngoài tác động lôi cuốn. Tu sĩ trẻ bây giờ chịu sức ép từ bên ngoài lớn hơn, nhưng sức đề kháng cũng mong manh hơn. Tuy nhiên, họ không thích chúng ta so sánh thời xưa của chúng ta với thời nay của họ, dù để làm mẫu hay để chê bai. Họ không thích lấy tiêu chuẩn của thời trước để đánh giá thời nay, dù không biết có còn hợp hay không.

Nhà đào tạo phẩm chất phải nội tâm hóa và thực hành các nhân đức nhân bản Kitô giáo để nên thánh toàn vẹn, hầu dẫn dắt ứng sinh nên thánh và đến với Cha trên trời, qua các đặc tính sau:




  1. Nhà đào tạo, người của đức tin

Trong bối cảnh của nghi ngờ, chế giễu, nhạo báng và lầm lạc, người có đức tin dám tuyên bố các chân lý đáng tin cậy vì chúng đến từ Thiên Chúa, chứ không phải từ phàm nhân. Nhà đào tạo phải vượt lên chính mình và vượt lên tất cả, để làm mọi thứ với đức tin của mình.


  1. Nhà đào tạo, người của hy vọng

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì món quà tuyệt vời của niềm hy vọng giúp chúng ta tiến bước. Con em chúng ta muốn chúng ta cung cấp cho họ hy vọng, nhưng chúng ta không thể mang lại hy vọng nếu chúng ta không có hy vọng (không ai cho cái mình không có). Bản thân chúng ta khó có thể tồn tại, mạnh mẽ và trao ban hy vọng nếu chúng ta không có hy vọng. Đức Cha Fulton Sheen nhắc nhở chúng ta rằng, chìa khóa để tăng trưởng trong sự thánh thiện là không để mất hy vọng.


  1. Nhà đào tạo, người của tình yêu

Người ta kể lại rằng thánh Gioan liên tục lặp lại “Hỡi các con bé nhỏ, các con hãy yêu thương nhau!” Người ta hỏi ngài sao cứ lặp đi lặp lại mãi điều đó, ngài trả lời: “Thầy còn lặp đi lặp lại điều đó hơn nữa”, vì chỉ có tình yêu mới làm được mọi sự. Các ứng sinh bây giờ đòi hỏi và trông đợi nhiều ở nhà đào tạo, chúng ta phải cung ứng một giá trị đem lại hài hòa, một nguyên tắc đưa lại thống nhất, một sức mạnh tạo nên gắn kết, một động lực củng cố hành trình, và tất cả chỉ có thể đến từ tình yêu.


  1. Nhà đào tạo, người của khiêm nhường

Khiêm nhường là đức tính chủ đạo của đời sống nội tâm mà Chúa Giêsu yêu thích, và “không thể thiếu” của tất cả các tiến bộ trên con đường hoàn thiện. Thánh Têrêsa nói “khởi đầu của tất cả mọi sự thánh thiện là khiêm tốn thừa nhận rằng không có Thiên Chúa chúng ta chẳng có thể làm gì, nhưng mà ở trong Chúa và qua Chúa, mọi sự đều có thể”.


  1. Nhà đào tạo, người của Trung Tín

Lòng trung tín là một đức tính phù hợp nhất cho sứ vụ mục vụ của nhà đào tạo: phải phản ánh tình yêu trung thành Thiên Chúa dành cho dân Ngài và Chúa Giêsu đã dành cho Giáo Hội của Người. Trung tín có nghĩa là sống đúng với bản chất và đòi hỏi ơn gọi của chúng ta, là sống một cuộc sống toàn vẹn phát xuất từ niềm tin nội tâm dưới con mắt của Thiên Chúa, là chu toàn các bổn phận cách đáng tin cậy ‘làm những gì chúng ta nói và sống những gì chúng ta tuyên xưng’.


  1. Nhà đào tạo, người của vâng lời

Vâng lời là nhân đức dễ nhất để mô tả, nhưng khó nhất để sống. Sự nhấn mạnh về tự hoàn thiện, tự hiện thực, tự chăm sóc bản thân đào sâu sự nghi ngờ của mọi người về đức vâng phục. Khi chịu chức/tuyên khấn, chúng ta cam kết vâng phục hoàn toàn, không chỉ với Giám mục/Bề trên của chúng ta, nhưng còn với chức năng đào tạo và với ứng sinh của chúng ta nữa.


  1. Nhà đào tạo, người của lịch sự

Lịch sự là một đức tính được thể hiện với lòng tốt, sự trân trọng, cách cư xử, phép tắc, và sự nghiêm túc. Lịch sự được coi là chỉ thua đức ái, đặc tính tối thượng của Kitô giáo. Lịch sự bao gồm sự tự trọng và tôn trọng người khác. Đức tính này được xây dựng trên ý thức cộng đồng rằng xã hội chỉ có thể tồn tại, phát triển phồn thịnh và kiện toàn mục đích của mình nếu nó được sắp xếp trật tự theo các quy tắc hiển nhiên của văn minh, trân trọng và ân cần.

  1. Nhà đào tạo, người của liêm chính

Giáo Hội và thế giới trông đợi sự thánh thiện nơi các nhà đào tạo. Giáo Hội, giáo dân và thậm chí cả thế giới, mong muốn rằng các nhà đào tạo là những con người liêm chính toàn vẹn. Một con người liêm chính là một con người trung thực, không lừa đảo, một con người đích thực mà các xác tín nội tâm được hiển hiện ra bên ngoài, cho thấy lời nói và hành động đúng như mình tuyên bố: một con người của chân thành, của sự thật, nguyên tắc, phẩm cách và đáng tin cậy, một con người mà lời nói có thể tin cậy được và gợi lên lòng kính trọng nơi những người khác. ĐTC Phanxicô nói với các nhà đào tạo: “Trước tiên đây là một trách nhiệm của người lớn, của các nhà đào tạo. Chính những nhà đào tạo đang hiện diện nơi đây phải nêu gương về sự chân thực cho người trẻ. Chúng ta muốn những người trẻ chân thực thì chúng ta hãy trở nên chân thực! Bằng không, Chúa sẽ nói với chúng ta điều Người đã nói cho Dân Chúa về những người pharisiêu: “Những gì họ nói anh em hãy làm,hãy giữ, còn những việc họ làm thì đừng làm theo, vì họ nói mà không làm128. Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng thêm: “Ngay cả trong thời đại này, người ta thích nghe các nhân chứng: họ “khao khát sự xác thực ... và đòi phải nói về một Thiên Chúa mà chính mình biết và quen thuộc với, như thể thấy Đấng vô hình129.


  1. Nhà đào tạo, người của khôn ngoan

Khôn ngoan bao gồm nhiều nhân đức chị em như trí tuệ, tư vấn, hiểu biết, dè dặt, xét đoán và phân định sáng suốt. Các ứng sinh mong muốn các nhà đào tạo của mình khôn ngoan, thánh thiện, cẩn trọng. Đức khôn ngoan bảo chúng ta không bao giờ đưa ra quyết định trong cơn tức giận, trong sự ham muốn, trong sự chán nản, hoặc trong sự vội vàng. Đức khôn ngoan giúp chúng ta duy trì một cách tiếp cận cân bằng với cuộc sống. Đức khôn ngoan hướng dẫn chúng ta tập trung, giữ trật tự các ưu tiên của chúng ta. Đức khôn ngoan bao gồm sự dè dặt rất hữu ích trong khi phát biểu, sự thích hợp khi bình luận hay chỉ trích, và sử dụng sự hài hước một cách thích hợp.


  1. Nhà đào tạo, người của Hoán Cải

Nhân đức sám hối là thiết yếu trong cuộc sống của bất cứ người môn đệ chân chính hay nhà đào tạo nào biết nhìn nhận phận người mong manh của mình. Nhân đức sám hối mời gọi sự bỏ mình, khổ chế, quên mình, hạn chế, thuần hóa, kiểm soát, chết cho sự thèm muốn, tiện nghi, dục vọng, khát khao, ham muốn xác thịt và thế gian, để sống tự do và mật thiết hơn với Chúa Giêsu.


  1. Nhà đào tạo, người của nhẫn nại

Thánh Phanxicô đệ Salêsiô viết “Nhẫn nại là một nhân đức bảo đảm nhất cho chúng ta nên hoàn hảo”. Nhẫn nại là nhân đức trung tâm trong cuộc sống của bất cứ Kitô hữu đích thực nào, và là một nhân đức rất căn bản để cho nhà đào tạo. TGM Timothy Dolan nói: “Có lẽ thời gian qua Dân Chúa bị sốc về các nhà đào tạo hời hợt hay thay đổi, tức giận, thô bạo, không nhẫn nại, hơn cả việc giảng dạy kém, nhất thời uống quá chén, ngay cả sa ngã giới tính”.


  1. Nhà đào tạo, người của sự Giản Dị

Sự giản dị trong cuộc sống nói dễ hơn làm, dễ nêu ra vi phạm hơn vâng theo, nhưng rất quan trọng cho mỗi môn đệ chân thành của Chúa Kitô, thiết yếu cho những ai hành động nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi). Gương mẫu tốt nhất để chúng ta áp dụng sự giản dị trong cuộc sống là chính Chúa Giêsu.


  1. Nhà đào tạo, người của Niềm Vui

Triết gia Leon Bloy viết: “Niềm Vui là dấu hiệu không thể sai lầm nhất cho sự hiện diện của Thiên Chúa”. Niềm tin, hy vọng, tình yêu, sự khiêm nhường, lòng nhiệt thành, sám hối, lòng trung thành, đức khiết tịnh, và niềm vui đều là các nhân đức căn bản để trong đời sống của nhà đào tạo. Một nhà đào tạo không có niềm vui là một con người thiếu sức sống. Nhiều người trong chúng ta là những nhà đào tạo thiếu sức sống. Nhiều người nghĩ rằng lý do nổi bật cho sự suy giảm ơn gọi đơn giản là vì các nhà đào tạo và tu sĩ đã biến thành thừa thải, quá lo lắng về tương lai, phàn nàn về mọi thứ, băn khoăn về cuộc sống, cảm thấy buồn phiền về bản thân, và lấy chính mình làm quá nghiêm trọng. Thử hỏi ai muốn tham gia một bộ dạng như thế?

    1. Một số điều kiện khác của nhà đào tạo


a. Tự do nội tâm và nội lực mạnh

Nhà đào tạo không để mình dễ bị chi phối bởi những đam mê hay tình cảm, yêu hay ghét, thích hay không thích, ác cảm hay thiện cảm, thù oán hay ghen tỵ... Nói chung nhà đào tạo là người trưởng thành về tình cảm, không có khuynh hướng lệch lạc, lạm dụng người dưới quyền, nhưng luôn giữ được sự chính trực và công bằng. Nhà đào tạo còn phải trưởng thành về đời sống thiêng liêng, thanh thản và siêu thoát, không tìm bám víu vào ý riêng và kế hoạch của mình, nhưng chỉ mong tìm và thực hiện ý Chúa, chỉ tìm ích chung cho cộng đoàn, cho sự lớn lên thực sự của từng thành viên trong căn tính người tu sĩ của Dòng (đào sâu và sống đặc sủng và linh đạo của Dòng).


b. Sống thánh thiện

Ứng sinh rất mong gặp được nơi nhà đào tạo một mẫu mực bằng xương bằng thịt đang sống trọn vẹn đặc sủng và linh đạo Dòng mình, được thể hiện nơi Hiến Chương, Nội Qui và Luật Sống của Dòng để thấy rằng sự thánh thiện là một lý tưởng có thể đạt được với ơn Chúa: kết hiệp với Chúa liên tục trong mọi tình huống, gặp thấy Ngài và đọc được ý nghĩa đức tin trong mọi biến cố cuộc đời,130 cùng tìm kiếm ý Chúa và can đảm thực hiện, chứ không phải áp đặt ý mình trên người khác, lại biết nhận định cách khôn ngoan để phân biệt tác động của tà thần và của Thánh Thần. Nhà đào tạo dạy dỗ và hướng dẫn không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng gương sáng thống nhất đời sống giữa các mặt khác nhau và đối nhau như chiêm niệm và hoạt động, vâng phục và tự do, sống điều mình dạy, chứ không phải nói mà không làm, để ứng sinh có thể noi theo. Nói cách khác, nhà đào tạo là người có lửa và sẵn sàng chia lửa cho ứng sinh và cộng đoàn, được bộc lộ ra qua mọi đức tính nhân bản đã tập được (Ph 4, 8-9). Sự giả hình, che đậy và dối trá quanh co là những điều người ứng sinh tu sĩ trẻ hôm nay khó chấp nhận, dù họ cũng không tránh khỏi tệ nạn này của xã hội.
c. Yêu thương từng ứng sinh

Tình yêu ấy phải được diễn tả làm sao để ứng sinh nhận ra qua việc quan tâm đến sức khỏe, gia đình, đời sống tình cảm, học tập, cầu nguyện, đặc biệt trong thời gian ứng sinh gặp thử thách khủng hoảng. Tình yêu ấy cũng phải được bộc lộ qua cả những lúc phải dùng đến hình phạt nữa (vì thương mà phải phạt). Hỏi thăm trực tiếp ứng sinh là hình thức đơn sơ nhất, miễn là biết cách để không có vẻ soi mói, điều tra. Con người ứng sinh phải được đặt lên trên công việc hay của cải vật chất. Đừng để việc năng thăm viếng quà cáp của các gia đình giàu có hay hoàn cảnh khó khăn ít thăm viếng và quà cáp của các gia đình nghèo ảnh hưởng lên cách đối xử của chúng ta với con cái của họ và là thụ huấn sinh của chúng ta.


Mỗi ứng sinh có một lịch sử riêng, hoàn cảnh riêng, vấn đề riêng, và ở từng giai đoạn đào luyện khác nhau nên cách gặp gỡ từng người cũng có phần khác nhau, để từ đó việc đồng hành được thích hợp và không đòi hỏi quá đáng những điều mà ứng sinh còn non trẻ chưa thể có được. Đồng hành là cùng đi với ứng sinh, đi cùng một nhịp nhanh chậm với ứng sinh, hơn là đi trước mở đường,dẫn đường, nhưng trở nên bạn đi chung với người ấy. Tích cực tham dự các sinh hoạt cộng đoàn (cùng lao động, giải trí, cầu nguyện, học tập, tĩnh tâm, dã ngoại, nghỉ hè, thăm nhà nhau) cũng giúp tạo ra sự gần gũi và thấy được con người thật của ứng sinh, vì chính cuộc sống thực tế mỗi ngày mạc khải đúng nhất về mỗi con người.
Nhà đào tạo dành thời giờ để gặp riêng từng ứng sinh sẽ tạo được sự thông cảm, hiểu biết nhau, nhờ đó việc huấn luyện sẽ tốt hơn và dễ dàng hơn. Sự hiện diện thường xuyên của nhà đào tạo là điều cần thiết, (đặc biệt với Nhà Tập, như “Những chỉ dẫn việc huấn luyện trong các Dòng tu” yêu cầu), vì nó cho thấy mình coi trọng ứng sinh và việc huấn luyện họ hơn các việc tông đồ hay những mối bận tâm khác (trong thời gian Nhà Tập, đời sống thiêng liêng trổi vượt hơn đời sống tông đồ). Đào tạo là việc tông đồ ưu tiên của dòng tu, vì qua việc này mà sinh ra những nhà tông đồ mới, để đáp ứng nhu cầu tông đồ của Giáo Hội. Làm sao để có sự cân bằng hài hòa của tính cách đào tạo nơi năm thực tập mục vụ của Tập sinh.
d. Lắng nghe và Đối thoại

Chúa Giêsu có 88 cuộc đối thoại trong Tin Mừng, 37 với các tông đồ, 24 với dân chúng và 27 với đối phương. Lắng nghe là một hành vi của trái tim và chỉ trái tim yêu thương mới nghe được những điều nằm ẩn sau lớp vỏ của ngôn từ. Luôn lắng nghe để thấu hiểu một người từ bên trong, mới có thể đào tạo người ấy. Ngày nay cần nỗ lực lắng nghe nhiều mới hy vọng hiểu được lối suy nghĩ, lối nói và lối phản ứng của ứng sinh, hầu tránh nguy cơ hiểu lầm, gây đau khổ và quyết định sai lầm. Nhà đào tạo tránh xét đoán và kết luận vội vã; một lời nói của người có quyền rất quan trọng, có thể cứu sống hoặc có thể giết chết (miệng người sang có gang có thép). Trái lại, phải đối thoại để kiểm chứng từ nhiều nguồn trước khi kết luận, nhất là cần nghe ý kiến giải thích biện hộ của ứng sinh. Ngay cả những điều nhìn thấy tận mắt cũng chưa thể khẳng định, vì chúng ta không lường hết được mọi tình huống. Nhớ câu chuyện của Khổng Tử và Nhan Hồi: “Có những việc chính mắt mình thấy vậy mà không phải vậy.”
Lắng nghe tích cực là dám hỏi và nghe góp ý của người khác, dù rất khó nghe và đòi mình phải thay đổi. Càng ít tự ái khi nghe những lời phê bình, càng ít tự mãn về hiểu biết của mình, thì càng dễ lắng nghe và tôn trọng chuyên môn của ứng sinh: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư”, ai giỏi cái gì thì là thầy cho người khác về cái ấy. Lắng nghe là tin Thiên Chúa nói với mình qua ứng sinh và cùng với ứng sinh tìm ra con đường riêng tư mà Chúa muốn ứng sinh đi. Chúa Giêsu cũng đã hỏi các tông đồ: “Các con nghĩ Thầy là ai?” và Phêrô đã tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô Con Thiên Chúa. Biết ứng sinh nghĩ về mình thế nào cũng giúp nhà đào tạo thăng tiến chính mình (tự đào tạo).
e. Tôn trọng ứng sinh

Nhà đào tạo không dùng quyền một cách vội vã, dù chính đáng. Cần cân nhắc, đắn đo trước khi hành động. Phải xem nên làm gì, khi nào, nơi nào và làm cách nào thuận tiện để đạt kết quả tốt nhất. Càng ít ra lệnh, thì lệnh càng nghiêm. Nhà đào tạo góp ý, tránh mắng nhiếc, mạt sát, làm nhục một người được Chúa chọn gọi (x. Câu chuyện trò Trang). Sửa lỗi ứng sinh cách bình tĩnh, không la lối, không nổi giận, nhưng kín đáo, tế nhị, thận trọng; phê phán hành vi sai lỗi hơn là phê phán người phạm sai lỗi.


Nhà đào tạo nên cho ứng sinh được tự do trong những gì không mấy quan trọng, để họ được đưa ra sáng kiến, được thể hiện chính mình. Chấp nhận để họ mạo hiểm áp dụng những cách xử lý mới, dù họ có thể vấp váp, sai sót trong bước đầu; từ đó giúp họ biết điều chỉnh và rút kinh nghiệm hơn là đưa ra những chỉ dẫn quá chặt chẽ, chi li, bóp chết mọi suy nghĩ và sáng tạo. Tin tưởng ứng sinh và cho họ có một không gian riêng tư để thở, để là mình, để lớn lên. Họ cũng cần được tôn trọng và có không gian riêng với nhau ở một mức độ nào đó. Là khí cụ của Thiên Chúa, nhà đào tạo tôn trọng Ngài, vì Ngài đào tạo xuyên qua những biến cố Ngài cho phép xảy ra trong cuộc đời ứng sinh. Nhà đào tạo phải thấy được và tôn trọng lối đào tạo của Chúa cho từng con người.
f. Lạc quan và hy vọng

Thời gian đào tạo là thời gian không dễ dàng, vì thế niềm vui và nụ cười trên khuôn mặt nhà đào tạo làm vơi nhẹ đi rất nhiều lo âu cho ứng sinh. Bầu khí cộng đoàn chịu ảnh hưởng bởi tính khí của nhà đào tạo. Lạc quan là có cái nhìn tích cực, lời nói tích cực và việc làm tích cực đối với ứng sinh. Lạc quan là nhìn ra những điểm sáng giữa bóng tối, là tin tưởng và hy vọng không ngơi vào lòng tốt, sự phục thiện và quyết tâm sửa đổi của ứng sinh. Lạc quan là giũ bỏ mọi thành kiến để nhìn ứng sinh bằng cái nhìn mới, là không kể tội quá khứ, là cho họ một cơ hội nữa để làm lại từ đầu sau những vấp ngã. Thái độ bi quan có thể bóp chết những cố gắng lật sang trang và bước một bước mới của ứng sinh, đồng thời làm cho họ ở trong tình trạng căng thẳng và chán nản thường xuyên.


g. Nhẫn nại, bao dung, cảm thông, uyển chuyển

Nhà đào tạo không để mình dễ nóng giận, có giận cũng biết làm chủ cơn giận của mình, và giận có lý do chính đáng tương xứng: Nhà đào tạo nhẫn với ứng sinh như Chúa đã nhẫn với mình. Nhẫn đòi phải chờ đợi, có khi trong thời gian dài, tưởng như vô ích: Tiểu sự bất nhẫn tất loạn đại mưu, việc nhỏ không nhẫn nhục sẽ làm hư việc lớn. Mà có việc gì lớn hơn việc đào tạo con người?: “Kế một năm không gì bằng trồng lúa, kế mười năm không gì bằng trồng cây, kế trăm năm không gì bằng trồng người.” Nhà đào tạo muốn nhẫn nại cần phải khiêm tốn, vì nhẫn là chấp nhận thua, chấp nhận chịu đau khổ do người dưới quyền, chấp nhận không dùng quyền dù có thể dùng. Đừng sợ nhẫn quá sẽ làm hư ứng sinh. Thực tế họ sẽ bị đánh động nhiều và sâu xa trước sự nhẫn nại bền bỉ của nhà đào tạo, và họ sẽ quyết tâm sống thật tốt để đền đáp lại.


Bao dung là không chấp nhất những điều nhỏ mọn, chi li, không bắt bẻ những thiếu sót vô ý, không nhớ dai và hay nhắc lại chuyện cũ. Cái gì đã qua thì nên cho qua đi luôn, vì chẳng ai có thể thay đổi được những gì đã xảy ra trong quá khứ. Quảng đại là cư xử rộng rãi hơn mức ứng sinh dám mong, là cho đi điều mà họ không dám đòi. Họ mong được nhà đào tạo cảm thông, thấu hiểu những thách đố, cám dỗ mà họ phải gánh chịu. Họ cũng mong được tha thứ những vấp ngã của họ. Uyển chuyển, mềm mại, nhu thuận: Biết lúc cương lúc nhu, biết thích nghi với tình huống cụ thể, không cứng nhắc, chấp nhận nguyên tắc chung phải theo, nhưng cũng chấp nhận ngoại lệ cho cá nhân. Không đào tạo theo lối đúc gạch (x. 1 Cr 13, 4-7)131

h. Khả năng lãnh đạo

Mục tiêu nhà đào tạo nhắm tới là sự triển nở nhân cách của người sống đời thánh hiến, nên cần coi trọng sự đóng góp độc đáo của từng người, tùy theo khả năng Chúa ban. Nguyên tắc bổ trợ hay phân quyền có thể được áp dụng ở một mức nào đó trong đời tu132. Các công việc trong cộng đoàn cần được chia ra để mỗi người đều có trách nhiệm. Nhà đào tạo tôn trọng người đảm trách công việc, cho họ chút tự do để suy nghĩ xem làm sao có kết quả tốt nhất, đó cũng là cách làm họ trưởng thành và gắn bó với cộng đoàn.
i. Tận tâm phục vụ

Nhà đào tạo vừa lãnh đạo vừa phục vụ cộng đoàn như Chúa Giêsu: “Thầy ở giữa anh em như người phục vụ” (Lc 22, 27), mới có thể huấn luyện ứng sinh trở thành người phục vụ. Phục vụ đòi phải đứng mũi chịu sào, chấp nhận con dại cái mang “trên đe dưới búa”, và đón lấy thánh giá không thể tránh khỏi mỗi ngày. Xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, an ủi, giúp đỡ, cộng tác, chia sẻ, sẵn sàng dành thời giờ để gặp gỡ, hiện diện thường xuyên trong cộng đoàn là những cách diễn tả việc tận tâm phục vụ của nhà đào tạo hôm nay. Có thể nói, nhờ phục vụ mà nhà đào tạo theo sát được các ứng sinh của mình để đào tạo (xem câu chuyện Kiểm soát bằng cách phục vụ).


    1. Tâm hồn đào tạo


Người có tâm hồn đào tạo yêu người và yêu nghề đào tạo, giống như Chúa Giêsu: cứu giúp người chứ không loại bỏ người, có cắt tỉa là để sinh nhiều hoa trái hơn: tha thứ lỗi lầm, nâng đỡ đứng dậy, giúp bền vững tiến lên, tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai... “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng... Người sẽ không cãi vã, không la lối, chẳng ai nghe thấy tiếng Người giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy; tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người133.

Người có tâm hồn đào tạo luôn tạo điều kiện và cơ hội cho cái tích cực lớn dần lên mãi cho đến khi thành nhân đức và cái tiêu cực nhỏ dần xuống mãi cho đến khi bị triệt tiêu. Người có tâm hồn đào tạo giúp giết chết dần dần con người trần tục trong ứng sinh để con người thánh hiến lớn dần lên trong chính họ, một đàng phải lớn lên và đàng kia phải nhỏ lại như thánh Gioan Tẩy giả khẳng định: “Chúa Kitô phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.


Nhà đào tạo có tâm đào tạo là một ơn gọi đặc biệt Chúa ban và là lòng yêu thương đặc biệt đối với người thụ huấn. Một khi có được những thứ đó và được Bề trên trao trọng trách đào tạo, nhà đào tạo sẵn sàng đáp lại với lòng yêu nghề, chứ không miễn cưỡng, và Bề trên cũng không nên miễn cưỡng giao ép nhiệm vụ, kẻo họ sẽ không hết lòng làm việc mà để gặp chăng hay chớ, trực tiếp thiệt hại cho ứng sinh, và gián tiếp cho sự tiến triển của Hội dòng. Nhà đào tạo có tấm lòng luôn tự đào tạo chính mình theo gương mẫu Chúa Giêsu là nhà đào tạo tuyệt hảo và vị mục tử nhân lành, với một sự nhạy bén khiêm tốn để học hỏi với Bề trên, với đồng nghiệp, và với cả các người thụ huấn của mình nữa, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Càng làm việc đào tạo, người ta càng trở nên nhà đào tạo hơn, khi biết vận dụng cả những thành công lẫn những thất bại của chính mình, cũng như của người thụ huấn.
Người có tâm hồn đào tạo quan tâm nỗ lực làm lớn lên mãi phần thiên hướng đào tạo bẩm sinh của mình. Người có tâm hồn đào tạo luôn nỗ lực khởi động cái “nhân chi sơ tính bản thiện” của ứng sinh. Socrate dùng kích biện pháp/phương pháp hộ sinh: không phải vị y/bác sĩ mang thai và sinh con, mà chính là người thiếu phụ; như vị y/bác sĩ giúp người thiếu phụ cho ra đời đứa con của chính mình, nhà đào tạo khơi gợi ứng sinh tư duy, chọn lựa, và quyết định con đường triệt để theo Chúa của mình. Cha thánh Gioan Bosco dạy phải lôi ra những điều ứng sinh có trong lòng mà chính họ không biết, lôi ra những đức tính cao cả, đánh thức những tiềm năng đang ngủ, những bí mật thâm sâu của tâm hồn con người để đào tạo ứng sinh thành con người trưởng thành toàn vẹn vừa nhân bản (trần thế) vừa thiêng liêng (thần linh).

    1. Hai mô hình đào tạo


5.a. Mô hình đào tạo dựa trên luật lệ

Nói đến luật lệ làm người ta thường nghĩ ngay đến quyền lực, đến khả năng đạt được những gì mình muốn và ngăn chận những gì mình không muốn. Mặt trái của quyền lực là có thể trở nên cưỡng bức, áp đặt, độc tài để đạt được kết quả như ý, dựa vào đe dọa và thao túng người khác bởi mánh khoé và thủ đoạn, hầu bảo đảm thắng lợi, hoặc ít nhất để khỏi bị thất bại. Theo mô hình này, nhà đào tạo đưa ra những luật lệ rất rõ ràng chi tiết, kèm theo những hình phạt tương xứng cho những ai vi phạm. Ứng sinh cứ thế mà thi hành dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của nhà đào tạo. Sự hiện diện của nhà đào tạo có tính cách nhắc nhở giữ luật và đe dọa hình phạt. Họ luôn mang bộ mặt nghiêm nghị, cư xử cứng rắn, lời nói đanh thép.


Có những hiện diện mang lại bình an và an toàn, nhưng cũng có những hiện diện gây sợ hãi lo lắng. Có những hiện diện như kẻ xa lạ, không quan tâm, không để ý đến nhau, không hiểu nhau, không thương nhau, không cần đến nhau, sống bên nhau mà như nước mây hững hờ... Có những hiện diện dò xét, soi mói, gây xáo trộn, lo âu, sợ hãi, khiến người khác không còn hưởng được một cuộc đời bình an.
Nhưng mô hình đào tạo dựa trên luật lệ này dễ hấp dẫn nhà đào tạo vì thấy kết quả tức thời trước mắt, mọi việc đều xuôi chảy ngăn nắp, trật tự đâu vào đấy, tất cả đều răm rắp, nhà đào tạo đỡ vất vả và tốn công sức. Có một khoảng cách rõ rệt ngăn cách giữa đôi bên: Ứng sinh nhìn nhà đào tạo với ánh mắt sợ sệt, tránh né, không mấy tự nhiên và thiện cảm khi phải đến gần. Mọi việc làm vì luật buộc hay vì sợ phạt, nên tìm cách luồn lách, tránh khỏi bị bắt quả tang lỗi phạm. Do đó từ sợ hãi có thể đi đến xa cách, kính nhi viễn chi, oán ghét khi bị bắt lỗi và bị phạt với nhục hình, xấu hổ; nhất là khi bị loại, bị đuổi thì không bao giờ trở lại nữa do “xấu quá hóa giận, giận quá hóa thù.” Đáng sợ nhất là cái xấu quá hóa giận, giận quá hóa thù của kẻ có quyền!
5.b. Mô hình đào tạo đồng hành yêu thương

Chớ gì đừng ai hiểu rằng mô hình đào tạo đồng hành không có luật lệ, qui tắc. Không thể có điều đó, vì dù chỉ có hai người thôi thì đã phải có qui ước ràng buộc để có thể sống hòa điệu tốt đẹp với nhau được. Điều khác biệt ở đây là luật lệ và qui tắc không có tính cách áp đặt mà là được thiết lập, giải thích và thuyết phục, cùng đồng thuận chấp nhận và tự nguyện thi hành. Có thể nói sức mạnh của quyền lực chuyển về tình yêu tự nguyện. Chúa Giêsu biến đổi quan niệm về quyền lực: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”134. Chúa Giêsu làm nổi bật cái nghịch lý đó: Lúc Ngài thực sự đầy quyền lực là khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho môn đệ và khi bị treo trên thập giá, chân tay bị đóng chặt và chết trên thập giá, nhưng chính là lúc Ngài hoàn tất công trình cứu chuộc.
Chúng ta học được cách này từ Thiên Chúa, Ngài luôn lấy tình yêu để dạy dỗ, chữa lành và cứu vớt; Ngài sai chính Con Ngài đến trần gian không phải để luận phạt, nhưng để cứu chữa và nuôi sống (x. Ga 3,16-17; 10,10). Thiên Chúa đi bước đầu trong giao ước với con người, không áp đặt, không bó buộc, mà là một lời mời gọi chờ lời đáp trả với tự do và tình yêu, một đối thoại và đồng thuận của đôi bên. Chúng ta có thể lấy ví dụ cách cư xử của Thiên Chúa đối với tiên tri Giona và dân thành Ninivê; nhất là với cuộc nhập thể của Chúa Giêsu, Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, với Đức Trinh Nữ Maria, để hiểu thấu tính cách đồng hành gần gũi, thân tình.
Mô hình đào tạo đồng hành này khó và rất vất vả, phải có tâm huyết và nhiều kỹ năng sư phạm, nhiều kinh nghiệm và nhẫn nại, chịu khó và hy sinh, nhất là ơn Chúa và tình thương của Chúa mới có thể theo đuổi được. Bởi vì để biến đổi và thăng tiến ứng sinh, trước hết nhà đào tạo phải biến đổi chính mình, phải đi vào tiến trình phản tỉnh, suy tư về chính mình nhằm làm cho chính mình được lớn lên trong sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng luôn đồng hành với mỗi con người.
Đồng hành là cùng đi, là luôn có mặt, là luôn hiện diện, và sự hiện diện của nhà đào tạo phải như một quà tặng cho ứng sinh. Yêu cầu cống hiến trọn thời gian cho công cuộc đào tạo là vì vậy. Chúa Giêsu luôn mau mắn có mặt bên các tông đồ. Thật thế, giữa đêm tối trên biển cả, các tông đồ hoảng sợ, Chúa Giêsu lên tiếng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” (Mc 6,50). Sự hiện diện của Chúa đem lại an lòng, ấm áp, hạnh phúc và bình an. Sự hiện diện của nhà đào tạo như một quà tặng khi biết để ý tới niềm vui, nỗi buồn, nỗi lo, niềm thao thức, hy vọng, hay cả những thất vọng của ứng sinh, khi sống có tấm lòng, có tình nghĩa với họ, luôn biểu lộ sự hiền lành, tươi cười, niềm nở qua lời nói, nét mặt.
Phương pháp đào tạo đồng hành cần có sự thân tình, tin tưởng và yêu thương. Như Chúa Giêsu đi bước trước tới nhà ông Gia-kêu, nhà đào tạo sẵn sàng đi bước trước đến với ứng sinh để tạo bầu khí thân tình, gần gũi, đối thoại, lắng nghe, nhờ đó mà đưa tới sự biến đổi, vốn là mục tiêu của đào tạo: biến đổi người xấu thành người tốt, biến đổi người tốt thành người tốt hơn, và thành thánh nhân. Cuộc đồng hành “tiếp lửa” của Chúa Giêsu với hai môn đệ trên đường Êmau cũng là một kiểu mẫu cho phương pháp đào tạo đồng hành giữa nhà đào tạo và ứng sinh. Phương pháp này đòi hỏi nhà đào tạo cùng tham dự vào tất cả các sinh hoạt hằng ngày của ứng sinh, khiến ứng sinh không còn sợ hãi, xa cách.
Nhà đào tạo đồng hành đem lại tin tưởng và an toàn cho ứng sinh, hay nói cách khác, nhà đào tạo phải tin tưởng ứng sinh sẽ được biến đổi tốt đẹp trong tương lai. Chính Chúa Giêsu đã tỏ rõ điều đó khi Ngài đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi, hay khi không kết án người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Quả thế, dù một người có hư hỏng đến đâu đi nữa thì cũng còn có vài điểm tốt. Nhà đào tạo biết rút ra vài điểm tốt đó để phát huy. Baden Powell, ông tổ của phong trào giáo dục Hướng đạo, bảo rằng dù gặp một con người chỉ có 5% tốt còn 95% xấu thì phải nhìn 5% tốt nơi con người để giúp họ phát huy, rồi 95% xấu kia sẽ dần dần được thay thế. Còn thánh Gioan Bosco bảo một trái táo thối vẫn còn có một cái hạt có thể nẩy mầm trở thành một cây và đơm bông kết trái. Ứng sinh sẽ tin tưởng vào nhà đào tạo nào tin tưởng mình. Sự tin tưởng này luôn có tính hỗ tương.

Sự hiện diện đầy yêu thương của nhà đào tạo mang lại nhiều kết quả tốt trong công cuộc đào tạo hơn luật lệ, nguyên tắc, chương trình, kiến thức; nhất là khi yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương (x. Ga 13, 34): Ngài cất bước đi tìm và đón nhận tất cả những ai đến với Ngài. Nhà đào tạo phải chấp nhận những khác biệt với mình của ứng sinh, phải quyết tâm vượt qua những bức tường ngăn cách thiện cảm hay ác cảm tự nhiên, để có thể trao ban và lãnh nhận lẫn nhau. ĐTC Biển Đức XVI viết về vấn đề giáo dục ngày 23/2/2008 như sau: “Nền giáo dục này trước tiên cần có sự gần gũi và tín nhiệm nảy sinh từ tình thương: tôi nghĩ đến kinh nghiệm đầu tiên và cơ bản về tình thương mà các trẻ em cảm nhận nơi cha mẹ. Mỗi nhà giáo dục đích thực đều biết rằng để giáo dục thì phải trao hiến một cái gì đó từ chính bản thân mình và chỉ như thế mới có thể giúp các học sinh của mình khắc phục những ích kỷ và trở thành người có khả năng yêu thương đích thực.
Quả thế, bí quyết thành công trong việc đào tạo chính là dùng tình thương xoa dịu các tâm hồn, khám phá cái tốt nơi mỗi ứng sinh, làm cho họ tỏa sáng và dẫn đưa họ đến cùng Chúa: “Hôm sau, ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông, thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa.’ Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu.” Nhà đào tạo phải dọn đường để Chúa đến với ứng sinh và đưa ứng sinh đến với Chúa.

5.c. Hai mặt bổ sung quyền lực của nhà đào tạo

Quyền lực hay uy tín của nhà đào tạo là một tiến trình phát triển liên tục, bao gồm quyền lực bên ngoài do chức vụ, địa vị, tài năng, chuyên môn và quyền lực bên trong do tấm lòng yêu thương, linh đạo, suy tư khôn ngoan, mục đích và động lực chính trực.
Quyền lực bên trong phát triển do sự hướng nội, đấu tranh bản thân, sự tiến hóa từng trải của kinh nghiệm cuộc đời, việc chấp nhận và đánh giá đúng đắn về chính mình, cũng như về ứng sinh (xem trường hợp Philipphê giới thiệu Nathanael). Nhà đào tạo và lãnh đạo giỏi là người có khả năng nối kết, hòa điệu, khả năng tư duy bên trong với khả năng hành động bên ngoài.
Quyền lực bên ngoài của nhà đào tạo được biểu lộ nơi sự tự tin, năng lực, chuyên môn, địa vị, bằng cấp, chức vụ, tiền bạc, thành công và được mọi người biết đến. Trong khi quyền lực bên trong phát xuất từ con người nội tâm, từ tâm hồn, từ các giá trị sâu xa liên hệ đến bản thân và cuộc sống, có thể truyền lửa và sức mạnh cho người khác.
Phẩm chất của nhà đào tạo là yếu tố nội tại bền vững, thực sự quyết định của việc đào tạo hơn là do chức vụ quyền bính. Đào tạo liên hệ chặt chẽ với ý niệm người môn đệ đi theo thầy (discipleship) và người có thể thúc đẩy, hướng dẫn người khác [bạn hãy theo sát Chúa Giêsu và Chúa Giêsu sẽ theo sát người thụ huấn của bạn].
Trong Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến (ban hành ngày 25/3/1996), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắn nhủ: “Các con không những phải nhớ và kể lại một lịch sử huy hoàng, mà còn phải kiến tạo một lịch sử vĩ đại nữa. Hãy hướng về tương lai, tới chỗ mà Thánh Thần đang sai các con đi, để làm những việc trọng đại. Các con hãy biến cuộc đời các con thành cuộc trông đợi sốt sắng Chúa Kitô… Hãy sẵn sàng luôn luôn, hãy trung thành với Chúa Kitô, với Giáo Hội, với Hội dòng của mình và với con người thời đại này. Nhờ thế, ngày qua ngày, các con sẽ được Chúa Kitô đổi mới, và nhờ Thánh Thần trợ giúp, các con sẽ kiến tạo những cộng đoàn huynh đệ,…và góp phần độc đáo của các con vào sự biến hình của thế giới… Mong sao cho thế giới đã được trao vào tay con người sẽ được nhân đạo hơn, công bằng hơn, trở nên dấu chỉ và hình ảnh báo trước thế giới sắp đến…” (Vita Consecrata, số 110).

Hai




VƯỢT LÊN NHỮNG BẤT CẬP VÀ THÁI QUÁ
ĐỂ LÀM NHÀ ĐÀO TẠO ĐÍCH THỰC
THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU




  1. VƯỢT LÊN NHỮNG BẤT CẬP VÀ THÁI QUÁ TRONG VIỆC ĐÀO TẠO


Cho đến nay, người trước kẻ sau, chúng ta đã cố gắng rất nhiều. Nhưng bên cạnh những ưu điểm và ý hướng tốt, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn lại đôi nét cách thức đào tạo mà chúng ta đã và đang làm có thể không thích hợp với Lòng Thương Xót của Chúa, huấn quyền Giáo Hội và khoa sư phạm đồng hành đào tạo của thời đại hôm nay, một thời đại đang đổi mới từng ngày. Hy vọng một khi nhận ra được những bất cập hay thái quá của mình, chúng ta sẽ tự cải thiện bản thân và cải tiến cách đào tạo của mình, sao cho phù hợp với đường lối đào tạo của Giáo Hội trong giai đoạn mới của Huấn thị Xuất Phát Lại Từ Chúa Kitô (ban hành ngày 19.5.2002).        
  1. Óc nệ cổ


Vì nệ theo truyền thống “xưa bày nay làm”, nhiều khi chúng ta áp dụng lại cách thức mình đã được đào tạo trước đây mà không cập nhật, thay đổi và cải tiến theo những chỉ dẫn của Huấn quyền Giáo Hội, cũng như của khoa sư phạm thời nay. Ngày xưa làm như vậy là tốt, nhưng ngày nay không còn thích hợp nữa (vd. Làm vỡ cái bát bị phạt đội cái bát vỡ quỳ giữa lối đi, hay phạt nằm sấp giữa lối đi cho mọi người bước qua, hoặc phạt ngồi ăn cơm muối một mình dưới sàn trong nhà cơm chung, v.v… làm tổn thương tự ái, tự trọng và nhân phẩm).
  1. Chạy theo thời


Ngược lại, có khi sợ bị chê là “lạc hậu”, chúng ta chạy theo thời, mị dân lấy lòng ứng sinh, chiều theo sở hiếu của ứng sinh, tìm sự thành công cá nhân vượt trội có thể gây bất đồng và mâu thuẫn với các đồng nghiệp, khiến cách sống của các ứng sinh biến môi trường đào tạo thành như một ký túc xá thương mại.
  1. Điều tra ứng sinh về ứng sinh khác


Để nắm bắt sâu sát tình hình các ứng sinh hầu công cuộc đào tạo được hiệu quả, một số nhà đào tạo trong chúng ta hay hỏi các ứng sinh về những ứng sinh khác, lấy lý do “họ ở với nhau, biết nhau hơn mình” và đơn sơ tin vào các “báo cáo” đó mà không chắt lọc và lắng nghe cả hai phía, khiến có những trường hợp bị oan uổng, gây nghi ngờ, cảnh giác, sợ hãi, và có khi thù oán nhau nữa. 
  1. Bắt ứng sinh nhận xét nhau


Vì muốn giúp đỡ các ứng sinh sửa chữa và hoàn thiện bản thân, một số nhà đào tạo trong chúng ta yêu cầu mỗi ứng sinh nhận xét về các ứng sinh khác, nhưng lại làm lộ tên người viết, nhất là khi nhận xét gây thiệt hại lớn cho người bị nhận xét, khiến có sự buồn lòng và mâu thuẫn giữa các ứng sinh (có khi giận thù nhau, tẩy chay nhau, không thèm nhìn mặt nhau). Việc này cũng khiến họ giảm bớt lòng tín nhiệm và trở nên dè dặt đối với nhà đào tạo, tổn thương bầu khí bình an, huynh đệ và thăng tiến của cả cộng đoàn. Thật ra, chúng ta chỉ nên cho góp ý nhận xét về một tình trạng chung, không nêu đích danh người nào, để người có trách nhiệm đào tạo nhắc nhở chung, “ai có tật thì lo giật mình” mà tự mình sửa chữa cho nên tốt.
  1. Lẫn lộn tòa trong và tòa ngoài


Một số nhà đào tạo trong chúng ta chưa phân biệt đủ tương tác tòa trong và tòa ngoài, không giữ kín mà lại đem nói ra điều ứng sinh tín nhiệm tâm sự hay lỗi lầm thầm kín của họ mà mình biết được khi đồng hành thiêng liêng hay linh hướng, khiến họ bị thiệt hại, đau khổ rồi từ đó đóng lòng lại vì mất tin tưởng ở nhà đào tạo. Thật ra linh hướng thuộc bí mật tòa trong, và tương quan linh hướng là tương quan bí mật khép kín tay ba giữa Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng (x.GL 220). Bí mật linh hướng có cùng qui chế với ấn tòa giải tội.
  1. Tin thư nặc danh


Một số nhà đào tạo trong chúng ta đơn sơ dễ tin thư nặc danh và áp dụng biện pháp không thích đáng cho người bị tố cáo, trong khi đáng ra phải vứt bỏ thư nặc danh và tìm trừng trị kẻ hèn nhát không dám ký tên chứng thực điều mình viết, coi như một thứ gian lận cần phải loại trừ; đồng thời quan tâm tìm hiểu thực hư thế nào để giúp đỡ các đương sự sống tốt hơn.
  1. Dùng “ăng-ten” theo dõi báo cáo


Nhằm tính hiệu quả trong việc hiểu biết mọi thụ huấn sinh, một số nhà đào tạo trong chúng ta dùng một số ứng sinh tin tưởng (có khi khéo xu nịnh và a dua, lừa thầy phản bạn) làm tay chân theo dõi và báo cáo về các ứng sinh khác. Việc này gây rối loạn trong cộng đoàn, bao phủ bởi bầu khí nghi ngờ, sợ sệt, lo âu, thù hằn, mất bình an,… rất tác hại cho công cuộc đào tạo, và vô tình bị chính những tay sai của mình lèo lái và điều khiển theo ý họ, theo lối “lừa thầy phản bạn.” Nhà đào tạo không nên dùng lối đó, mà chính mình sẽ đích thân kiểm soát bằng sự phục vụ đầy chăm sóc và gần gũi yêu thương, vì cuộc sống mỗi ngày sẽ mạc khải đúng con người thật: “Đi lâu mới biết đường dài, ở lâu mới biết con ngài phải chăng.” Nhờ đó sẽ phát hiện kịp thời và có cách thích hợp nhất để uốn nắn, đào tạo với lòng cảm thông thương xót. 
  1. Lạm dụng Thần quyền


Cũng nhằm tính chắc chắn tuyệt đối, một ít nhà đào tạo trong chúng ta lạm dụng biện pháp thánh thiêng để điều tra sự việc như bắt ứng sinh đặt tay trên Phúc Âm mà thề, đứng trước thánh giá hoặc qùy trước Thánh Thể để nói lên sự thật nào đó. Làm như thế, lắm khi thay vì đạt được sự thật mong đợi thì lại tạo cớ cho họ phạm tội thề gian. Chắc Chúa chẳng chứng giám cho lời thề ấy và chẳng bằng lòng việc làm đó đâu, vì chính Chúa Giêsu dạy đừng thề chi cả, mà con cái Chúa hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm bớt là do ma qủi.
  1. Thương riêng cách lộ liễu


Dù có thể có thiện cảm với người này hơn người kia là chuyện bình thường, không ai có thể cân đo đong đếm được tình cảm, nhưng một số nhà đào tạo trong chúng ta biệt đãi, thương riêng cách lộ liễu một vài ứng sinh, trong khi lại thiếu công bằng với những người khác như xếp loại, in trí và định kiến, phân biệt đối xử giàu nghèo, tốt xấu... khiến cộng đoàn bị phân hóa, mất bình an và do đó một số người vượt không được đành mất ơn gọi.
  1. Óc cầu toàn


Cũng vì mong muốn cái gì cũng phải hoàn hảo, một số nhà đào tạo trong chúng ta quá cầu toàn, đòi hỏi ứng sinh phải thế này thế nọ vượt quá trình độ nhận thức và tu luyện còn non nớt của họ. Làm như vậy là đốt giai đoạn và đốt giai đoạn là đốt cháy luôn cả đời người, vì nhân đức hay tội ác cũng cần có thời gian để hình thành, không ai một sớm một chiều mà nên thánh hay thành ác quỉ được đâu. 
  1. Vội kết án và sử dụng biện pháp


Cũng vì bị thúc đẩy bởi ý muốn có những ứng sinh tốt, một số nhà đào tạo trong chúng ta vội kết luận về lỗi lầm và nghiêm khắc sử dụng biện pháp ngay, nhưng lại không cho ứng sinh biết lỗi lầm, giải thích và biện minh, cũng như cơ hội và thời gian để thực hiện sự hoán cải và đổi mới cần thiết (x. Cvtđ 25, 13-16).135 Nếu chỉ tìm giữ lại người hoàn hảo thôi thì chỉ có rất ít, hoặc không thể có, như thánh Phaolô nói “Không có chi hoàn hảo trên trần gian này cả.” Nếu có lỗi thật đi nữa thì lỗi một thời, không ai lỗi suốt đời. Loại đi người có lỗi, người đó thất bại đã đành, mà nhà đào tạo và chính bản chất của công cuộc đào tạo (biến đổi người xấu thành người tốt) cũng thất bại.
  1. Hay nhắc lại lầm lỗi cũ


Vì muốn cho ứng sinh nhớ bài học quá khứ để sửa mình, một số nhà đào tạo trong chúng ta hay nhắc lại lỗi lầm cũ, trong khi người có lầm lỗi đã sửa chữa, không còn tái phạm nữa, khiến họ rất khổ tâm và nhụt chí. Đáng ra quá khứ qua rồi thì thôi, không ai thay đổi được cái đã xảy ra, cố gắng giúp lật qua trang đời mới, cho người ta vui vẻ tiến về tương lai: Mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai. Cha ông chúng ta cũng từng nói rằng đã là người thì không ai mà không có lỗi gì, nhưng có lỗi thì sửa, và sau khi sửa rồi thì không còn lỗi nữa (x. Câu chuyện Mẫu tự ST136).
  1. Làm việc cách độc đoán


Một số nhà đào tạo trong chúng ta quên nguyên lý bổ trợ, thi hành nhiệm vụ thiếu hài hòa, thiếu phân cấp trách nhiệm rõ ràng, “dẫm chân lên nhau” dẫn tới tình trạng xung đột quyền bính, tranh chấp uy tín, ảnh hưởng và quyền hạn với nhau, gây ảnh hưởng xấu tác hại trên việc đào tạo ứng sinh: “hai con trâu đánh nhau, con ruồi chết oan”!137  
  1. Lạm dụng việc đánh giá


Vì ý hướng tốt muốn phát triển trách nhiệm tập thể cao, một số nhà đào tạo trong chúng ta áp dụng phương thức cả cộng đoàn bỏ phiếu đánh giá quyết định ơn gọi của nhau. Việc này vừa giảm nhẹ trách nhiệm của Bề Trên và Hội đồng đào tạo là những người có trách nhiệm, ơn đoàn sủng và nghiệp vụ để làm việc đó, vừa trao quyền quyết định quá lớn cho phán đoán của các thành viên không có trách nhiệm, ơn đoàn sủng và nghiệp vụ đào tạo, chưa đủ trưởng thành để cân nhắc trách nhiệm lương tâm khi sử dụng phiếu bầu theo cảm tính hay đầu óc phe nhóm, để cất nhắc người cùng phe và trù dập người của phe đối lập, đang khi ý kiến hay phiếu bầu đó chỉ nên có giá trị tham khảo để biết tình hình chung hầu xây dựng phương hướng đào tạo, cách đánh giá thích hợp và quyết định đúng đắn mà thôi.

Tóm lại, lắm khi tính khí, quan điểm và cách làm việc bất cập hay thái quá của một số nhà đào tạo trong chúng ta đã gây nên những thách đố, thử thách, và đau khổ không vượt qua được đối với một số ứng sinh làm cho Giáo Hội mất đi một số ơn gọi, mà càng ngày sẽ càng ít đi, nhất là ở các thành phố lớn và những khu vực mới phát triển.



Ước gì không ai trong chúng ta sẽ phải ân hận vì mình mà một hay nhiều ơn gọi đích thực đã phải ra đi, hay đã bất cẩn cất nhắc những người mà Chúa không chọn gọi. Chúng ta cần biết mình để tự điều chỉnh cho đúng với chức năng và tâm hồn đào tạo. Nếu chúng ta không tự mình làm được việc đó, thì hãy xin Bề trên cho rút lui khỏi trách nhiệm đào tạo vì lợi ích lớn hơn của các ứng sinh, của Nhà Dòng và của Giáo Hội Chúa. Cần phải biết tự mình thay đổi trước khi bó buộc phải thay đổi do thời thế, do người ta không thể chịu nổi và do những thiệt hại mình gây nên.

Bài đọc thêm



1. Nhận thức về bản chất sứ vụ đào tạo

Để khởi đầu, tôi xin kể câu chuyện của một cô giáo và một cậu học trò lớp 5. Trong ngày học đầu tiên, đứng trước học sinh lớp 5, cô Thompson nhìn đám học trò và nói với chúng rằng cô yêu thương chúng giống như nhau. Đó là một điều không đúng sự thật. Quả thế, đó là điều không thể, vì ngồi ở ngay hàng ghế đầu là cậu bé Teddy Stallard mà cô đã quan sát thấy rằng cậu không chơi tốt với các trẻ khác, áo quần bẩn thỉu, thân thể cần phải tắm rửa, trông thật khó ưa đến đáng ghét. Và cô đã có một định kiến về em. Bài tính của em chỉ đáng cô dùng cây bút đỏ gạch chéo và ghi một chữ F to tướng lên trang bài làm. Cô luôn xếp thành tích học tập của Teddy vào hạng cuối.
Tuy nhiên, cô Thompson xin văn phòng cho xem hồ sơ của Teddy. Khi nhìn vào hồ sơ của em, cô quả thật ngạc nhiên: Giáo viên lớp 1 của Teddy viết: “Teddy là một cậu bé sáng chói với nụ cười luôn tươi nở trên môi. Bài làm của cậu luôn sạch sẻ ngăn nắp và thật tốt. Cậu luôn đem lại niềm vui cho mọi người chung quanh”. Giáo viên lớp 2 viết: “Teddy là một học sinh xuất sắc, được chúng bạn yêu mến, nhưng cậu bị dao động lớn vì mẹ cậu bị bệnh nan y thập tử nhất sinh, và đời sống gia đình cậu bị khủng hoảng”. Giáo viên lớp 3 viết: “Cái chết của mẹ đè nặng trên cậu. Cậu đã cố làm hết sức mình, nhưng cha cậu không tỏ ra quan tâm, cuộc sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến cậu nếu mọi việc cứ diễn tiến như thế”. Giáo viên lớp 4 viết: “Teddy không giao tiếp với ai và không quan tâm mấy đến việc học. Cậu không có mấy bạn bè và nhiều khi ngủ trong lớp.”
Bấy giờ cô Thompson nhận ra được vấn đề căn bản nằm ở đâu. Cô cảm thấy rất xấu hổ về phẩm chất cô giáo của mình. Cô càng cảm thấy mình tồi tệ hơn khi đám học trò mang quà Giáng sinh đến cho cô, gói trong những giấy hoa quấn ru-băng rất đẹp, ngoại trừ quà của Teddy. Quà của Teddy được tự gói vụng về trong một tờ giấy màu nâu lượm ở tiệm tạp hoá, vì mẹ em không còn nữa. Cô Thompson miễn cưỡng mở gói quà của Teddy trước mặt đám học sinh hiện diện. Mấy học sinh bắt đầu cười nhạo to tiếng khi cô lôi ra một vòng cườm đeo tay bằng kim cương giả thiếu mất một số hột và một chai nước hoa chỉ còn lại một phần tư. Nhưng cô đã kịp dập tắt ngay được tiếng cười nhạo của lũ trẻ khi cô kêu lên rằng đây là một vòng cườm đẹp biết bao, cô vừa nói vừa mang vào cổ tay và bôi lên một ít nước hoa.

Ngày hôm đó Teddy ở lại khi tan học, chỉ vừa đủ lâu để nói được với cô giáo: “Thưa cô Thompson, hôm nay cô toả hương thơm giống như mẹ cháu”. Sau khi đám trẻ đi khỏi, cô đã ở lại lớp khóc cả tiếng đồng hồ. Từ trước, cô chỉ dạy tập đọc, tập viết và tập làm toán. Bây giờ cô bắt đầu công việc đào tạo học trò. Cô đặc biệt chú ý tới Teddy. Khi cô làm việc với em, trí khôn em bắt đầu trở nên lanh lợi. Cô càng khích lệ, em càng đáp ứng nhanh hơn. Cuối năm học, Teddy đã trở nên một trong những học sinh xuất sắc nhất lớp. Và dù cô đã nói rằng cô yêu thương tất cả các học sinh như nhau, Teddy đã trở thành cậu học trò cưng của cô giáo.
Ngày Teddy chuyển cấp, cô tìm thấy một mảnh giấy của Teddy chuồi dưới cánh cửa nói với cô rằng “cô là cô giáo tốt nhất mà em đã có được trong suốt cuộc đời”. Sáu năm qua đi, cô nhận được một mảnh giấy khác của Teddy. Cậu viết rằng cậu đã tốt nghiệp Trung học, đứng thứ ba trong lớp và cô vẫn là cô giáo tốt nhất mà cậu đã có được trong suốt cuộc đời. Bốn năm sau đó, cô nhận được một lá thư khác nói rằng mọi việc rất khó khăn lúc đó, nhưng cậu vẫn kiên trì ở lại trường. Cậu phấn đấu kịch liệt và sắp tốt nghiệp Đại học với danh dự cao nhất. Cậu bảo đảm với cô Thompson rằng cô vẫn là cô giáo tốt nhất và yêu thích nhất mà cậu đã có được. Và bốn năm nữa trôi qua, một lá thư nữa lại đến. Sau khi tốt nghiệp Cao Đẳng, cậu quyết định học lên nữa, và cô vẫn là cô giáo tốt nhất và yêu thích nhất mà cậu đã có được. Nhưng bây giờ tên của cậu trở nên dài hơn: “Tiến sĩ Theodore Stallard.”
Câu chuyện đã không dừng lại đây. Còn một lá thư khác vào mùa xuân năm đó. Teddy nói rằng cậu đã gặp được cô gái của lòng cậu và sẽ cưới nàng làm vợ. Cậu cho biết cha cậu đã qua đời hai năm trước đó và cậu hỏi liệu cô có vui lòng nhận lời đến dự tiệc cưới và ngồi vào chỗ vốn thường dành cho mẹ của chú rể không? Dĩ nhiên, cô Thompson nhận lời.
Chúng ta hãy đoán xem! Cô mang vòng cườm kim cương giả thiếu đi mấy hột ấy và dùng thứ nước hoa của mẹ Teddy mà cậu đã đem biếu cô dịp lễ Giáng sinh năm cậu học lớp 5. Cô cháu ôm lấy nhau và tiến sĩ Theodore Stallard thì thầm bên tai cô Thompson: “Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và đã chỉ cho em thấy rằng em có thể tạo nên một khác biệt”. Còn cô Thompson mắt ngấn lệ thì thầm lại rằng: “Teddy, trong việc này em hoàn toàn sai rồi! Em chính là người đã dạy cho cô rằng cô có thể tạo nên một sự khác biệt. Cô đã không biết làm sao đào tạo cho đến khi được gặp em”.
Có lẽ chúng ta không bao giờ chỉ rõ được loại tương tác nào có thể tác động lên cuộc đời của người khác bằng các hành động của cái tâm, hay thiếu hành động của cái tâm của chúng ta.
2. Theo cho đến cùng ước mơ của đời mình

Monty kể lại rằng cô giáo đã ra đề luận văn cho học trò: “Lớn lên em sẽ làm gì?” Một cậu bé đã viết bẩy trang giấy mô tả khát vọng ngày nào đó sẽ làm chủ một trang trại nuôi ngựa. Em diễn đạt ước mơ của mình thật chi tiết. Thậm chí em còn vẽ cả sơ đồ trại nuôi ngựa tương lai với diện tích khoảng 200 mẫu, trong đó em chỉ rõ chỗ nào xây nhà, chỗ nào đặt làm đường chạy cho ngựa. Viết xong, cậu bé đem bài nộp cho cô giáo. Vài ngày sau, cậu bé nhận lại bài làm của mình với một điểm 1 to tướng và một dòng bút phê đỏ chói của cô: “Đến gặp tôi sau giờ học”.



Thế là cuối giờ cậu bé đến gặp cô giáo và hỏi: “Thưa cô, tại sao luận văn của em lại bị điểm 1?” – “Là vì em đã hoạch định một việc mà em không thể làm được. Ước mơ của em không có cơ sở thực tế. Em không được một nguồn lực khả dĩ nào để thực hiện những dự tính của mình, mà nhà em lại nghèo. Em có biết để làm chủ một trại nuôi ngựa thì cần phải có rất nhiều tiền không? Bây giờ tôi cho em về làm lại bài văn. Nếu em sửa chữa cho nó thực tế hơn thì tôi sẽ cứu xét đến điểm số của em. Rõ chưa?”
Hôm đó, cậu bé về nhà và nghĩ ngợi mãi. Cuối cùng cậu đến gặp bố để hỏi ý kiến. Bố em bảo: “- Con yêu, chính con phải quyết định, vì bố nghĩ đây là ước mơ của con”. Nghe bố đáp, cậu bé liền nhoẻn miệng cười và sau đó đến gặp cô giáo. “Thưa cô, cô có thể giữ điểm 1 của cô, còn em xin được giữ ước mơ của em và sẽ theo đuổi cho đến cùng”.
Cách đây hai năm, vị cô giáo đó đã tình cờ dẫn 30 học trò đến đây để cắm trại. Thế là thầy trò tôi nhận ra nhau. Cầm tay tôi, cô giáo nói: “Monty này, khi anh còn học với tôi, tôi đã đánh cắp ước mơ của anh, và suốt bao nhiêu năm qua tôi cũng đã làm như thế với bao đứa trẻ khác, tôi rất ân hận về điều đó”.

Chớ gì không ai trong chúng ta phải ân hận vì mình mà một hay nhiều ơn gọi đã phải ra đi, trong khi Chúa lại kêu gọi họ; hoặc cả dám cất nhắc lên người mà Chúa không chọn! Hy vọng các nhà đào tạo sẽ luôn tạo cơ hội giúp mỗi một ứng sinh theo đuổi được ước mơ ơn gọi của mình, đáp lại lời kêu mời của Chúa.


  1. NHÀ ĐÀO TẠO ĐÍCH THỰC THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU


Nếu công cuộc đào tạo nhằm làm cho ứng sinh càng ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, thì trước hết nhà đào tạo sẽ nỗ lực nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, kiểu mẫu đích thực của nhà đào tạo: suy nghĩ như Chúa Kitô suy nghĩ, nhìn thấy như Chúa Kitô nhìn thấy, hành động như Chúa Kitô hành động, cầu nguyện như Chúa Kitô cầu nguyện, hướng dẫn như Chúa Kitô hướng dẫn và yêu thương như Chúa Kitô yêu thương, nhất là nhà đào tạo ra sức giúp ứng sinh trực tiếp cam kết mật thiết theo chính Chúa Giêsu, để một khi “thần tượng nhà đào tạo” có sụp đổ hay hoàn cảnh cuộc sống và sứ vụ có thế nào đi nữa thì họ vẫn bền vững với lý tưởng ơn gọi đã lựa chọn. 
    1. Nhân hậu như Chúa Giêsu


Nhà đào tạo quyết tâm theo gương mẫu hoàn hảo là Chúa Giêsu, Đấng đã rửa chân cho các môn đệ, yêu thương và đối xử với họ như bạn hữu; sống và đồng hành với họ trên hành trình trưởng thành nhân bản, đức tin và thiêng liêng. Bằng yêu thương nhẫn nại, tận tâm săn sóc, Ngài biết rõ họ từng người một, tính tình, phẩm chất, những điểm mạnh, điểm yếu của họ. Ngài nhân hậu và bao dung trước yếu đuối, khuyết điểm, tham vọng trần thế, cứng đầu cứng cổ, yếu lòng tin và chậm hiểu mầu nhiệm Nước Trời của họ, và Ngài kiên nhẫn chờ đợi sự giáo dục bổ túc của Chúa Thánh Thần cho họ.  
    1. Cầu nguyện cho ứng sinh


Trước khi chọn và huấn luyện 12 tông đồ để thiết lập Giáo Hội và sai đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm với Chúa Cha cho họ, và trao họ cho Cha trên trời gìn giữ bảo vệ: “Bây giờ con bỏ thế gian mà về cùng Cha, nhưng họ còn phải ở trong thế gian, con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ cho khỏi sự dữ.” Nhà đào tạo luôn cầu nguyện cho các ứng sinh được giao phó cho mình đào tạo, vì chỉ có Chúa biết rõ từng con người, và chỉ có Chúa mới thay đổi được một con người, đồng thời làm cho người đó được mãi bền vững trung kiên: “Nếu không có Thầy, các con chẳng làm gì được.” 

    1. Nêu gương sáng


Chúa Giêsu đã nêu gương phục vụ rửa chân cho các tông đồ “Thầy đã làm gương cho các con...” Gương sáng của nhà đào tạo rất hiệu quả, như Ca dao nói “Lời nói lung lay gương bày lôi kéo.” Chính vì thế, ĐGH Phaolô VI nói “Thế giới ngày nay tin vào chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là bởi vì thầy dạy đó là chứng nhân.” Nhà đào tạo không nhất thiết phải hoàn hảo hay là thánh, nhưng cố gắng là chứng tá một đời sống tu trì đích thực, từ những giới hạn rất người của mình. Các người trẻ sẽ nhạy cảm đối với gương sáng của một nhà đào tạo khiêm tốn và chân thực, theo đúng đặc sủng và linh đạo riêng của Dòng mình, nhờ đó họ thấy nỗ lực trở thành tu sĩ thánh thiện của họ trong Dòng là điều hoàn toàn có thể. Đó cũng là lý do ngày nay người ta trình bày Chúa Kitô “từ bên dưới”, từ một người Nazareth, con bà Maria và bác thợ mộc Giuse, gần gũi với mọi người, như mọi người, để mọi người có thể cùng Ngài vươn lên với Thiên Chúa.
    1. Cùng ứng sinh tìm ý Chúa


Chúa Giêsu suốt đời tìm thực hiện ý Chúa Cha, nhưng cũng không thoát khỏi những lúc trăn trở, giằng co với ý riêng mình: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa con...”. Nhà đào tạo khiêm tốn biết chấp nhận những nghịch cảnh và trái ý, lại không tự phụ cả dám đồng hóa ý mình với ý Chúa và áp đặt lên ứng sinh. Trái lại, nhà đào tạo dẫn dắt ứng sinh và cùng với ứng sinh cầu nguyện tìm thánh ý Chúa để thực thi, bằng cách nỗ lực khám phá điều Chúa Thánh Thần muốn nói với ứng sinh qua mình, và cũng khiêm tốn tìm biết điều Chúa Thánh Thần muốn nhắc nhở mình qua ứng sinh. 
    1. Không nản lòng vì thất bại


Chúa Giêsu cũng có những nỗi buồn thất bại: “Linh hồn Thầy buồn có thể chết được… Một người trong các con sẽ phản nộp Thầy… ”. Nhà đào tạo cũng biết khiêm tốn chấp nhận thất bại, nghịch cảnh và trái ý, không phải lúc nào ứng sinh cũng được như ý mình muốn cả đâu… Trái lại, nhà đào tạo luôn tin tưởng mãnh liệt rằng đào tạo là thay thế và biến đổi, thay thế cái xấu bằng cái tốt, biến đổi người chưa tốt thành người tốt và biến đổi người tốt thành người tốt hơn, trong tiến trình thành nhân rồi mới thành thánh nhân. Trong chiều hướng ấy, nhà đào tạo luôn quý chuộng và ra sức gìn giữ các ơn gọi Chúa gửi đến cho mình, như người chăn chiên lành để lại 99 con chiên trong đàn đi tìm con chiên lạc: Những kẻ Cha đã ban cho con, con không để một ai phải hư mất, trừ ra kẻ phải hư hỏng để Lời Kinh Thánh được nên trọn.

    1. Mở rộng con đường trở về


Chúa Giêsu thừa nhận tội của Madalêna, nhưng Ngài không đóng chặt bà lại ở tội quá khứ, mà đã mở rộng con đường biến đổi tương lai cho bà trở thành vị thánh nữ loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Nhà đào tạo nhìn xa, tin tưởng và hy vọng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai của ứng sinh, nhờ ơn Chúa: “mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai; lỗi một thời, không ai lỗi suốt đời.” Thấu cảm, độ lượng và tha thứ, gạn đục khơi trong, theo gương lòng nhân hậu xót thương của Chúa: “Cây sậy đã rạp xuống Ngài không bẻ gãy, ngọn đèn còn leo lét khói Ngài không dập tắt.” Nhà đào tạo nhân từ không quên dụ ngôn người chăn chiên lành đi tìm con chiên lạc, vác trên vai đưa về mở tiệc ăn mừng. Người nào còn cứu được, hãy cố cứu: người được tha nhiều sẽ cảm nhận hạnh phúc và sẽ cố gắng bền vững (Hạnh phúc kẻ được tha nhiều, sẽ lo yêu mến trăm chiều trung kiên). Phêrô đã chối Thầy vì yếu đuối, dù Chúa đã báo trước. Ngài nhìn lại để thấy nước mắt ăn năn của ông và vẫn tiếp tục thương tín nhiệm trao cho nhiệm vụ chăn dắt toàn thể Giáo Hội.   

    1. Không nhắc lại lầm lỗi quá khứ


Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, người cha khoan hậu không màng đến lời xin lỗi của đứa con trở về, một chỉ vui mừng “vì con ta đã mất nay tìm thấy, đã chết nay sống lại.” Nhà đào tạo bao dung không nhắc lại lầm lỗi quá khứ của ứng sinh và hành xử căn cứ vào lầm lỗi cũ; mọi sự đã đổi mới, cố gắng giúp họ lật qua trang đời mới: Chiếc đồng hồ bị hư, sau khi sửa rồi không ai còn gọi nó là đồng hồ hư nữa; và nếu ai còn coi đó là đồng hồ hư là không đúng. Vì thế, cha ông chúng ta đã nói: “Nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cải, thị vị vô quá.”
    1. Kín đáo về lầm lỗi cá nhân của ứng sinh


Dù Giuđa toan tính phản nộp Ngài với giá chỉ bằng một phần mười bình dầu thơm người phụ nữ xức chân Chúa, Chúa Giêsu vẫn luôn kín đáo nhắc khéo Giuđa nhiều lần, cho ông cơ hội sửa mình (“một người trong các con sẽ nộp thầy; việc gì con tính làm thì hãy làm mau đi; Giuđa, con dùng cái hôn để nộp Con Người sao?…”). Nhà đào tạo khéo léo sẽ kín đáo, không đem lỗi lầm hay tâm sự của ứng sinh và của người khác nói ra công khai với mọi người, gây thiệt hại và làm mất lòng tín nhiệm của đương sự cũng như của những người nghe. Người ta sẽ đóng lòng lại và không ai dám nói gì với mình nữa.  
    1. Gợi ý thúc đẩy sáng kiến và quyết tâm


Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng lối hỏi gợi ý để dạy dỗ: “Các con nghĩ sao? Ông Simong, tôi có điều này muốn nói với ông; Ta mua đâu được bánh cho họ ăn?”... Nhà đào tạo dày kinh nghiệm dùng phương pháp này để giúp ứng sinh nhận ra thực trạng của mình để tự đào tạo, tự đưa ra sáng kiến và quyết tâm chọn lựa, như thế mới bền. Nhờ Chúa hỏi mà Phêrô tuyên xưng đức tin và Chúa có cơ hội để dạy điều quan trọng, hơn là ông được chính Chúa Cha mạc khải cho. Nhà đào tạo khéo léo triệt để vận dụng phương pháp này, trong tinh thần đối thoại, kể cả trong “vâng lời đối thoại” liên quan đến quyền bính mà Vatican II đề xướng. Cùng nhắm đến một mục tiêu, nhưng gợi ý thì hiệu quả hơn là truyền lệnh và bắt buộc: “Ông nói đúng, hãy đi và làm như vậy.”
    1. Thương người lầm lỗi


Chúa Giêsu dạy chúng ta giới răn mới đặc biệt của Ngài: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Chúng ta thế nào, thì Chúa vẫn yêu thương chúng ta như thế ấy, và Ngài sẽ yêu thương chúng ta cho đến cùng. Nhà đào tạo tâm huyết luôn biểu lộ lòng yêu thương; không có lòng yêu thương độ lượng không thể đào tạo được: Loại bỏ lỗi lầm nhưng thương yêu người lầm lỗi và tạo cơ hội cho họ hoán cải nên tốt. Chính tình yêu thương ấy làm cho cộng đoàn triển nở hạnh phúc, và nhờ đó mà phát triển thêm nhiều ơn gọi mới: “Xem kìa, họ yêu thương nhau là dường nào!” 
    1. Không thử thách quá sức ứng sinh


Thánh Phaolô căn dặn Timôthê về việc tuyển chọn các trợ tá: “Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ...” (1 Tm 3,10). Thử thách là cần thiết và có nhiều thứ, nhưng nhà đào tạo nhân từ không đưa ra những thử thách không cần thiết, hay vượt quá sức ứng sinh, nhất là không bao giờ “gài bẫy” cho họ mắc phải để có cớ trừng trị. Chúa không để thử thách nào vượt quá sức con người: Sau khi loan báo về cuộc khổ nạn, Phêrô đã ngăn cản và bị Chúa Giêsu quở trách là Satan vì ông chỉ biết việc của con người, mà không biết việc của Thiên Chúa. Nhưng tiếp đó, Ngài đã biến hình trên núi trước mắt các tông đồ thân tín, hầu nâng đỡ đức tin yếu kém của các ông trước thử thách thập giá. Và khi Phêrô yếu đuối sa ngã chối Ngài, Chúa Giêsu đã nhìn lại với ánh mắt nhân từ thương yêu khiến ông đủ sức chỗi dậy.

    1. Cho cơ hội và lắng nghe lời giải thích


Cvtđ 25,16 dạy để cho bị cáo được đối chất với nguyên cáo, và được cơ hội biện hộ về lời tố cáo. Ở đời ai mà chẳng có lúc lầm lỗi. Tội thì tha, lỗi thì sửa. Nhà đào tạo nhân từ và nhẫn nại cho ứng sinh biết lỗi, nghe họ giải thích, cho họ cơ hội và thời gian để sửa chữa, nhất là khi lỗi lầm còn kín đáo; khi họ không sửa hoặc sửa mà không được và lỗi lầm trở nên bản chất nghiêm trọng rồi hẵng hay. Và cho họ ra về cũng với sự tôn trọng, (chẳng hạn như “vì không thích hợp với đời tu”), chứ không rêu rao là họ bị loại, bị đuổi vì lầm nọ, lỗi kia, làm tổn thương nhân phẩm và danh dự của họ, khiến họ ra đi mà hận trong lòng chẳng bao giờ quay trở lại nữa. Làm gì thì cũng nên để lại một chút tình, để sau còn nhìn sửa mặt nhau. Luôn lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương.

Nhà đào tạo tâm huyết nhìn về tương lai và nỗ lực khắc phục sự mất mát đó. Các cựu ứng sinh nầy cũng là kho tàng của Nhà Dòng, họ sẽ cộng tác vào công cuộc của Hội dòng cách này hay cách khác. Hãy tạo cơ hội cho họ đền đáp những ân huệ đã lãnh nhận bằng cách góp phần cách tích cực và hữu hiệu vào đời sống và sứ mệnh của Hội dòng nói riêng, và của Giáo Hội nói chung, về nhân lực cũng như vật lực. Các Hội dòng thiết lập được Hội cựu tu sinh hiểu rõ sức mạnh và lợi ích của lòng tôn trọng đó. 
    1. Hiện diện mang lại bình an và an toàn


Trong những lúc các tông đồ bị dao động và sợ hãi trên biển cả trong đêm tối, bán tín bán nghi tưởng nhìn thấy ma, Chúa Giêsu lập tức có mặt: “Các con đừng sợ, chính Thầy đây! Bình an cho các con!” Nhà đào tạo lịch lãm tỏ ra có khả năng kiến tạo bầu khí bình an và an toàn, đồng thời đem lại sự bình an cho các ứng sinh, nhất là trong những lúc họ gặp thử thách, bất hòa, nghi nan, do dự, tiến thoái lưỡng nan trước con đường lý tưởng cao cả nhưng nhiều yêu sách một bên, và bên kia là sức con người dòn mỏng yếu đuối đối diện với những dao động, chiến đấu cũng như những khó khăn trái ý, đau khổ, và nghịch cảnh đa dạng khác. 
    1. Nhẫn nại chấp nhận những giới hạn


Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Thầy còn nhiều điều cần nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể hiểu được, chờ đến khi Thần Chân Lý đến...” (x. Ga 16,12-13). Thánh Phaolô cũng đã viết: “Tôi đã cho anh em uống sữa, chứ không phải đồ ăn cứng, bởi khi ấy anh em chưa sao chịu nổi, mà cả bây giờ anh em cũng chưa chịu nổi đâu!” (1 Cr 3,2). Nhà đào tạo có sư phạm và tâm lý sẽ nhẫn nại, không đòi hỏi những tiêu chuẩn đánh giá quá cao, so với trình độ tuổi tác, kiến thức, sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng của ứng sinh: Không đốt giai đoạn, vì đốt giai đoạn là đốt cháy một đời người.

Nhà đào tạo từng trải kinh nghiệm và nhân hậu luôn nhớ hai sức mạnh đối nghịch khiến con người không làm được điều tốt mình muốn làm, nhưng lại làm điều xấu mình không muốn làm mà thánh Phaolô nói đến.138 Chấp nhận những giới hạn yếu đuối bất toàn và bất lực của mình khiến ta ngày càng khiêm tốn hơn. Chấp nhận những giới hạn yếu đuối bất toàn bất lực của người khác khiến ta ngày càng cảm thông, độ lượng, tha thứ và bỏ qua lầm lỗi thiếu sót của người hơn. Nhà đào tạo cảm thông áp dụng điều ấy vào tương quan của mình với ứng sinh sẽ tìm thấy một con đường rộng mở và mở rộng một con đường cho ứng sinh tiến bước.


    1. Tiến trình chỉ bảo huynh đệ và lòng cảm thông


Nhà đào tạo khéo léo dung hòa được lòng cảm thông với lầm lỗi của ứng sinh luôn nhớ tiến trình chỉ bảo huynh đệ mà Chúa Giêsu dạy trong Phúc âm: “Nếu anh chị em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người anh chị em. Nếu nó không nghe ngươi, ngươi hãy kèm theo một/hai người nữa, để tất cả công việc được đoán định do miệng hai/ba nhân chứng. Nếu nó không màng nghe họ, hãy thưa với cộng đoàn…” (x. Mt.18, 15-17).
Một người có thể phạm lỗi cố tình hay vô ý, biết rõ hay không biết gì. Nhà đào tạo có thể có hai thái độ hành xử: - hoặc là phòng bệnh, - hoặc là chữa bệnh. Nhà đào tạo cảm thông phòng bệnh đi bước trước, ngăn ngừa những ảnh hưởng tác hại từ bên ngoài, hay dập tắt ngay từ trứng nước cái mầm móng từ bên trong, để lỗi lầm không thể xảy ra. Như người làm nông năng thăm vườn cây, khi phát hiện cây bị sâu bệnh liền phun thuốc diệt sâu bệnh hại cây, nhà đào tạo cảm thông đón trước và khuyến cáo ngay lỗi lầm có thể, ngăn ngừa các ảnh hưởng và nguyên nhân từ bên ngoài, hay những yếu đuối từ bên trong thân phận con người để lỗi lầm không xảy ra.
Nhà đào tạo cảm thông tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, cho người phạm lỗi biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện hộ, kết luận xác định đúng lỗi lầm, gợi ý hình phạt, cho đương sự cơ hội và thời gian sửa chữa, và nhẫn nại giúp đương sự tập nhân đức ngược lại, hy vọng vào kết quả sẽ có trong tương lai: “xin cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó, may ra sang năm nó có trái chăng; nếu không thì ông hẵng chặt” (x. Lc 13, 6-9)
Nhà đào tạo thiếu cảm thông mới khám phá thấy lỗi lầm đã có biện pháp ngay, vì óc cầu toàn đòi hỏi và đốt giai đoạn, coi ứng sinh như đã đạt tới trình độ cao của người đã tu tập thành đạt. Hoặc khá hơn, nhà đào tạo thiếu cảm thông sẽ chờ đợi lỗi lầm trở nên rõ ràng để có biện pháp, nhất là khi người có lỗi che đậy, giấu giếm vì một lý do nào đó.
Do thái độ ngoan cố, ngang bướng và thiếu tinh thần phục thiện của ứng sinh lầm lỗi, nhà đào tạo thiếu cảm thông thường âm thầm theo dõi hoặc tệ hại hơn là cho người theo dõi, có khi còn “gài bẩy” cho mắc phải để đương sự không thể cãi lại, chữa mình hay chối cãi được nữa. Thật ra nhà đào tạo nên tìm một lối khác, chứ loại chiến thắng này không đem lại lợi ích cho ai cả. Người chiến bại chẳng còn gì, mà kẻ chiến thắng cũng chỉ chiến thắng trên một đỗ vỡ tan nát. Người thiệt hại nhất là Hội dòng, Giáo Hội và chính Chúa vì mất đi một ơn gọi; trong khi kẻ hưởng lợi nhất là Satan và những kẻ nghịch thù cùng Hội Thánh!
Nhà đào tạo khéo léo sử dụng kỹ thuật chỉ bảo huynh đệ “feed-back”, áp dụng vào đào tạo và tự đào tạo, cả về chiều dọc lẫn chiều ngang: Người và ta, trên và dưới cảm thông nhau, gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp. Tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, với ơn Chúa và sự cố gắng của mỗi người.
    1. Cảm thông với Giáo Hội


Cảm thông cùng với Giáo Hội (Sentire cum Ecclesia) là công thức định hướng rất đẹp của Vatican II. Nhà đào tạo cảm thông với các lãnh đạo Dòng và sứ mệnh của Dòng trong nỗ lực chuẩn bị nhân sự tương lai cho Dòng; đồng thời cũng cảm thông với các người thụ huấn của mình. Có thể nói, nhà đào tạo là cầu nối hiện tại với tương lai, trên và dưới, làm vừa lòng trên nhưng cũng làm vui lòng dưới, thì công cuộc đào tạo của mình mới đạt được kết quả.

    1. Khen thưởng và thúc đẩy


Đọc Lc 10,25-37, chúng ta gặp thấy cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và một thầy thông luật về giới răn trọng nhất mến Chúa yêu người và người Samaritanô tốt lành. Chúa Giêsu đã khen ông và thúc đẩy ông thực hành để được sống đời đời: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”… “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,28.37). Nhà đào tạo lão luyện hạn chế lời chê và rộng rãi lời khen để thúc đẩy ứng sinh cố gắng sửa tật xấu và luyện nhân đức. Lời chê làm suy yếu, nhưng lời khen thêm nghị lực và phấn chấn tinh thần.
Tóm lại, nhà đào tạo tốt phải theo sát mẫu gương Chúa Giêsu, thực hiện cho thụ huấn sinh của mình như Chúa Giêsu đã làm. Nếu nhà đào tạo làm được như vậy, công cuộc đào tạo sẽ thành công mỹ mãn, tương lai của Hội dòng, của Giáo Hội và Nhân Loại sẽ tốt đẹp hơn.   


Bài đọc thêm:

Ý CHÚA TRÊN CUỘC ĐỜI TA

Thiên Chúa đặt hai mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau!


Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía, hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai!
Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng và một cái lưỡi mềm mại, vì Ngài muốn chúng ta nói ít, nghe nhiều và chỉ nói những lời khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều hơn nghe và nói những lời sâu hiểm làm tổn thương người khác!
Ngài đặt bộ não chúng ta trong một hộp sọ vững chãi, vì Ngài muốn chúng ta nên tích lũy tri thức, những thứ chẳng ai có thể lấy đi, chứ không phải chỉ chăm lo tích lũy những của cải bên ngoài, những thứ dễ dàng bị mất mát!
Ngài đặt trái tim chúng ta nằm trong lồng ngực, vì Ngài muốn những tình cảm yêu thương giữa những con người phải được xuất phát và lưu giữ tận nơi sâu thẳm trong cõi lòng, chứ không phải ở một nơi hời hợt bên ngoài!
Thử nghĩ mà xem: Thiên Chúa cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý, nhưng sao chúng ta lại không sử dụng nó theo đúng ý của Ngài?

Ba

MÔI TRƯỜNG VÀ TÁC NHÂN ĐÀO TẠO


Mỗi sinh vật đều có một môi trường sống thích hợp. Con người cần một môi trường để hình thành và tồn tại trong cái “trở thành” của mình. Ưu tiên đó là môi trường đào tạo. Môi trường đào tạo là một cộng đồng liên nhân vị sống cùng, sống với, sống cho nhau và cho người khác. Môi trường này bao gồm:
    1. Cộng đoàn giáo dục


Tất cả các nhà đào tạo và những người thụ huấn làm nên một cộng đoàn có tính cách đào tạo và có khả năng đào tạo nên những con người đích thực, ở đây nhắm đến tu sĩ/môn đệ của Chúa, gọi là cộng đoàn giáo dục. Cộng đoàn giáo dục phải luôn được định hướng vào Phúc Âm và giáo huấn của Giáo Hội, được diễn tả ra nơi Hiến Pháp, Nội Qui và Luật Sống chiếu theo đặc sủng và linh đạo của vị sáng lập mà Dòng đã kế thừa (quá khứ), đang bổ sung và kiện toàn qua dòng thời gian do các nhu cầu tông đồ đề xướng (hiện tại), cũng như sẽ bổ sung và thích nghi sao cho phù hợp với nhu cầu tông đồ của thời đại mới, mà vẫn giữ căn tính của Dòng mình (tương lai).
Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II khẳng định: “Các Hội dòng được mời gọi hãy can đảm tìm lại tinh thần xông xáo dám nghĩ dám làm, óc sáng tạo và sự thánh thiện của các đấng sáng lập, để đáp trả những ‘thời điểm’ đang xuất hiện trong thế giới ngày nay. Lời mời gọi này tiên vàn nhắm đến việc kiên trì trên đường nên thánh, giữa những khó khăn vật chất và tinh thần gặp phải trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đó cũng là lời mời gọi hãy thủ đắc cho được một khả năng chuyên môn trong việc làm và trung thành năng động trong sứ mệnh của mình, bằng cách biết thích nghi các hình thái, khi cần, với những hoàn cảnh mới và những nhu cầu khác nhau, trong thái độ hoàn toàn tuân phục sự soi sáng của Thiên Chúa và sự biện phân của Giáo Hội... Phải xác tín vững chắc rằng việc cố gắng ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô hơn là điều kiện đích thực của mọi cuộc canh tân trung thành với linh ứng nguyên thủy của mỗi Hội dòng. Trong tinh thần này, mọi Hội dòng phải canh tân lối nhìn về luật dòng, vì một lộ trình đã được phác họa trong luật dòng và Hiến chương để thực hiện việc đi theo Chúa Kitô, tương ứng với đặc sủng riêng đã được Giáo Hội chuẩn nhận. Càng trân trọng luật dòng, người tận hiến càng có những tiêu chuẩn chắc chắn để tìm ra những phương thức thích đáng cho sứ vụ đáp ứng những đòi hỏi của thời đại mà không xa rời linh ứng nguyên thủy”139.
Cộng đoàn giáo dục loại trừ sợ hãi, chan hòa bầu khí bình an và an toàn, kiên định và bền vững, thích hợp cho việc phát triển toàn diện nhân bản và thiêng liêng, qua việc chỉ bảo lẫn nhau, chấp nhận nhau, ý thức về lợi ích và niềm vui chung trong việc tìm kiếm và phục vụ Chúa.
Cộng đoàn giáo dục thể hiện trách nhiệm tập thể giữa các nhà đào tạo trong việc đào tạo ứng sinh, và ứng sinh được mời đảm nhận trách nhiệm hàng đầu tự đào tạo chính mình, đồng thời cộng tác vào việc đào tạo các bạn đồng môn.
Cộng đoàn giáo dục này cũng phải mở ra với các cơ cấu khác của Giáo Hội Địa phương, để đào tạo ý thức tông đồ, giúp ứng sinh khám phá ra tính cấp bách của việc loan báo Tin Mừng, ý nghĩa và những đòi hỏi của cuộc đời trọn vẹn hiến dâng phục vụ Nước Chúa. 
    1. Đội ngũ đào tạo hiệp nhất


Trách nhiệm tập thể của các nhà đào tạo đóng vai trò tiên quyết trong việc đào tạo, nên phải có một đội ngũ hiệp nhất các nhà đào tạo, sẵn sàng cộng tác huynh đệ, đồng trách nhiệm, chia sẻ đời sống và đối thoại chân thành. Chính sự hiệp nhất của các nhà đào tạo với Chúa Kitô là nền tảng, khuôn mẫu và keo sơn cho sự hiệp nhất tinh thần và hành động giữa họ với nhau.

Mỗi nhà đào tạo chỉ đóng một phần vai trò trong việc đào tạo. Chính công việc của cộng đoàn giáo dục và đội ngũ hợp nhất các nhà đào tạo mới có tính cách đào tạo toàn diện. Các nhà đào tạo tìm được sự nâng đỡ không thể thiếu từ anh chị em đồng nghiệp. Không có tình liên đới này, sứ vụ sẽ trở nên nặng nề và mất đi hiệu năng. Tính tập đoàn (collégialité) vừa nâng đỡ trách nhiệm tập thể của các nhà đào tạo vừa tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” gây thiệt hại cho các ứng sinh, nhờ có sự thống nhất bàn bạc, cân nhắc và lấy biểu quyết bằng phiếu kín của mọi thành viên, chứ không do một cá nhân mạnh thế nào áp đặt.

Tính tập đoàn và đồng trách nhiệm của các nhà đào tạo còn là gương mẫu và động lực đào tạo cho các ứng sinh có ý thức cộng đồng, biết quan tâm đến người khác, biết hợp tác với người khác làm việc chung, biết nhượng bộ ý kiến chủ quan hạn chế của mình cho ý kiến khách quan đúng của tập thể vì lợi ích chung.

    1. Vai trò rất quan trọng của Bề trên


Trong Hội dòng có nhiều cấp độ và giai đoạn đào tạo (Đệ tử, Nhà Thử, Nhà Tập, Khấn Tạm, Vĩnh Khấn, Mục vụ giáo xứ, Thường huấn). Mỗi giai đoạn có một ban đào tạo và người đứng đầu riêng, làm việc theo nguyên lý bỗ trợ. Cần có một người đứng đầu tất cả các ban đào tạo nầy để duy trì một thể đào tạo thống nhất và tiệm tiến qua từng giai đoạn. Thường chúng ta có vị Cố Vấn đặc trách Đào tạo. Nhưng vai trò của Bề Trên Dòng là rất quan trọng. Bề Trên như trung tâm của Hội dòng, là mẫu mực đức tin và bác ái trong sứ vụ và đời sống dâng hiến, nhìn rõ các viễn ảnh tương lai, cập nhật cách triệt để và quen thuộc với những văn kiện của Giáo Hội liên quan tới việc đào tạo, có khả năng xây dựng, hóa giải bất đồng và điều phối một đội ngũ đào tạo hiệp nhất làm việc cho một viễn ảnh chung của Hội dòng. Bề trên phải vừa có cái tâm vừa có cái tầm để làm cho những trăn trở của mình được sự cộng hưởng của mọi thành viên làm thành động lực mạnh tiến về phía trước. Bề Trên phải vô tư, không thiên vị và có thể đưa ra những quyết định đúng đắn và công bằng. Là người nắm quyết định cao nhất và cuối cùng trong việc lượng định và bỏ phiếu, Bề trên cần can đảm và thận trọng trong việc gọi tuyên khấn, nhấn mạnh đến chất lượng hơn số lượng. Một Bề trên thực sự có tâm hồn đào tạo là một phúc lành lớn cho Hội dòng hay ngược lại.
    1. Bản thân nhà đào tạo


Các ứng sinh sẽ bắt chước hạnh kiểm và noi theo lời dạy của các nhà đào tạo: họ chịu ảnh hưởng những gì họ đã thấy và đã nghe từ các nhà đào tạo. Nhà đào tạo tốt cần hai điều kiện rất quan trọng này: một là lòng khiêm nhường ý thức giới hạn và yếu đuối của mình để tin tưởng vào Chúa, không tự phụ với tha nhân; hai là tinh thần hài hước rộng lượng ý thức rằng ứng sinh không hoàn hảo như mình mong muốn, nhưng là những con người bất toàn đang cần được mình đào tạo.

Nhà đào tạo trung thực nhận biết các điểm mạnh điểm yếu trong cách xử sự, các thái độ, các tình cảm, các động lực và ngộ nhận cơ bản của mình. Chính nhờ kinh nghiệm bản thân mà nhà đào tạo giúp ứng sinh cách hữu hiệu. Nhà đào tạo phải phát huy nghiệp vụ đào tạo bằng cách cập nhật hóa kiến thức theo kịp với những nhu cầu hiện tại của Giáo Hội giữa một thế giới đang đổi thay nhanh chóng, đồng thời cải tiến phương pháp đào tạo trong sự trung thành với Mạc khải và Huấn quyền.



Phẩm chất của nhà đào tạo hết sức quan trọng: Người ta cần giáo sư giỏi để dạy học, nhưng lại cần hơn nhà đào tạo tốt để đào tạo con người toàn diện. Nhà đào tạo phải là con người của đời sống cầu nguyện sâu xa, khiêm tốn và khôn ngoan. Nhà đào tạo “được tuyển chọn giữa những người ưu tú, được chuẩn bị kỹ lưỡng bởi một nền giáo lý vững chắc, một kinh nghiệm mục vụ thích hợp, được huấn luyện đặc biệt về nhân bản, thiêng liêng và sư phạm.”140 Nhà đào tạo phải không ngừng tự đào tạo chính mình bằng công cuộc đào tạo ứng sinh của mình: càng sống và làm việc đào tạo, càng trở nên nhà đào tạo hơn, như chúng ta thường nghe nói “người ta trở thành thợ rèn bằng cách rèn”.
Thánh Gioan Boscô, một nhà đào tạo khéo léo và tâm huyết căn dặn các nhà đào tạo trong Dòng: “Các con đừng bao giờ quên rằng mình đang thay thế cha mẹ của lớp trẻ thân yêu này, mà cha hằng bận tâm lao nhọc, học hỏi và thực thi tác vụ. Các con phải có tấm lòng của một người cha, đừng bao giờ dùng tới biện pháp cưỡng chế hay ra hình phạt cách vô lý và không công bằng. Biết bao lần cha đã phải tâm niệm chân lý này, bực tức thì bao giờ cũng dễ hơn nhẫn nại, dọa nạt một đứa trẻ thì dễ hơn là thu phục nó; thường chúng ta dễ theo tính kiêu căng và nóng nảy mà trừng phạt những em bướng bỉnh, hơn là lấy lòng cương nghị và hiền từ mà sửa dạy và chịu đựng chúng. Khi sửa phạt, thật khó mà giữ được bình tĩnh, nhưng đó lại là điều tối cần để không ai có thể nghĩ rằng ta làm thế vì muốn thị uy hay trút cơn nóng giận.
Hãy coi các trẻ dưới quyền chúng ta như là con cái mình. Hãy dấn thân phục vụ chúng theo gương Chúa Giêsu. Ngài đã cư xử như thế với các tông đồ: Ngài chịu đựng sự dốt nát, thô kệch, kém tin của họ. Ngài đối xử thân mật và nhân hậu với tội nhân, khiến nhiều người ngạc nhiên khó chịu, nhưng biết bao nhiêu người được hy vọng vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Bởi vì trẻ em là con cái chúng ta, nên khi phải sửa trị lỗi lầm của chúng, ta phải tránh mọi sự nóng giận, hay ít ra nén lòng dập tắt nóng giận; tuyệt đối không được để cho cõi lòng sôi sục, không được có khóe nhìn khinh bỉ, không được dùng lời ăn tiếng nói hạ nhục một ai. Cứ cảm thông lúc này và hy vọng vào tương lai.
Trong những trường hợp trầm trọng, ta nên khiêm nhường nài xin Thiên Chúa, hơn là tuôn ra những lời lẽ vừa không ích lợi gì cho kẻ phạm lỗi, vừa khiến người nghe phật lòng. Hãy nhớ rằng giáo dục là công việc của tâm hồn, nơi chỉ có Thiên Chúa làm chủ, ta không thể đạt được gì nếu Chúa không dạy ta nghệ thuật và trao cho ta bí quyết giáo dục. Hãy cố gắng làm cho mình được yêu mến và vun trồng tâm tình kính sợ Chúa. Như thế, ta có thể mở được cánh cửa của bao tâm hồn và liên kết họ lại với chúng ta mà ca hát, ngợi khen và chúc tụng Đấng đã trở nên mẫu mực, đường đi và gương lành cho chúng ta trong mọi sự, đặc biệt trong việc giáo dục thanh thiếu niên”141.
    1. Chính ứng sinh và việc tự đào tạo


Việc đào tạo sẽ mất đi hiệu quả của nó, nếu nó không bao hàm sự tham gia cá nhân của ứng sinh, nghĩa là sự tự đào tạo của ứng sinh. Chính vì thế, Đức Gioan Phaolo II đã nhắc nhở rằng chính ứng sinh là nhân tố cần thiết và không thể thay thế được trong việc đào tạo của chính mình: “Tự đào tạo là tối quan trọng trong tất cả mọi công cuộc đào tạo. Không ai có thể thay thế ứng sinh trong sự tự do có trách nhiệm mà ứng sinh có được như là những nhân vị độc đáo142.
Tự đào tạo là yếu tố quyết định đưa tới thành công trong việc đào tạo, nhất là đào tạo nhân bản và thiêng liêng. Mặc dù Chúa Thánh Thần là tác nhân tuyệt hảo trong việc đào tạo này, ứng sinh phải hoàn toàn tự do đón nhận tác động định hình Ngài. Cũng thế, hoạt động của các nhà đào tạo khác nhau sẽ chỉ trở nên thực sự và đầy đủ hiệu quả, nếu ứng sinh cống hiến sự cộng tác chân thành và xác tín của mình vào công cuộc đào tạo này.
Quan niệm Á Châu “không thầy đố mầy làm nên” phải được hiểu trong một tầm cao mới là thầy phải kích thích cho được tính chủ động của trò (đó là kích biện pháp của Socrate): nếu không có sự thực hành của trò thì những giáo huấn và lý thuyết của thầy chỉ là những lời hoa mỹ thôi. Điều rất quan trọng là việc đào tạo phải cung cấp cho ứng sinh cách suy nghĩ mới, cách sống mới, cách hành động mới, cách yêu thương mới và cách làm chứng mới cho Tin Mừng. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là việc tự đào tạo này phải đem sự hiểu biết hữu ích đó ra thực hiện. Sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phía, đào tạo và tự đào tạo, là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công, và dĩ nhiên với ơn Chúa nữa. Vì thế, Pastores Dabo Vobis đòi hỏi: “Các ứng sinh... phải hết sức ý thức chuẩn bị chính mình để đón nhận ơn Chúa và đem ra thực hành, biết rằng Giáo Hội và thế giới đang rất cần đến họ143.
    1. Nhóm bạn đồng môn


Ngày xưa người ta hay nói “học thầy không tầy học bạn”. Ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều đến tính năng động tập thể. Nhà đào tạo phân chia ứng sinh thành nhiều nhóm nhỏ, tự bầu lên người trách nhiệm nhóm, nhằm thăng tiến tinh thần tập đoàn (collégialité) và đời sống cộng đoàn. Phải nhắm đến cả hai, các cá nhân và nhóm như một toàn thể, ngõ hầu bảo đảm được sự trưởng thành của cả hai, cá nhân và tập thể.
Đời sống trong nhóm gồm có những lúc cầu nguyện, gặp gỡ hàng tuần về một đề tài thuộc đời sống thiêng liêng (chia sẻ đức tin), những giờ giải trí, các hoạt động mục vụ, trách nhiệm phụng vụ và các dịch vụ hàng ngày. Sự tương tác trong những nhóm như thế giúp phát triển sự tin tưởng lẫn nhau, truyền thông và chia sẻ, góp phần xây dựng một cộng đoàn đúng nghĩa.
Nhóm nhỏ này có thể trở thành một nhóm bạn thân có thể dễ dàng thực hành việc “chỉ bảo huynh đệ”144. Thường người ta không dám sửa lỗi người khác, phần vì con người ai cũng yếu đuối và bất toàn, phần vì tế nhị hay sợ phản ứng tiêu cực từ phía người kia, hay ít nhất để tránh hiểu lầm nhau, mâu thuẫn và xung đột có thể có. Vậy, cách tốt hơn và dễ hơn là mọi người đồng ý thỏa thuận với nhau rằng nếu một người trong nhóm thấy người nào có lỗi, thì người này sẽ nói với người đó về lỗi ấy145.
Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ hàng tuần chia sẻ Phúc Âm và kiểm điểm đời sống, mỗi người có thể góp ý phản hồi cho người khác và giúp nhau tiến bộ hơn trong tiến trình được đào tạo và tự đào tạo, hy vọng tiến tới tình huynh đệ cộng đoàn đích thực (x. Tv 133, 1). Tiến trình này đòi hỏi phải có ý ngay lành, sự sẵn sàng để thay đổi, lòng can đảm, tình bác ái, và nhất là ơn Chúa.
Trong cấp độ đời sống nhóm này, mỗi người phải học biết chăm chú lắng nghe và cho người khác ý kiến phản hồi cách thích hợp. Mỗi người cũng phải học biết chấp nhận chính mình và chấp nhận người khác: càng biết nhìn nhận lỗi lầm, thiếu sót, giới hạn, yếu đuối và bất lực của mình, chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn; và khi càng biết chấp nhận những bất lợi đó của người khác, chúng ta càng trở nên độ lượng và cảm thông hơn với họ.
Đời sống nhóm giúp mỗi thành viên khám phá và phát triển những tài năng, tự nhiên cũng như đắc thủ được từ kinh nghiệm cuộc sống. Mỗi người có trách nhiệm tìm biết và phát triển những ân huệ ấy. Chẳng ai sở hữu được mọi ân huệ của Thiên Chúa, nhưng những ân huệ cần thiết cho sứ mạng luôn hiện diện trong cộng đoàn, và cộng đoàn là nơi cần thiết để nhận ra các ân huệ của mỗi thành viên (x. 1Cr 12-14).
Tuy nhiên, nhiều khi người ta phải chịu đựng những khó khăn và xung đột do ghen tị hay thèm muốn ân huệ của người khác (x. Gal 5,26). Nếu biết chú ý tới những khác biệt của tha nhân, đánh giá sự độc đáo của người khác với sự hiểu biết tích cực, coi những xung đột chỉ là một phần cần thiết trong tiến trình tôi luyện trưởng thành, thì mọi sự sẽ được giải quyết, cộng đoàn sẽ tiến triển tốt đẹp, và sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh sẽ được hiệu quả hơn (Gl 6,2).
    1. Sự thích nghi cần thiết


Nhà đào tạo phải bắc được nhịp cầu nối giữa người cũ và người mới, người già và người trẻ: Ứng sinh mới đến đôi khi khó hội nhập vào cộng đoàn, trong lúc những người đã sống ở đó thấy thế giới của mình bị xáo trộn bởi những người mới đến. Những người lớn tuổi muốn rằng người mới vào phải có tư tưởng, tình cảm, khát vọng và trông đợi như họ, mà quên đi khoảng cách văn hóa và giáo dục của các thế hệ. Do đó cần phải lắng nghe và nỗ lực cảm thông nhiều lắm để thích nghi với nhau. Nét đẹp của cuộc đời đến từ sự đổi mới không ngừng, và cuộc đời sẽ phong phú khi mọi người được từ từ biến đổi ăn nhịp với sự hiểu biết, cách làm, cách sống và cách suy tư mới mẻ của nhau.

Nhà đào tạo phải tôn trọng và đón nhận sự khác mình của ứng sinh, đồng thời phải thích nghi phương pháp đào tạo của mình, dù đôi khi khó khăn. Trong đời sống gia đình, đôi vợ chồng phải thay đổi cuộc sống khi đón nhận đứa con đầu lòng, tự điều chỉnh và thích nghi với các nhu cầu và chỗ đứng của đứa con. Với mỗi đứa con ra đời, cha mẹ và cả gia đình phải tái điều chỉnh cách xử sự. Công cuộc đào tạo cũng tương tự như thế. Người mới vào phải học biết kinh nghiệm và khôn ngoan của người đi trước bằng cách niềm nở lắng nghe, hòa nhịp cùng với bước đi của cộng đoàn và hội nhập vào cách sống đã được thiết lập và cấu trúc. Người cũ cũng không quá nại vào nề nếp để làm khó cho những người mới đến, bắt họ phải mau chóng đi vào thế giới của mình và điều chỉnh ngay theo nhịp sống và tư tưởng của mình.  


    1. Cách thực thi trách nhiệm đào tạo


Nhà đào tạo không nhất thiết phải hoàn hảo hay là thánh, nhưng phải là chứng tá một đời sống tu trì trung thực, theo đúng đặc sủng và linh đạo của Dòng. Tính trung thực làm nên sự thành công của nhà đào tạo. Các người trẻ sẽ nhạy cảm đối với gương sáng của một nhà đào tạo khiêm tốn và chân thực.

Các ứng sinh sẽ rất tín nhiệm uy quyền của các nhà đào tạo được thực hiện hài hòa theo nguyên tắc căn bản này: Trách nhiệm đòi phải có quyền bính tương ứng và phải luôn theo nguyên lý bổ trợ, chứ không qua mặt các cấp độ trách nhiệm, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, ứng sinh không biết phải theo ai.

Cần có sự trao đổi thống nhất đường lối và hành động: Bề trên không bao giờ bỏ qua người có trách nhiệm đào tạo để trực tiếp điều chỉnh các người dưới quyền của người đó, và người trách nhiệm cấp dưới không làm điều gì quan trọng mà không thông qua ý kiến và sự chấp thuận của cấp trên. 

Nhà đào tạo không thể chuyên môn trong mọi sự, nhưng phải luôn giữ trách nhiệm đồng hành cho từng cá nhân ứng sinh. Cần phải xây dựng tương quan hợp tác giữa các giáo sư và nhà đào tạo, vì việc đào tạo là một toàn thể và các môn học phải góp phần vào việc đào tạo toàn diện, nhân bản và thiêng liêng, tri thức và tông đồ cho ứng sinh.


    1. Tương quan đồng hành đào tạo


Trong việc đồng hành đào tạo, tiến trình giáo dục phải đi trước. Giáo dục là giúp ứng sinh nhận diện cái tôi sâu thẳm của mình để rồi khai thông và biến cái tôi hiện tại thành cái tôi phải trở thành. Nếu không hiểu được chính mình, khám phá ra các động cơ còn nằm trong tiềm thức và nhận ra các phân mảnh của mình để biến đổi, thì không thể nào đạt được sự trưởng thành và thống nhất nội tâm.

Nhà đào tạo phải cố gắng đi vào khoảng không gian kín ẩn của từng ứng sinh, hiểu rõ các ước muốn tốt cũng như những tổn thương sâu xa thường được che giấu của họ, giúp họ hiểu biết chính mình và tin tưởng để ân sủng Chúa tác động, thì họ mới tiến bộ thực sự được. Nếu không làm như thế thì sự tiến bộ đó chỉ có bề ngoài. Nội dung đào tạo sẽ không bén rễ sâu trong ứng sinh, và kết quả đào tạo sẽ chỉ biểu hiện trên cách ứng xử của đương sự trong một thời gian nào đó mà không kết hợp được với các động lực sâu xa của họ (giả dại qua ải, nín thở qua sông). 

Việc thiếu hụt các nhà đào tạo có chất lượng đồng hành trọn thời gian, ảnh hưởng không chỉ đào tạo tri thức, mà cả đào tạo nhân bản và thiêng liêng: nếu nhà đào tạo không có cả thời gian và nghị lực để lắng nghe, thấu hiểu và cảm thông, thì sẽ không cung cấp được sự đào tạo hữu hiệu cho ứng sinh, và các ứng sinh cũng sẽ bị tước mất nhu cầu chia sẻ và trình bày những vấn đề thực tế phức tạp của họ.

Điều đáng ao ước là có nhà đào tạo thích hợp cho từng giai đoạn huấn luyện, các ứng sinh sẽ được đào tạo tốt hơn trong từng giai đoạn liên hệ. Mỗi giai đoạn phải nhằm một mục tiêu đặc biệt, chẳng hạn giai đoạn Nhà Tập phải là thời gian trong đó đời sống thiêng liêng vượt trổi hơn đời sống tông đồ (x.GL 652,5), đang khi đó những đòi hỏi mục vụ tại các sở làm tổn thương đời sống thiêng liêng của tập sinh còn non trẻ. Nhưng tất cả các giai đoạn phải nằm trong một tổng thể nhất quán và liên tục.

Nhà đào tạo cần gần gũi, nhưng nên tránh tình trạng “quen quá hóa nhờn”, nghĩa là phải có một mức độ thân mật đủ để trao đổi hầu ứng sinh biết mình và cái mình phải “trở thành.” Một liên hệ quá quen thuộc nhàm lờn liều mình tạo nên một sự thông đồng cản trở những tương quan lành mạnh. Những xung đột liên nhân vị có thể dễ dàng sản sinh ra những mối ác cảm rất mạnh và nguy hiểm, có thể trở nên không chịu nổi cho người này lẫn người kia.

Lòng khiêm tốn của nhà đào tạo mở ra với đối thoại và cảm thông. Sự khác biệt tâm thức giữa các thế hệ có thể sẽ ảnh hưởng đến tính đáng tin cậy của nhà đào tạo đối với những ai được giao phó cho họ. Đừng để những điều đáng tiếc đi vào tiềm thức và ở lại mãi trong lãnh vực không nói lên lời đó, hầu tránh những nỗi thất vọng không lường trước được.  


    1. Việc linh hướng


Không ai đi một mình trên con đường thiêng liêng. Ngoài việc đồng hành như chúng ta thường hiểu và thực hành để giúp ứng sinh khám phá ra ý Chúa và đi theo, còn có một mức độ sâu xa và bí mật liên hệ tới tòa trong, đó là việc linh hướng không thể thiếu trong tiến trình đào tạo. Nhưng chính Chúa Thánh Thần mới là vị linh hướng đích thực, vị linh hướng là dụng cụ của Chúa Thánh Thần; Ngài dẫn dắt mỗi người theo một đường lối độc đáo, cả vị linh hướng lẫn người thụ hướng đều phải tìm khám phá và điều chỉnh cuộc đời người thụ hướng theo đúng con đường đó của Chúa Thánh Thần.

Vị linh hướng phải khơi dậy lòng tín nhiệm nơi người thụ hướng bởi thái độ sẵn sàng, cởi mở, đón tiếp và chân thành, đồng thời nuôi dưỡng tinh thần tin cậy nhờ sự cẩn mật của mình. Có thế thì người thụ hướng mới có thể tự do nói hết những trăn trở riêng tư, những bí mật của cuộc đời mình, đặc biệt trong lãnh vực giới tính. Có những ứng sinh than phiền “muốn nói hết tầng sâu của đời mình mà không có cơ hội để nói lên được”.

Vì việc linh hướng thuộc về tòa trong, nên khi hội đồng đánh giá ứng sinh (tòa ngoài), vị linh hướng không bao giờ được lên tiếng, dù để bảo vệ hay để kết án người thụ hướng của mình. Sự bảo mật này nhằm bảo đảm tự do nội tâm của ứng sinh trong việc biện phân và quyết định chọn lựa ơn gọi. Nhưng nhờ nghe trong hội đồng những nhận xét khác nhận xét của mình, vị linh hướng có thêm được thông tin về những yếu tố khác, nhờ đó mà phân định được tốt hơn, đồng thời chọn lựa sự giúp đỡ thích hợp và hữu hiệu hơn cho người thụ hướng của mình.

Quyết định dứt khoát ở tòa trong ăn khớp với lương tâm ứng sinh: tự mình đối diện, trắc nghiệm bản thân, lượng lấy sức và tự mình chủ động giải quyết trước mặt Chúa. Do đó vị linh hướng dự phần trong việc đào tạo lương tâm trưởng thành của ứng sinh. Nhưng vị linh hướng không chỉ thụ động lắng nghe, song phải có khả năng thách đố và đối đầu, khi sự việc đòi hỏi, để giúp ứng sinh trải qua một tiến trình phân định ơn gọi đích thực, như Chúa và Giáo Hội mong muốn. Những người sắp có một bước ngoặc trong cuộc đời hoặc sắp phải quyết định những chọn lựa lớn lại càng cần việc linh hướng hơn. Phải cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn để gặp được vị linh hướng thích hợp: Mẹ Thánh Têrêxa Avila đã có kinh nghiệm với rất nhiều vị trước khi tìm được một người hợp với mình nhất, nên đừng mong sẽ gặp ngay người hợp với mình từ lần đầu tiên (một người bề ngoài có vẻ bình thường nhưng lại hợp, song một người có vẻ giỏi lại không hiểu tâm hồn mình). Thánh I-Nhã nhấn mạnh đến xúc cảm của lòng mình, vì đây là nơi mà Chúa Thánh Thần lên tiếng. Sức mạnh của việc linh hướng là phối hợp được lý tính với điều huyền bí, hai khía cạnh bổ túc cho nhau để nhận định được con đường nào thích hợp với mình.



Việc linh hướng và phân định thiêng liêng rất tế nhị và khó khăn. Nó bao gồm mọi chiều kích của cuộc đời ứng sinh: nhân bản và thiêng liêng, tự nhiên và siêu nhiên. Vì thế vị linh hướng phải cập nhật các kỹ năng linh hướng, những hiểu biết về tâm sinh lý, khả năng tư vấn, biết vận dụng các khám phá hữu ích của tâm lý học, y học và xã hội học hiện đại. Các trao đổi với đồng nghiệp, cũng như những khóa học huấn luyện các vị mới và cập nhật cho các vị cũ, sẽ liên tục gia tăng khả năng của vị linh hướng, mà ngày nay có thể là linh mục, nam nữ tu sĩ và cả giáo dân (họ cũng có những chỉ dẫn thiêng liêng rất tốt, với mức độ nhạy bén và đồng cảm rất đáng nễ), miễn là được Chúa Thánh Thần kêu gọi, thẩm quyền Giáo Hội trạch cử và được đào tạo thích đáng, vì đây là việc của Chúa, và chỉ có Chúa biết đầy đủ một con người và biến đổi tận gốc con người đó.  
    1. Đồng hành Mục vụ


Chúng ta có thể kết thúc tiến trình đào tạo qua các giai đoạn rồi sai con em của chúng ta ra đi vào các môi trường mục vụ đa dạng, nhưng phải tiếp tục đồng hành mục vụ với họ, không thể “đem con bỏ chợ” được. Chúng ta cần mở rộng việc đồng hành với con em của chúng ta bằng việc tương trợ tinh thần, thăm viếng động viên, góp ý chỉ bảo và tiếp tục đào tạo họ. Các Bề Trên Dòng và các chị giáo được phân phối đến thăm các con em mình tại môi trường mục vụ để nâng đỡ, thúc đẩy, phối hợp và điều chỉnh cái học lý thuyết trong Dòng và cái thực tiễn trong sứ vụ mục vụ giáo xứ. Đây cũng là dịp tế nhị tiếp tục đào tạo các phụ trách cộng đoàn.
    1. Bề trên sở


Trong lãnh vực cơ cấu, bề trên sở là người thay mặt Bề trên Dòng trong việc chăm lo cho chị em về đời sống vật chất cũng như thiêng liêng, về sứ vụ mục vụ cũng như đào tạo thăng tiến bản thân bằng việc triệt để sống ba lời khấn. Như thế vị bề trên sở góp phần hay gây trở ngại cho công cuộc đào tạo ứng sinh, nên chúng ta cần chọn người và chọn nơi để gửi thụ huấn sinh đến. Phải thú nhận rằng nhiều khi chúng ta chưa chọn lựa và chuẩn bị đủ cho các bề trên sở: một số lớn tuổi nệ cổ, bị tụt hậu (arriéré) và bị vượt quá (dépassé), nên ỷ vào quyền bính mà đe dọa và dùng biện pháp, đang khi một số khác trẻ quá chưa đủ kinh nghiệm và chín chắn, cá đối bằng đầu, tranh cãi không ai nghe ai. Cám ơn Chúa, một số làm rất tốt, nhưng cũng do một số mà nảy sinh bao nhiêu vấn đề phức tạp, gây nên đau khổ và khủng hoảng ơn gọi, chúng ta không ngờ, vì ai cũng chỉ nói hay cho mình, mà chúng ta thường có khuynh hướng dễ nghe theo kẻ có trách nhiệm (bề trên sở) chúng ta đã cắt đặt lên hơn (dù che cái cán), họ khéo “đội trên” nhưng mạnh chân “đạp dưới”, thậm chí “lừa thầy phản bạn” bằng cả “quà cáp”. Ngoài việc lắng nghe riêng cả hai phía rồi gặp chung để phân định giải quyết dịp kinh lý, có khi chúng ta cũng nên dành thời gian ở lại sở, khôn ngoan và tế nhị tìm dịp lắng nghe cha xứ và giáo dân trong xứ để có những nhận định khách quan và công bằng ai đúng ai sai hơn.
Cũng nên có những sinh hoạt giao lưu liên sở hay vùng miền để các em có cơ hội tâm sự giải tỏa, còn các chị lớn tuổi và hưu trí vốn có rất nhiều kinh nghiệm mục vụ giáo xứ cũng như những từng trải trường đời chia sẻ, hướng dẫn, cảnh báo, đào tạo và nâng đỡ đàn em, không những khi đàn em tới chỗ mình, mà cả khi mình đến thăm chị em tại sở của họ, những kinh nghiệm thực tiễn tích cực lẫn tiêu cực đó là những bài học qúy báu trong công cuộc đào tạo và tự đào tạo của đàn em.

Chúng ta cũng cần lưu ý đặc biệt các chị em gặp thử thách, đau ốm bệnh hoạn, nhất là các chị già hưu dưỡng và bệnh tật hầu tránh cho họ cảnh thiếu thốn, cô đơn và hụt hẫng… để chuỗi ngày cuối đời của các chị được bình an, nhẹ nhàng thanh thản ra đi về với Chúa.



Kết luận

Nói về đào tạo, nhất là ở đây lại nói về đào tạo các nhà đào tạo nữa thì không thể nào thấu tình đạt lý hết được. Tôi xin hết lòng cám ơn toàn thể chị em đã chịu khó nghe, và thành thật xin lỗi chị em vì có khi phải nghe cả những điều khó chịu nữa.

Tôi xin được kết thúc với mấy tư tưởng này: Nhà đào tạo tầm thường thì thích nói, nhà đào tạo tốt thì giải thích, nhà đào tạo giỏi thì chứng minh, và nhà đào tạo khéo léo thì gợi hứng”. Các vị đại thánh thường đủ khiêm tốn để nhìn nhận mình là kẻ có tội. Chúng ta nhìn nhận mình không hoàn hảo và không ảo tưởng chờ đợi các bảo đảm của việc đào tạo của mình, mà hoàn toàn ký thác cho Chúa. Không thể thấy trước được những gì sẽ xảy ra trong đời một con người về lâu về dài. Lòng khiêm tốn sẽ giúp chúng ta tìm đến với khôn ngoan và quyền năng của ơn Chúa. 

Thánh Gioan Boscô căn dặn: “Hãy nhớ rằng giáo dục là công việc của tâm hồn, nơi chỉ có Thiên Chúa làm chủ, ta không thể đạt được gì nếu Chúa không dạy ta nghệ thuật và trao cho ta bí quyết giáo dục. Hãy cố gắng làm cho mình được yêu mến và vun trồng tâm tình kính sợ Chúa. Như thế, ta có thể mở được cánh cửa của bao tâm hồn và liên kết họ lại với chúng ta mà ca hát, ngợi khen và chúc tụng Đấng đã trở nên mẫu mực, đường đi và gương lành cho chúng ta trong mọi sự, đặc biệt trong việc giáo dục thanh thiếu niên”.

Hãy thực thi lòng nhân hậu và để Chúa Thánh Thần làm phần còn lại. Như thế chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn, tự tin hơn, và có thể làm công việc đào tạo tốt hơn. Hãy để ân sủng Chúa làm việc trong chúng ta, dẫn dắt chúng ta, và hãy tin tưởng vào Chúa và tha nhân. Và nếu chúng ta có cảm thấy mình nhiều khuyết điểm, cũng hãy tạ ơn Chúa. Có lẽ điều đó sẽ giúp chúng ta trở nên nhà đào tạo khéo léo và tâm huyết. Cái quan trọng chính là tấm lòng của chúng ta: Ai không yêu thương thật sự, không thể làm nghề đào tạo được, chúng ta sẽ khổ và làm cho các người chúng ta đào tạo cũng phải khổ nữa.

Chúng ta có thể nói rằng làm nhà đào tạo là một ơn gọi và một ân sủng. Chúng ta cho bao nhiêu thì chúng ta nhận bấy nhiêu, càng cho đi chúng ta càng nhận lãnh. Đón tiếp và đào tạo người trẻ hôm nay là một cơ may để chúng ta đáp lại lời mời gọi đặc biệt của Chúa Giêsu; đồng thời chúng ta cũng không phụ lòng hay làm thất vọng những trông đợi mà Giáo Hội, Hội dòng và Thế giới kỳ vọng nơi các nhà đào tạo. Đó là ước mong tha thiết nhất của NHÀ ĐÀO TẠO TÂM HUYẾT HÔM NAY.

Kỷ niệm Năm Thánh Lòng Thương Xót 2016 Linh mục Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS




1 X. Pastores Dabo Vobis số 43.

2 Được tổ chức năm 2007 tại Đồng Nai - Trích Tin Việt Nam ngày 7/8/2008.

3 * Chúng ta biết việc quan hệ tình dục trước khi kết hôn là hành vi xúc phạm tới giới răn thứ sáu, là tội gian dâm. Tội này trái nghịch cách nghiêm trọng với nhân phẩm và tính dục của con người. Ngoài ra, nó còn liên quan tới một người khác nữa và cũng có thể là một gương xấu công khai nghiêm trọng khi làm băng hoại giới trẻ (xem GLCG 2353).

4 Quan điểm của HĐGMVN làm tại Xuân Lộc ngày 25/9/2008 về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay, I, 2&3.

5 Bộ Tu Sĩ, Huấn thị Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các Dòng, 2/2/1990 số 88-89.

6 Bộ Giáo Sĩ, Kim Chỉ Nam về tác vụ và đời sống linh mục, số 93.

7 Chỉ dẫn mới đề cao căn tính linh mục giáo xứ, số 11.

8 X. Sắc Lệnh Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục , số 14.

9 Trích bài giảng lễ Chúa Kitô Vua, kết thúc Năm Đức Tin, của ĐTC Phanxicô http://www.vietcatholic.net/News/Html/119233.htm.

10 Từ Điển Công Giáo 500 mục từ tr. 256.

11 Optatam Totius số 11.

12 Từ Điển Công Giáo 500 mục từ tr. 66.

13 Từ Điển Công Giáo 500 mục từ tr. 65-66.

14 ĐTC Phanxicô nói tại Hội nghị Quốc gia lần thứ V của Giáo Hội Italia, theo news.va.

15 Từ Điển Công Giáo 500 mục từ tr. 256.

16 Trích Sắc Lệnh về Giáo Dục Kitô Giáo (Gravissimum Educationis), Khóa VII Ngày 28/10/1965.

17 Thánh Âu Tinh; GLHTCG, b. 2.

18 X. Mc 12, 28-34.

19 Ga 13, 34-35.

20 Lc 9,59-62.

21 x. Ga 16, 13.

22 Tv 33.

23 x. 2 Cr 12, 2-10.

24 Tông thư Cánh Cửa Đức Tin, số 10.

25 Lc 16, 10.

26 1 Cr 10, 13.

27 Dt 10, 23-24.

28 ĐTC Phanxicô đã nói khi dâng hiến thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria ngày 13/10/2013 - theo Radio Vatican.


29 Trích diễn từ của ĐTC Phanxicô trong cuộc tiếp kiến ngày 8/5/2013 với Hiệp Hội Quốc Tế các Bề Trên Tổng Quyền Dòng Nữ.

30 Jean-Marie Guénois viết trong Le Figaro ngày 16-8-2014
Nguyễn Tùng Lâm dịch.


31 Trích diễn từ của ĐTC Phanxicô trong cuộc tiếp kiến ngày 8/5/2013 với Hiệp Hội Quốc Tế các Bề Trên Tổng Quyền Dòng Nữ.

32 Trích thư ĐTC Phanxicô viết ngày 18/8/2013 cho Hội nghị Rimini (Ý) của Phong trào Giáo Dân Hiệp Thông và Hòa Giải.

33 Phát biểu khi gặp gỡ các linh mục và tu sĩ đang học tại Rôma ngày 6/7/2013.

34 x. 1 Cr 7, 32.34.

35 x. Os 2,22.

36 Trích diễn từ của ĐTC Phanxicô trong cuộc tiếp kiến ngày 8/5/2013 với Hiệp Hội Quốc Tế các Bề Trên Tổng Quyền Dòng Nữ.

37 2 Cr 11, 29.

38 2 Cr 11,29; 1 Cr 10,12.

39 ĐTC Phanxicô nói khi gặp các tu sĩ trong cuộc thăm viếng mục vụ Hàn Quốc.

40 Trích chia sẻ của ĐTC Phanxicô với giới trẻ Sardinia trong chuyến Viếng Thăm Mục Vụ Cagliari Chủ Nhật 22 /9/2013.

41 Biên tập lời phát biểu của ĐTC Phanxicô trong cuộc viếng thăm Assidi và Dòng chị em khó nghèo Thánh Clara ngày 10/4/2013.

42 LẦM LỖI LÀ CHUYỆN THƯỜNG - Tổng thống George Washington là vị tổng thống đầu tiên của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Con người đã có công đưa nước Mỹ đến độc lập, tự do và phồn thịnh ấy nổi tiếng là người nóng nảy, nhưng luôn biết phục thiện và yêu sự thanh liêm. Ngay từ lúc thiếu thời, ông đã tỏ ra là người đơn thành và sẵn sàng nhận lỗi của mình...Ngày kia, cậu bé George Washington được trao cho một con dao để ra vườn làm cỏ. Trong vườn có một cây anh đào nhỏ mà cha mẹ cậu rất quý. Chưa phân biệt được thế nào là cỏ dại thế nào là cây trái, cậu đã chặt đứt cây anh đào vô cùng quý giá của cha mẹ mình. Cha của George Washington đau lòng nhìn thấy cây anh đào đổ xuống mặt đất. Ông đã thoáng nghi George là thủ phạm, nên mới hỏi cậu: "Con có biết ai là người đốn hạ cây anh đào không? Cha không muốn thấy điều đó lập lại một lần nữa...". George Washington suy nghĩ một lúc và trả lời: "Chính con là người đã đốn cây anh đào. Cha cứ phạt con đi". Và George Washington ngạc nhiên vô cùng khi nghe cha cậu trả lời: "Ðiều con vừa làm là một điều sai trái. Nhưng con đã chữa được điều sai trái đó khi dám nói lên sự thật. Cha đánh giá lòng can đảm và sự thành thật của con cao hơn là trăm nghìn những cây đẹp như thế...".- Anh chị em thân mến, đã mang thân phận con người, lầm lỗi là chuyện bình thường. Nhưng điều quan trọng là chúng ta biết nhận lỗi và sửa lỗi. Chúng ta được mời gọi nhìn nhận những lầm lỗi thiếu sót để trở về với Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết thường xuyên khiêm tốn nhìn nhận còn người hèn yếu của mình để trở về với Chúa. Theo Internet

43 Trích bài giáo huấn của thánh Syrilo, GM Gierusalem, bài đọc 2 Kinh Sách thứ Bảy tuần XIII TN.

44 Trong các kỳ giúp tĩnh tâm năm, tôi luôn tổ chức Nghi Thức Xin Lỗi – Tha Thứ - Chữa Lành.

45 Mc 10,14; 6,35; 1,41; Lc 7,11; Ga 11,35.

46 Mc 10,46; 5,30; Lc 21,2.

47 Mt 14,23; 26,36.42.44;27,46; Mc 6,46; 14,32; Lc 6,12; 9,18.28; 10,21; 11,1; 23,46.

48 Lc 17,10; Mc 10,45; Mt 20,28.

49 ĐTC Phanxicô nói với các vị lãnh đạo các tôn giáo tại Hàn Quốc trong chuyến viếng thăm mục vụ 14-18/8/2014 của ngài.

50 Lc 8,5-8.

51 Lc 8, 11-15.

52 x. Rm 12,3-8.

53 Homo homini lupus, soror sorori lupior, sacerdos sacerdoti lupissimus.

54 Ep 2, 21-22.

55 Ep 5,25b-27.

56 Trích tác phẩm của anh Tô-ma Xê-la-nô – Bài đọc 2 kinh Sách Lễ ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A NỮ VƯƠNG CÁC THIÊN THẦN Ở POÓC-XI-UN-CU-LA Thứ bảy Tuần XVII TN.

57 ĐTC Phanxicô nói với Hàng Giáo Phẩm Đại Hàn trong chuyến tông du 14-18/8/2014.

58 Ep 5,25b-27.

59 Ga 3, 27.

60 1Cr 4,7.

61 Ga 1,16.

62 Mt 10,8.

63 1 Pr. 4,10-11.

64 Rm 12, 6-8.

65 Lc 12, 42-48.

66 1 Cr. 13, 8-11.

67 Rm 12, 9-12.

68 Gc 1,2-3.

69 1 Cr 15,10.


70 Evangelii Gaudium, 6.

71 Tv 102, 14.

72 Xin xem Huấn thị Phục vụ Quyền bính và Vâng lời của Bộ Tu sĩ năm 2008.

73 2 Cr. 5, 17.

74 Cl 3,12-14.

75 Eph 4, 22-24.

76 ĐTC Phanxicô nói trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 25/6/2014.

77 Tv 55,13-15.

78 Tv 55,21-22.

79 Tv 41,7,10.

80 Hc 6, 5-17.

81 ĐTC Phanxicô phát biểu với các chủng sinh và tập sinh tham dự Đại Hội Đời Sống Thánh Hiến tại Rôma ngày 6/7/2013.

82 Cl 3, 12-13.

83 1 Tx 3, 12-13.

84 Rm 12,14-16a.

85 2 Tx 3,10b-13.

86 Lời cầu kinh Sáng thứ bảy tuần XIV TN.

87 1 Pr 3, 8-9.

88 ĐTC Phanxicô nói với Đại Hội lần 82 của Liên Hiệp Bề trên Tổng quyền tại Rơma ngày 27-29/11/2013 http://www.hdgmvietnam.org/tiep-cac-be-tren-tong-quyen-duc-thanh-cha-thong-bao-nam-2015-la-%E2%80%9Cnam-doi-song-thanh-hien%E2%80%9D/5605.57.7.aspx

89 x. Mt.18, 15-20.

90 Lc 7, 40.

91 ĐTC Phanxicô phát biểu với các chủng sinh và tập sinh tham dự Đại Hội Đời Sống Thánh Hiến tại Rôma ngày 6/7/2013.

92 http://www.vietcatholic.net/News/Html/113268.htm

93 Lời nguyện tín hữu CN 23 A.

94 “Thế mới là tình bằng hữu chân thật, hoàn hảo, vững bền và vĩnh viễn: ghen tương không thể hủy hoại, nghi ngờ không làm suy giảm, tham vọng không hề phá tan. Bị thử thách đến vậy mà vẫn không nao núng, bị xô đẩy đến thế mà vẫn không ngã quỵ, bị nguyền rủa thế nào cũng không lay, bị lăng mạ ra sao cũng không chuyển.” (x. 1 Sm 19,8-10; 20,1-17; bài đọc Kinh sách tập 3, tr.341-342).

95 Mt 5,7.

96 1Cr 12, 25-26.

97 Mt.18, 15-17: “Nếu anh em ngươi trót phạm lỗi, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe ngươi, ngươi hãy kèm theo một/hai người nữa, để tất cả công việc được đoán định do miệng hai/ba nhân chứng. Nếu nó không màng nghe họ, hãy thưa với cộng đoàn”.

98 Lc 13, 6-9.

99 2 Sm 16, 9-12.

100 x. Lc 6,36.

101 Rm 12,15.

102 Cn 14, 31.

103 2 Cr 1, 4.

104 2 Pr 1,10-11.

105 ĐTC Phanxicô nói trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 25/6/2014.

106 Huấn thị Đời sống huynh đệ cộng đoàn, số 1a.

107 Khi buồn, chị gọi ai?

108 St 1, 26.

109 St 5,22, 24.

110 St 6,9.

111 x. St 17, 1.

112 x. St 3,8; 17,1; 35,9.

113 x. St 17, 8b.

114 x. Xh 6, 6-7.

115 x. Xh 25,8; 29, 45-46.

116 Lv 26, 3, 11-12.

117 Eph 2, 19-22.

118 Hc 3,12-16.

119 1 Cr 3,2.

120 Ga 16,12-13.

121 Nỗi đau nhân vụ một em tập sinh sắp tuyên khấn bị ngưng cách hàm oan đã tự tử.

122 x. 2 Cr 1,3-5.

123 http://vietvatican.net/


124 http://phanxico.vn/2016/02/20/duc-phanxico-den-tham-duc-benedicto-truoc-moi-chuyen-di/

125 2 Cr 4,13: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói.”

126 Phaolo VI, Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng, số 41.

127


128 Trích diễn từ của ĐTC Phanxicô với các chủng sinh và tập sinh ngày 6/7/2013 - http://www.vietcatholic.net/News/Html/113268.htm

129 Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 150.

130 CAN July 29, 2009 ĐTC Biển Đức XVI nói về biến cố ngài ngã gãy khuỷu tay phải rằng thiên thần giữ mình của ngài vâng lệnh trên không tránh cho ngài tai nạn này. Có lẽ Chúa muốn dạy ngài nhẫn nại và khiêm tốn, cho ngài có nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện và suy niệm.

131 “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được” (1 Cor 13,4-7)

132 Archbishop Celestino Migliore, Vatican 6/2/2009: “Luận lý của tình liên đới và nguyên lý bổ trợ là dụng cụ rất thích hợp để vượt lên mọi vấn đề và bảo đảm sự tham gia của mọi người cho công cuộc phát triển chung của cộng đồng”; JP II, Centesimus Annus, số 48 : «Nếu tôn trọng nguyên lý bổ trợ, tổ chức cấp trên không được can thiệp vào cuộc sống nội bộ của tổ chức cấp dưới bằng cách lấy đi những khả năng chuyên môn của nó, đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết»

133 Mt 12, 19-21.

134 Mc 10, 43-44.

135 Cvtđ 25, 16: “Tôi đã trả lời họ rằng người Rô-ma không có lệ kết án bị cáo nào, trước khi đương sự ra đối chất với nguyên cáo, và được cơ hội biện hộ về lời tố cáo.”

136 Tại một vùng nông thôn nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói khổ, bần cùng đã rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự ST, viết tắt từ chữ stealer có nghĩa là quân trộm cắp. Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống hòng chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ ST đáng nguyền rủa này. Còn người em tự nói với bản thân mình: “Tôi không thể từ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi sẽ làm lại từ đầu”. Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình, cố công xây dựng sự nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì anh có thể. Cuối cùng anh được tiếng thơm là một người nhân hậu hay thương giúp người. Thời gian cứ qua đi, hai mẫu tự ST vẫn còn in dấu trên vầng trán anh, nhưng không ai còn nhớ chuyện cũ. Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một thanh niên trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cậu suy nghĩ rồi trả lời: “Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của ông ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện” (vị thánh – saint- được viết tắt cũng là ST ). Quyền năng biến đổi của tình yêu tha thứ của Thiên Chúa cũng vẫn làm như thế mỗi ngày cho chúng ta.

137 Archbishop Celestino Migliore, Vatican 6/2/2009: “Luận lý của tình liên đới và nguyên lý bổ trợ là dụng cụ rất thích hợp để vượt lên mọi vấn đề và bảo đảm sự tham gia của mọi người cho công cuộc phát triển chung của cộng đồng”; JP II, Centesimus Annus, số 48 : «Nếu tôn trọng nguyên lý bổ trợ, tổ chức cấp trên không được can thiệp vào cuộc sống nội bộ của tổ chức cấp dưới bằng cách lấy đi những khả năng chuyên môn của nó, đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết»

138 Rm 7, 14-20: Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.


139 Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến của ĐGH Gioan Phaolô II (ban hành ngày 25/3/1996), số 37.

140 Vatican II, Optatam Totius, số 4.

141 Trích Bài đọc 2 lễ thánh Gioan Boscô ngày 31/1.

142 x. JP. II, Pastores Dabo Vobis 69.

143 JP. II, Pastores Dabo Vobis số 82.

144 Mt 18, 15-17; Lc 17,3; Ga 8,17; 1 Tm 5,19; 2 Cr 13,1.

145 Chúng ta sẽ trình bày “Kỹ Thuật Chỉ Bảo Huynh Đệ” trong một phần khác.


tải về 1.75 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương