Hudson Taylor, chieán só anh duõng cho Chuùa hudson taylor



tải về 0.86 Mb.
trang13/14
Chuyển đổi dữ liệu25.10.2017
Kích0.86 Mb.
#33901
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

Chương 9


CUỘC HÀNH TRÌNH TRÊN SÔNG
Gia đình bác sĩ Parker là người Tô cách lan, rất can đảm, hiểu biết, sẵn sàng chấp nhận những bất tiện và khổ sở. Thật là điều đáng mừng là họ có các đức tính ấy vì chỉ ít lâu sau họ khám phá ra rằng họ phải đối đầu với những tình trạng đó. Ba căn phòng trên lầu của căn nhà nhỏ lẽ ra cũng có thể tạm dùng được nếu có giường, tủ chén, và hộc đựng quần áo. Tuy nhiên ba gian phòng ấy gần như chẳng có gì. Nói về bàn ghế thì hình như Hudson chỉ có một cái chõng tre, hai cái bàn và khoảng 6 cái ghế. Tất cả những thứ ấy đều để cho gia đình mới sử dụng nhưng bà Parker nhìn quanh để tìm chỗ để áo quần, giày dép, chai lọ, và sách vở thì không thấy gì cả. Thậm chí cũng chẳng có ngăn kệ gì cả! Hơn nữa sàn nhà cũng không có thảm, cửa sổ thì không có màn che, và dù là đang mùa đông, cũng không có lửa sưởi ấm gì cả!
Nói cho cùng thì chỗ ấy thật là thê lương cho một gia đình với ba con nhỏ sau một cuộc hành trình lâu dài và vất vả trên biển. Tội nghiệp cho Hudson, sau khi anh nhìn qua các căn phòng chất đầy những thùng, giỏ, bao bị, anh cảm thấy vô cùng xấu hổ và bối rối. Anh không tưởng rằng chỗ ấy tệ hại như thế! Nhưng dù cho anh biết trước đi nữa anh cũng chẳng làm gì khác hơn được vì sau khi trả tiền thuê tháng đầu tiên, anh chỉ còn lại có ba mỹ kim. Anh thành thật hi vọng bác sĩ Parker đã được cung cấp đầy đủ tiền bạc vì nếu không thì anh chẳng biết tuần tới làm sao mà mua thức ăn nữa. Cho nên khi biết ông bạn đồng nghiệp của mình chỉ còn có mấy mỹ kim, Hudson thực sự lo sợ. Ông Parker mong tiền đang chờ ông ta ơ Thượng hải. Hiệp hội Truyền Giáo Trung hoa đã đoan chắc với ông Parker là họ sẽ gởi một ít tiền cho ông tại đó.

Tuy nhiên, chẳng thấy tiền nào chờ ông cả. Các thư ông nhận được chỉ gồm toàn những lời chào thăm và khuyên nhủ, tuyệt nhiên không thấy đá động gì đến tiền bạc. Hudson sau nầy mới khám phá ra rằng những việc thu xếp về tiền bạc của Hiệp hội Truyền Giáo Trung hoa đều rất bấp bênh. Hình như các vị lãnh đạo của tổ chức ấy ngầm tin tưởng rằng nếu các giáo sĩ hết tiền thì họ vẫn có thể tiếp tục sống vui vẻ và khoẻ mạnh cho đến khi tiền được gởi đến cho họ!

Công ty đại diện chuyển tiền cho hiệp hội truyền giáo không đồng ý với lối làm việc nầy. Khi công ty biết được tình cảnh khó khăn của Hudson và gia đình ông bạn đồng nghiệp đang gặp phải thì công ty liền cho họ mượn tiền trước cho tới khi nào họ nhận được tiền gởi đến. Hudson rất mừng vì sự trợ giúp đúng lúc nầy. Anh không hoàn toàn đồng ý với một vài lời phê bình của các nhân viên công ty về cách thu xếp của hiệp hội truyền giáo! Thật ra Hudson viết một bức thư lễ độ nhưng rất thẳng thắn trong đó có một ít câu rất cứng rắn về trách nhiệm của hiệp hội truyền giáo đối vơi các giáo sĩ của mình. Rồi Hudson ngồi xuống và tìm cách thích ứng với hoàn cảnh mới. Mấy tháng sau đó anh ở chung với gia đình bác sĩ Parker. Anh rất vui vì có những bạn đồng lao hết lòng và rất hi sinh. Tuy nhiên, sống chung với một gia đình năm người trong ba phòng khiến cho Hudson khó yên tĩnh tập trung tư tưởng để học một ngôn ngữ khó nhất thế giới. Nhiều lần anh mơ ước trở về sống trong gian nhà lụp sụp gần Cổng Bắc của thành phố Trung hoa, nơi anh có thể tiếp xúc thường xuyên với người Tàu. Chỉ có cách ấy mới tìm hiểu họ được, để học nói theo cách họ nói, nghĩa là sống chung với họ. Vì thế một ngày nọ anh rất mừng khi Edkins, bạn anh gợi ý với anh.

Edkins bảo, “Tôi sẽ làm chuyến du hành xuống Kha-sinh. Tôi sẽ thuê một chiếc nhà thuyền (thuyền làm nhà ở) trong một tuần rồi thả thuyền đi từ từ và dừng lại ở những thành phố hay thị trấn mình đi qua để phân phát truyền đạo đơn và giảng dạy. Anh có muốn đi với tôi không?”

Muốn à! Hudson khỏi cần ai thuyết phục. Du hành vào nội địa trong một tuần, sống trên nhà thuyền của người Trung hoa, tận mắt thấy đời sống người Trung hoa—đó chính là điều mà anh hằng mong ước! Anh lập tức chuẩn bị—giường, giở thức ăn, lò nấu, nồi niêu và thuốc men đồng thời mang theo một mớ sách vở và truyền đạo đơn. Khi anh đi xuống bờ sông chật chội theo sau những phu khuân vác mà anh thuê để mang hành lý của anh lên thuyền, anh rất ngạc nhiên vì chỉ đi có một thời gian ngắn mà phải mang theo quá nhiều đồ đạc như thế! Và rồi phải mặc cả, hò hét, và vội vã trước khi mọi thứ được đưa lên thuyền an toàn. Sau cùng chiếc thuyền rời bến ra giữa dòng, lách qua vô số các chiếc thuyền nan khác đang thả neo gần bờ. Đến lúc nầy Hudson đã quen dần với những thói quen của các phu khuân vác và không còn cảm thấy khó chịu khi họ quát tháo lẫn nhau, chửi rủa nhau bằng những từ ngữ thô lỗ mà rất may Hudson không hiểu! Tuy nhiên họ thường chia tay nhau trong thân thiện như thể họ vừa mới hỏi thăm sức khỏe của nhau. Rõ ràng đó là khuôn mẫu của họ.

Bây giờ thì chiếc thuyền đang thả buồm dọc theo con sông rộng. Hudson nhìn những bờ sông thấp và bùn lầy, những gian nhà lụp sụp, cho đến khi phong cảnh thay đổi khi thuyền rời xa thành phố và tiến về phía vùng nông thôn bao la. Chiếc thuyền đi qua hết làng nầy đến làng khác, qua những dải đất mênh mông trên đó có vô số gò đất ghi dấu những mồ mả của các thế hệ đã qua. Xứ nầy đông dân thật! Cứ mỗi vài dặm thi thấy nhiều xóm nhà xúm xít nhau, đâu đâu cũng có dấu hiệu người ở. Sau cùng khi họ đến thành phố đầu tiên mà họ phải lên bờ thì lập tức có vô số con cháu nhà Hán, mặc áo quần xanh vây quanh vì họ tỏ ra hiếu kỳ đối với hai người ngoại quốc mới đến. Edkins và Hudson liền mang theo thật nhiều sách nhỏ và truyền đạo đơn, được bao nhiêu hay bấy nhiêu rồi bước lên bơ đi vào thành phố.


Trong khi ơ đó trong thành phố đầu tiên mà hai giáo sĩ chứng kiến một việc mà sau nầy ghi sâu vào ký ức của Hudson. Hai người đã bước vào sân trước của một ngôi đền, mái xây hình con rồng và dọc theo hành lang âm u có những hình tượng khổng lồ và dễ sợ thản nhiên nhìn xuống các thiện nam tín nữ đang quì lạy trước các hình tượng ấy. Quần chúng đang xúm quanh hai vị giáo sĩ đang lắng nghe Edkins và Hudson thay phiên nhau giảng. Khi giảng xong thì hai vị giáo sĩ dễ dàng phân phát hết số sách nhỏ mà họ mang theo. Hai người sắp sửa đi sang nơi khác thì hai ba nhà sư mặc áo cà sa vàng, đầu cạo trọc bước tới.


Họ lễ phép mời “Thưa quí vị, xin kính mời quí vị vào bên trong ngồi nghỉ ngơi giây lát.” Họ vừa nói vừa hướng dẫn hai người vào khu vực họ ở. Hai vị giáo liền đi theo họ vì hai người cũng muốn thấy bên trong của một tu viện Phật. Sau vài phút nói chuyện thì các vị sư ngỏ ý muốn dẫn các vị khách thăm ngôi chùa. Họ bảo,

“Các ông có muốn vào thăm ông thánh của chúng tôi không?”

“Ông thánh của các ông à?” Các vị giáo sĩ thắc mắc, ông ta là ai, như thế nào? Dĩ nhiên họ muốn gặp “ông thánh’ ấy.

Hai người được dẫn đến một khu nằm khá xa trong tu viện, rồi lên đến một bức tường. Trong bức tường có một lỗ nhỏ, chỉ đủ cho một bàn tay thò vào thôi.

Các vị sư bảo, “Ông ta ơ trong đó.”

Hudson nhìn quanh để tìm cánh cửa nhưng không thấy. Họ bảo, “Không có cửa nào cả.” Hudson đột nhiên cảm thấy khó tin vì người nào ơ trong đó hẳn là phải bị tường gạch xây bít lại! Nhìn qua lổ hổng, anh chỉ nhìn thấy hình ảnh mờ mờ của một người đàn ông ngồi sát tường. Không có cửa sổ gì cả cho nên ánh sáng lọt vào đó chỉ là ánh sáng mờ mờ của hành lang âm u mà thôi. Đứng đó mà nhìn vào thì thấy một con người giống như anh, sống một mình trong một gian phòng nhỏ xíu như cái hòm. Ông ta vẫn còn thở. Ông ăn và uống những đồ ăn người ta chuyền qua cái lỗ trong vách. Ngoài chuyện ấy ra thì ông ta xem như chết rồi. Ông ta sống những ngày và đêm trong ánh sáng lù mù và cảnh im lặng. Làm như thế, nghĩa là cắt đứt mọi liên lạc với đồng loại, ông ta có thể nào tiêu trừ tội lỗi, đạt được mức thánh thiện và gặt hái nhiều thành quả vì mọi dục vọng đã bị diệt hay không? Hẳn nhiên là tôn giáo của ông ta dạy như thế vì anh được cả thành phố ngưỡng mộ. Ông tự nguyện đi vào thế giới nửa sống nửa chết, tin rằng nhờ đó ông sẽ vào niết bàn, tức “thiên đàng” của những người theo Phật giáo.

Edkins và Hudson liếc mắt nhìn nhau. Họ đã nghe nói đến các ông thánh nầy, tức là những người nghèo khổ tôn sùng một đạo lạ nhưng chưa bao giờ được tận mắt thấy một ông thánh nào cả. Bị thúc đẩy vì lòng thương xót sâu xa, Edkins bước gần đến cái lỗ để anh có thể nói rõ ràng với người đàn ông bên trong bức tường. Anh giải thích rằng anh đến thăm và mang sứ điệp từ một Thượng Đế duy nhất đến cho ông ta. Anh cũng hăng hái bảo “ông thánh” ấy rằng tội lỗi của ông ta có thể được tha thứ hết qua Chúa Cứu Thế. Anh dùng lời lẽ rõ ràng nói về Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự giá, và rằng Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết để làm Cứu Chúa cho những ai tin cậy nơi Ngài. Nhưng tất cả những điều ấy đều có vẻ xa lạ và mới mẻ đối với người đang bị nhốt kín sau bức tường và với những vị sư sãi mặc áo cà sa vàng đang đứng quanh. Họ chưa bao giờ nghe đến “đạo ngoại quốc” nầy cả cho nên họ nhìn hai vị giáo sĩ bằng những cặp mắt đen láy, thờ ơ, phản chiếu qua vẻ mặt lịch sự nhưng không tin của họ. Họ cũng có thượng đế của riêng họ—Đức Phật Thích Ca. Còn những người Tây Phương nầy cũng có Thượng Đế của họ—Chúa Giê-xu. Ai cũng tốt cả. Họ bảo đạo nào cũng được vì đạo nào cũng đưa tới cùng một đường. Họ tiễn hai vị khách ra đến cổng của sân chùa, lễ phép cúi chào và trở vào toà nhà u tối có những ánh đèn dầu leo lét, các que hương, các hình tượng ghê sợ, và “ông thánh” sống trong bóng tối tĩnh mịch.

Hudson và Edkins vừa bước ra đường thì bỗng nhiên hai người trở thành mục tiêu chú ý cho mọi người. Họ phải trở lại thuyền hai ba lần để lấy thêm truyền đạo đơn. Một lần họ suýt bị té xuống sông vì đám đông vây quanh lấn ép. Mãi đến gần tối họ mới có cơ hội yên tĩnh để duyệt lại biến chuyển trong ngày. Bước lên cầu thang quanh co trong chùa, họ yên lặng đứng quan sát quang cảnh bên dưới. Từ chỗ họ đứng thì cả thành phố trông giống như một cái hồ toàn nóc nhà, họ có thể nhìn từ đó cho đến các bức tường dầy, kiên cố vây quanh thành phố và có thể thấy luôn vùng đồng quê bằng phẳng quá tầm mắt. Các cánh đồng lúa rải rác có những chòm cây báo hiệu các xóm làng chạy dài đến tận chân trời. Đây đó có những ngôi chùa và đền có mái cong sừng sững trên nền trời cho thấy các thành phố và thị trấn gần đó. Hai người nhận ra rằng có hàng trăm ngàn người đang sống trong tầm mắt của họ trong khi họ đang đứng nhìn bóng chiều ngả dài trên vô số căn nhà nhỏ và tối tăm, nhà nào cũng có hình tượng, các vị thần bằng giấy, các bó nhang và các trang thờtổ tiên. Đây chỉ mới là ven biên của một đế quốc vĩ đại kéo dài hằng trăm dặm vào tận vùng nội địa chưa được khám phá.

Vùng nội địa đó là Trung hoa nội địa. Chiều hôm ấy trong khi Hudson đang đứng trong chùa thì anh nhận thấy con số dân chúng khổng lồ của Trung hoa bắt đầu mang một ý nghĩa mới đối với anh. Thành phố Thượng hải có nhiều phố xá chật hẹp và vô số chợ búa cho nên hầu như nó giới hạn tầm nhìn của anh từ trước tới nay mặc dù anh và bác sĩ Parker đã đi sâu vào vùng quê để giảng dạy và phân phát truyền đạo đơn trong các làng quanh đó. Tuy nhiên bây giờ khi nhìn vùng đồng bằng vĩ đại và yên tĩnh, anh chỉ biết lờ mờ những vùng xa tít về phía tây, những dải đất bao la nơi có vô số thành thị, làng mạc trải dài quá trí tưởng tượng. Và trong các thành phố và làng mạc ấy, người ta chỉ biết có một con đường duy nhất là con đường tối tăm đưa đến cái chết mà thôi. Anh nhớ lại ông thánh ngồi yên lặng và bị bít tứ phía trong tu viện...Những cái chiêng trong đền thờ, sự thờ cúng linh hồn tổ tiên, sự sợ hãi ma quỉ—tất cả hình như là một tấm khăn đen trùm lên cái nền văn minh đông phương vĩ đại nầy. Hình như nền văn minh ấy đang nằm trong cánh tay của một con quái vật khổng lồ hung ác nào đó. Câu bé đã từng nghe tiếng bảo, “Hãy đi sang Trung hoa cho Ta” bỗng nhiên bắt đầu hiểu được tầm mức vĩ đại của trách nhiệm trước mặt mình. Và có lẽ cả linh hồn của anh đã trở thành sắt đá để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu cam go trước mặt. Đó là một cuộc xung đột đòi hỏi từng mảnh sức lực của anh, lòng can đảm và cương quyết hơn cả trí tưởng tượng của anh. Cho nên khi anh trở lại thuyền chiều hôm ấy thì anh đã mang trong trí một ý nghĩ nghiêm trọng. Dù tốn kém bao nhiêu, dù đường đi có gay go đến đâu đi nữa thì dân chúng xứ nầy phải được nghe về Đấng duy nhất có thể cứu họ khỏi sự chết.
Chương 10

BỊ BỎ RƠI Ở TRUNG HOA


Hudson mệt mỏi ngồi xuống trên bực thềm của ngôi đền. Anh quyết định sẽ ngủ đêm tại đó. Lúc ấy đã hơn một giờ sáng. Anh đã hết sức cố gắng tìm một chỗ ngủ ở một thành phố lạ và không mấy thân thiện. Cửa nhà nào hình như cũng đóng chặt trước mặt anh, còn anh thì quá mệt mỏi không thể lết thêm bước nào được nữa. Anh ngả lưng trên các phiến đá gồ ghề, lạnh buốt, rồi đặt bị tiền dưới đầu, tự hỏi không biết có ngủ được không.
Anh mặc áo dài xanh, mang dép vải, đầu cạo trọc chỉ trừ trên đỉnh đầu tóc kết bính, trông anh giống hệt như một người Trung hoa, nghĩa là một người Anh, da trắng, mắt xanh gốc Yorkshire đang hóa thành người Trung hoa càng nhiều càng tốt. Mấy tháng trước đây anh đã bắt đầu ăn mặc giống y người Trung hoa. Vì thế mà anh đã bị các đồng nghiệp Âu châu chỉ trích nhưng anh có thể hội nhập dễ dàng hơn với người Trung hoa, và có thể đi đến nhiều nơi mà đa số người Âu châu có thể bị rắc rối. Đây là lần dầu tiên mà anh phải ngủ ngoài trời. Gần đây thì hình như không có việc gì suông sẻ cả. Đầu tiên là cơn hỏa hoạn thiêu hủy hết số thuốc của anh—quả là một mất mát lớn vì phí tổn thay thế số thuốc ấy rất cao. Rồi đến việc trước đó hai hôm, người đầy tớ của anh biến mất cùng tất cả hành lý của anh khiến anh bị kẹt, không còn gì ngoại trừ áo quần anh mặc trong người. Rồi bây giờ lại thiếu may mắn trong việc tìm chỗ trú ngụ. Anh hi vọng là đến sáng hôm sau anh sẽ có bữa điểm tâm, sau đó anh sẽ đi tìm người đầy tớ và hành lý lần cuối cùng rồi trở về Thượng hải. Vì anh chẳng còn bao nhiêu tiền trong túi cho nên việc tìm cách đi đến Ninh-bảo, nơi gia đình ông bà Parkers đang ở là việc vô ích. Anh úp mặt xuống gối đá, thở dài, rồi nhắm nghiền mắt lại.

Bỗng nhiên anh thức giấc, toàn thân anh căng thẳng nhưng bất động. Cái gì đang di động trong bóng tối kia? Có bóng người mờ mờ đang lén lút bước ngang các bậc thềm tiến về phía anh. Hudson vẫn nằm yên, giả bộ ngủ, anh trông rõ ràng bóng rách rưới của một tên ăn mày. Người ấy lặng lẽ bò đến vị giáo sĩ rồi đứng nhìn chăm chăm vào anh ta. Hudson nằm yên không cử động và sau vài phút khi chắc chắn rằng Hudson đã ngủ say, anh ăn mày cúi xuống và nhẹ nhàng sờ soạng vào Hudson.

“Anh làm cái gì đó?”

Hudson nhẹ nhàng hỏi nhưng giọng anh có vẻ đe dọa. Anh ăn mày giật mình. Cái ông đang nằm đó thật ra đâu có ngủ—ông ta đang thức và hình như sẵn sàng ra tay! Anh ăn mày vội vàng rút lui.

Hudson nhận thấy rằng anh nên cất tiền ở một nơi khác an toàn hơn là để ở dưới đầu khi ngủ, cho nên sau khi cất một ít tiền trong túi áo trong, số còn lại giấu trong ống tay áo, anh lại nằm xuống ngủ. Anh vừa thiu thiu thì bỗng nhiên linh tính đánh thức anh dậy. Anh cảm thấy có những chuyển động trong bóng tối, rồi hình dạng của những bóng người mờ mờ tiến tới gần. Lần nầy anh ăn mày trở lại với một hoặc hai đồng bạn nữa. Hudson nằm yên không cử động cho đến khi anh cảm thấy có bàn tay sờ soạng dưới đầu anh, tìm