KẾ hoạch bám sát chưƠng trình chuẩN: 15 tiếT (LỚP 11A1,4) chưƠng trình tự chọn nâng cao: 35 tiếT (LỚP 11A2) Giáo viên thực hiện: Nguyễn Trọng Đoan



tải về 2.95 Mb.
trang15/33
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích2.95 Mb.
#18708
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   33

2. SỰ PHÂN LOẠI THỂ LOẠI VĂN HỌC

Lí luận văn học xưa nay đã có nhiều cách phân chia loại thể văn học khác nhau:



1. Ở phương Tây.

TOP

Ngay từ thế kỉ thứ 4 trước công nguyên, Aristote trong Nghệ thuật thơ ca đã dựa vào nguyên tắc phản ánh phân chia văn học thành 3 loại. Ông cho rằng nghệ thuật là sự "mô phỏng", "bắt chước" thực tại. Tương ứng với 3 hình thức mô phỏng đó là 3 loại văn học: loại tác phẩm tự sự, loại tác phẩm trữ tình và loại kịch. Cách phân loại này của Aristote nhìn chung được nhiều nhà mĩ học, trong đó có Secnưxepxki, Ðôbrôliubôp tán thành.

Horace, Boileau đồng ý với quan điểm phân loại của Aristote nhưng đồng thời nhấn mạnh đến giá trị cao thấp của từng loại thể. Theo họ, loại "thơ chủ yếu" gồm bi kịch, hài kịch và anh hùng ca, còn thơ trữ tình chỉ là "thơ thứ yếu"

Hégel cũng phân chia văn học làm 3 loại nhưng lại dựa vào đối tượng mô tả. Theo ông, loại tự sự mô tả sự kiện, loại trữ tình thể hiện những trạng thái tâm hồn còn kịch thì miêu tả hành động. Biêlinxki tán thành ý kiến của Hégel đồng thời nói rõ thêm: tác phẩm tự sự  chủ yếu mô tả sự tiếp xúc, va chạm giữa con người và xã hội, tác phẩm trữ tình chủ yếu bộc lộ cảm xúc cá nhân, kịch chủ yếu miêu tả sự xung đột, mâu thuẫn giữa các tính cách. Biêlinxki cũng đã nêu lên ý kiến cho rằng trong thực tế văn học, nhiều khi các loại trên thâm nhập, chuyển hóa, kết hợp với nhau chứ không tách biệt một cách tuyệt đối.

2. Ở Trung Quốc.

TOP

Sự phân loại văn học ở Trung Quốc xuất hiện khá sớm. Lúc đầu họ chia là 2 loại: thơ và văn xuôi (vận văn và tản văn). Sau này, Tào Phi chia văn học làm 4 loại: Tấu- nghị, Thư luận, Minh lỗi, Thơ phú. Sau Tào Phi, Lục Cơ, Chấp Ngu, Tiêu Thống cũng có nêu lên những cách phân loại khác nhau. tuy nhiên cách phân loại của những tác giả này quá chi li, vụn vặt nhưng vẫn không thoát khỏi những cách phân loại đã có từ đầu.

Trong thời kì cận và hiện đại, Trung Quốc thừa nhận cách phân chia văn học thành 4 loại: thơ ca, văn xuôi, tiểu thuyết và kịch. Theo cách phân loại này, văn xuôi bao gồm tất cả các loại ngoài thơ ca, tiểu thuyết và kịch. Tiểu thuyết, thực ra phải thuộc loại văn xuôi nhưng do tầm vóc cũng như dung lượng hiện thực nên được xếp vào một loại riêng còn kịch thì thống nhất với kịch ở phương tây. 



3. Ở  Việt Nam.

TOP

Các giáo trình chủ yếu dựa theo phân loại của phương tây nhưng trình bày thành 4 loại chủ yếu: Thơ, tiểu thuyết, kí và kịch. Có người chia làm 5 loại: tự sự, trữ tình, kịch, kí, trào phúng. Trong lí luận văn học tập 2, Trần Ðình Sử  lại phân chia thành: tự sự, trữ tình, kịch, kí và chính luận.

Các sự phân loại trên đều có tính chất tương đối. Bởi vì, thực tế văn học vốn đa dạng, phong phú, khó có một sự khái quát nào đầy đủ và trùng khít với thực tế được. Vì vậy, giáo trình này tạm chấp nhận cách phân văn học thành 5 loại: Loại tác phẩm trữ tình, loại tác phẩm tự sự, loại tác phẩm kịch, loại tác phẩm kí văn học và loại tác phẩm chính luận

Dựa vào sự phân loại trên, có thể sắp xếp các thể loại vào các loại tương ứng:

Loại tự sự bao gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, truyện thơ, anh hùng ca, truyện cổ tích...

Loại trữ tình bao gồm thơ trữ tình, văn xuôi trữ tình...

Loại kịch bao gồm bi kịch, hài kịch, chính kịch, kịch thơ...

Loại kí bao gồm kí sự, phóng sự, bút kí, hồi kí...

Loại chính luận bao gồm các kí chính luận, nghị luận văn chương, xã hội, chính trị...

Ngoài cách phân chia văn học như trên, cần phải dựa vào các tiêu chí khác nữa để tiến hành phân chia các thể loại văn học.

III. MỘT SỐ TIÊU CHÍ PHÂN CHIA THỂ LOẠI TÁC PHẨM VĂN HỌC

1. Dựa vào hình thức câu văn: thơ (văn vần) và văn xuôi (tản văn)

TOP

Ở đây có thể nói đến truyện thơ, truyện văn xuôi, thơ, thơ văn xuôi, kịch thơ, kịch nói, thơ ngụ ngôn, truyện ngụ ngôn.

2. Dựa vào thể văn, tức hình thức lời văn được tổ chức theo một thể thức nào đó

TOP

Chẳng hạn thể thơ 2, 3, 4, 5, 6, 8 chữ, thơ song thất lục bát, thơ lục bát, thơ tự do. Thể văn xuôi: thể nhật kí, chiếu, biểu, văn tế ...Mỗi loại văn thường sử dụng một thể văn tương ứng: loại tự sự sử dụng văn trần thụât, kịch sử dụng văn đối thoại, thơ dùng thể văn giải bày cảm xúc, bộc lộ.

3. Dựa vào dung lượng tác phẩm.

TOP

    Là tiêu chí, chủ yếu dựa vào hiện thực được thể hiện trong tác phẩm và độ dài ngắn của nó. Có thể nói đến truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, thơ, trường ca, khúc ngâm, kịch ngắn, kịch nhiều hồi.

4. Dựa vào cảm hứng, tình điệu thẩm mĩ có thể phân ra:

TOP

    Tụng ca, bi ca, trữ tình hay châm biếm, truyện cười, truyện tình cảm, bi kịch, hài kịch, chính kịch...Ngoài ra, người ta có thể dựa vào nội dung thể loại để phân chia tác phẩm văn học: thể loại lịch sử dân tộc, thể loại đạo đức thế sự, thể loại đời tư.

Các thể loại được trình bày trên đều có thể được thể hiện trong các loại tác phẩm văn học khác nhau và nhiều khi có sự kết hợp chặt chẽ chứ không hoàn toàn tách biệt. Vì vậy, khi nghiên cứu về loại thể tác phẩm văn học cần chú ý đến các hình thức trung gian, kết hợp giữa văn xuôi và văn vần, giữa tự sự và trữ tình, giữa thơ và truyện, hoặc giữa văn học với các lĩnh vực khác, chẳng hạn như giữa văn học và lịch sử, giữa văn học và nghiên cứu, giữa văn học và âm nhạc, giữa văn học và nghệ thuât sân khấu.

Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc, từ văn học dân gian đến văn học viết, từ văn học cổ đến văn học hiện đại, có thể có nhiều loại, thể loại văn học khác nhau nhưng nhìn một cách tổng quát, dựa vào cơ sở phương thức tổ chức, phương thức tái hiện đời sống, những dạng kết hợp khác nhau có thể phân văn học thành 5 loại: trữ tình, tự sự, kịch, kí, chính luận.





Chương 7

LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH


  1. ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

    1. Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người

    2. Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm thể hiện thế giới chủ quan

    3. Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình

    4. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình

    5. Lời văn trong tác phẩm trữ tình

  2. PHÂN LOẠI THƠ TRỮ TÌNH

    1. Dựa vào đặc điểm cảm xúc

    2. Dựa vào đối tượng miêu tả tạo nên cảm xúc của nhà thơ

  3. TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ TRỮ TÌNH

    1. Đề thơ

    2. Dòng thơ, câu thơ

    3. Khổ thơ, đoạn thơ

    4. Tứ thơ, bài thơ



Chương 7

LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

I. ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

1. Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người.

TOP

Nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng là sự biểu hiện thế giới chủ quan của con người trước cuộc đời. Tuy nhiên, do phương thức tổ chức, do kiểu tái hiện đời sống và do sự giao tiếp nghệ thuật khác nhau nên sự biểu hiện đó ở những loại tác phẩm văn học cũng khác nhau. Trong tác phẩm trữ tình; tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ... được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ở đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào.

Trong ca dao:



Hôm qua tát nước đầu đình.

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà

Trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải (sau này nhiều người cho là ca dao).



Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

Bốn câu thơ trên thể hiện tình cảm của người ra đi đối với quê hương, đối với người thương..., là nỗi buồn, là sự nhớ nhung lúc xa xôi cách trở. Ngoài những tình cảm, nỗi niềm đó, người đọc không biết gì cụ thể hơn về chàng trai và cô gái, về mối quan hệ cụ thể của hai người với nhau.

Bài Nguyên đán của Xuân Diệu cũng thể hiện rõ đặc điểm này:

Xuân của đất trời nay mới đến

Trong tôi xuân đến đã lâu rồi

Từ độ yêu nhau hoa nở mãi.

Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.

Trong bốn câu thơ trên, không hề có mâu thuẫn, xung đột như trong kịch, cũng không có những biến cố, sự kiện, hệ thống sự kiện nào. Ðiều mà người đọc cảm nhận chủ yếu là niềm vui, hạnh phúc, là tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình.

Như vậy, từ ca dao đến những tác phẩm thơ ca hiện đại, người đọc cảm nhận trước hết là thế giới nội tâm, là thái độ xúc cảm và tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con người, cuộc đời và thiên nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về con người và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu biểu, đầu tiên của tác phẩm trữ tình.

2. Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan.

TOP

Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó cũng được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì...Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn được thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Chế Lan Viên đã nói lên mối quan hệ này qua những câu thơ:

- Thơ, thơ đong từng ngao nhưng tát bể

Là cái cân nhỏ xíu lại cân đời.

- Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi

Còn một nửa cho mùa thu làm lấy.

Người ta có thể bắt gặp một bài thơ miêu tả một bức tranh phong cảnh thiên nhiên. Trong bài Ðây thôn Vĩ Giạ của Hàn Mặc Tử, ngoài những nét chấm phá về một bức tranh thiên nhiên với những vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh tế...là tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ.



Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ơí đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà. (Ðây thôn Vĩ Giạ. Hàn Mặc Tử.)

Có những bài thơ có ít nhiều sự kiện khá liên tục- đó là những câu chuyện được kể lại một cách ngắn gọn. Những sự kiện, biến cố ở đây không được miêu tả chi tiết, tỉ mỉ...mà được thể hiện hết sức cô đọng. Các bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính, Núi Ðôi của Vũ Cao, Bà má Hậu Giang của Tố Hữu...nằm trong trường hợp này. Qua bài Quê hương của Giang Nam, người đọc có thê kể một số nét chính về mối quan hệ giữa chàng trai và cô gái một cách khá liên tục nhưng chức năng chủ yếu của hệ thống sự kiện đó là để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, suy tưởng. Chúng làm cho tình cảm được bộc lộ dễ dàng, gợi cảm.



Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm.

Có những lần trốn học bị đòn ri

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.(Quê hương- Giang Nam.)

Mặc dù thể hiện thế giới chủ quan của con người, tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự vật, hiện tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật, sinh động. Những chi tiết chân thật, sinh động trong đời sống dễ khêu gợi những tình cảm sâu sắc, mới mẻ. Có điều những chi tiết trong tác phẩm trữ tình bao giữ cũng hết sức cô đọng, súc tích.

Như vậy, tác phẩm trữ tình cũng phản ánh thế giới khách quan nhưng chức năng chủ yếu của nó là nhằm biểu hiện những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ...của con người.

3. Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình.

TOP

Tác phẩm trữ tình bao giờ cũng mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Ðó là những nỗi niềm chủ quan thầm kín nhưng khi sáng tác nhà thơ luôn luôn nâng mình lên thành người mang tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ cho một loại người, một thế hệ và cả những chân lí phổ biến...Người ta thường nói đến từ chân trời của cái "tôi" đến chân trời của cái "ta", "từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả" cũng trên ý nghĩa này. Biêlinnki đã diễn đạt điều đó bằng một câu nói hàm súc: "Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ do ở mình và miêu tả mình - dù là miêu tả những nỗi đau của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại là vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ hoãng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại".

Tóm lại, trong tác phẩm trữ tình, nhà thơ trực tiếp bộc lộ những tình cảm yêu thương, căm giận của mình trước hiện thực cuộc đời. Ởí đây, tình cảm riêng tư của nhà thơ bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng tạo nên giá trị của tác phẩm. Những tác phẩm trữ tình có giá trị được người đọc yêu mến xưa nay bao giờ cũng thắm đẫm suy tư và dằn vặt của cá nhân nhưng đồng thời cũng đánh động tình cảm, tâm trạng ...của cả một lớp người, một thời đại nhất định.



4. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình.

TOP

Nội dung tác phẩm trữ tình gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình (có người gọi là chủ thể trữ tình). Ở đây, cần phân biệt rõ 2 khái niệm: nhân vật trữ tình và nhân vật trong tác phẩm trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ ...của mình, là nguyên nhân trực tiếp khêu gợi nguồn cảm hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối tượng để nhà thơ miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về lẽ sống và con người được thể hiện trong tác phẩm. Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một hình tượng của một ai đó đang ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng, về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy chính là nhân vật trữ tình. Ðó là tâm hồn, nỗi niềm, tấm lòng...mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca.

Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách là những tình cảm, tâm trạng, suy tư... của chính bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo qui luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân vật trữ tình nhập vai.



5. Lời văn trong tác phẩm trữ tình.

TOP

Là hình thức của tác phẩm văn học, lời thơ cũng như lời của tác phẩm tự sự và kịch đều mang tính chính xác, gợi cảm, hình tượng, hàm súc. Tuy nhiên, lời thơ cũng có những đặc điểm riêng.

Trước hết, đó là lời của chủ thể, thường bộc lộ trực tiếp sự đánh giá, nhận xét  về đối tượng, trực tiếp thể hiện cảm xúc ca ngợi, khẳng định hoặc phê phán, phủ định. Chính vì vậy, sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong tác phẩm trữ tình- chủ yếu là trong thơ- luôn luôn nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán của chủ thể trở nên nổi bật.

Lời văn trong tác phẩm trữ tình đòi hỏi bộc lộ những tình cảm mạnh mẽ, những ý tập trung, hàm súc do đó nó phải tìm cho mình những lời văn phù hợp với yêu cầu gây ấn tượng mạnh, không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ nữa. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người khẳng định đặc điểm quan trọng nhất của lời văn trong tác phẩm trữ tình là  giàu nhạc tính. Nhạc tính này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, được biểu hiện khác nhau. Trong thơ Việt Nam, tính nhạc thường được biểu hiện ở các mặt: sự cân đối, trầm bỗng, nhịp nhàng và trùng điệp.

II. PHÂN LOẠI THƠ TRỮ TÌNH.

Phạm vi của tác phẩm trữ tình rất rộng. Có thể kể đến các khúc ngâm, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc. Những đặc điểm chung của tác phẩm trữ tình được biểu hiện tập trung và tiêu biểu nhất là trong tác phẩm thơ trữ tình.

Tùy theo truyền thống thơ ca của từng nước, người ta có nhiều cách phân loại thơ trữ tình khác nhau. Ở phương Tây, có những cách phân loại:

1. Dựa vào đặc điểm cảm xúc:

TOP

Có thể chia thành bi ca, tụng ca, thơ trào phúng.

- Bi ca:là những bài thơ buồn và những nỗi buồn đó được nâng lên thành quan niệm, thành triết lí. Chẳng hạn, trong bài Hoa nở để mà tàn, Xuân Diệu viết:

Hoa nở để mà tàn

Trăng tròn để mà khuyết

Bèo hợp để chia tan

Người gần để li biệt.

-Tụng ca là những bài thơ ca ngợi những sự kiện anh hùng, những chiến công của con người, những cảnh tượng hùng vĩ của non sông đất nước. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên, Tố Hữu có thể được coi là tụng ca.

-Thơ trào phúng là một dạng trữ tình đặc biệt, trong đó tác giả phủ nhận những điều xấu xa bằng một giọng văn châm biếm, mĩa mai, trào lộng. Nhiều bài thơ của Tú Xương, Tú Mỡ ...thuộc loại này.



2. Dựa vào đối tượng miêu tả tạo nên cảm xúc của nhà thơ.

TOP

Có thể phân thơ trữ tình thành các loại: trữ tình tâm tình, trữ tình thế sự, trữ tình công dân, trữ tình phong cảnh.

- Trữ tình tâm tình là những bài thơ gắn liền với những tình cảm trong mối quan hệ hằng ngày: tình yêu nam nữ, tình vợ chồng, tình cha mẹ, anh em...

- Trữ tình thế sự: là những bài thơ nghiêng về những xúc động về cuộc đời với tính chất "nhân tình thế thái"

Trong những thời kì lịch sử có nhiều biến đọng, nhiều giá trị chưa được xác định rõ ràng, thơ trữ tình thế sự gợi ý cho người sọc những suy tư, băn khoăn, trăn trở về thực trạng xã hội. Nhiều bài thơ của Nguyễn Bĩnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương...là những tiếng nói trữ tình thế sự có giá trị.

-Trữ tình công dân là những bài thơ nói lên những cảm xúc, tình cảm, suy tư của nhà thơ trong mối quan hệ với xã hội, với chế độ chính trị...Ở đây, nhà thơ lấy tư cách công dân để cổ vũ, ca ngợi sự nghiệp của nhân dân và lên án kẻ thù chung. Nhiều bài thơ trong văn học Việt Nam giai đoạn chống Pháp, chống Mĩ thuộc loại này.

-Trữ tình phong cảnh là những bài thơ nói lên những cảm xúc của con người với thiên nhiên: cây cỏ, núi non, sông biển, cảnh đẹp của quê hương, đất nước.

Những sự phân loại thơ trữ tình trên đây chỉ có tính chất tương đối. Thế giới nội tâm của con người vô cùng phong phú, phức tạp, tinh tế và có trăm nghìn mối quan hệ khó có thể phân biệt một cách rạch ròi. Trong trữ tình tâm tình cũng có trữ tình phong cảnh, trữ tình thế sự, trữ tình công dân và ngược lại. Ơí đây, sự phân loại chỉ nhằm giúp người đọc nhân ra cảm hứng chủ đạo, khuynh hướng nghệ thuật của nhà thơ.

III. TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ TRỮ TÌNH.

1. Ðề thơ.

TOP

Nơi thể hiện tinh thần cơ bản của nội dung bài thơ, gợi ý cho người đọc hiểu chủ đề chính của bài thơ, giúp họ nhớ và phân biệt với hững bài thơ khác. Cũng có khi có những bài thơ không có đề (vô đề). Ơí đây, có thể tác giả muốn để người đọc, qua nôi dung bài thơ, suy ngẫm và tưởng tượng mà tự hiểu. Ðề thơ có thể chỉ nên được coi như một định hướng để hiểu đúng bài thơ.

2. Dòng thơ, câu thơ.

TOP

Dòng thơ là đặc điểm quan trọng nhất của sự tổ chức ngôn ngữ thơ. Trong các thể thơ cách luật, số chữ mỗi dòng có sự qui định chặt chẽ. Ơí thơ tự do, không có sự qui định đó nhưng thường mỗi dòng thơ cũng không quá 12 chữ.

Câu thơ là dòng thơ diễn đạt trọn vẹn một ý. Thông thường, mỗi câu thơ là một đìng thơ. tuy nhiên, có khi hai ba dòng thơ mới thành một câu thơ:

Ơi! Kháng chiến, mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường. (Chế Lan Viên)



3. Khổ thơ, đoạn thơ

TOP

Sự kết hợp của các câu thơ thành từng nhóm thống nhất với nhau về vần, nhịp, cú pháp, ngữ điệu. Mỗi khổ thơ được kết thuc bằng một khoảng nghỉ dài. Trong những bài thơ ngắn, mỗi khổ thơ có thể là một đoạn thơ nhưng trong nhiều trường hợp, nhiều khổ thơ mới thành một đoạn thơ.

Ðoạn thơ là sự tập họp nhiều câu thơ chằm diễn đạt một ý tương đối trọn ven, hoàn chỉnh. Sự phân đoạn một bài thơ chủ yếu dựa vào ý chứ không phụ thuộc vào vần, bhịp, cú pháp như khổ thơ. việch phân đoạn dựa vào ý thơ là một yếu tố khó xác định nên các nhà nghiên cứu có thể có sự phân đoạn các bài thơ cụ thể không giống nhau.



4. Tứ thơ, Bài thơ.

TOP

Tứ  thơ  là ý lớn xuyên suốt bài thơ nhưng ý ấy không được nói thẳng ra mà hòa quyện, biến hóa qua hình tượng có nhiều tìm tòi, sáng tạo của nhà thơ. Nói cách khác, một bài thơ có tứ là một bài thơ có tìm tòi, sáng tạo về mặt thể hiện ý của toàn bài một cách mới mẻ, thú vị. Tứ thơ thể hiện đậm nét cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ... của nhà thơ.

Bài thơ là một tác phẩm hoàn chỉnh, có cấu trúc nội tại, là sự tổng hợp từ đề thơ, dòng thơ, câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, tứ thơ. Mỗi bài thơ có độ dài ngắn khác nhau và dĩ nhiên giá trị của mỗi bài thơ phụ thuộc vào nội dung tư tưởng va hình thức nghệ thuật của nó chứ không phải ở chỗ ngắn dài.







Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id114188 190495
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ChuyêN ĐỀ ĐIỀu khiển tán sắC
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Trong khuôn khổ Hội nghị của fifa năm 1928 được tổ chức tại Amsterdam (Hà Lan), Henry Delaunay đã đưa ra một đề xuất mang tính đột phá đối với lịch sử bóng đá
UploadDocument server07 id114188 190495 -> MỤc lục phần I: MỞ ĐẦU
UploadDocument server07 id114188 190495 -> «Quản trị Tài sản cố định trong Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa»
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Khóa luận tốt nghiệp 2010 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì tới 85
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ĐỒ Án tốt nghiệp tk nhà MÁY ĐƯỜng hiệN ĐẠi rs
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Chuyên đề tốt nghiệp Trần Thị Ngọc – lt2 khct L ời cảM ƠN
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Địa vị của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam

tải về 2.95 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương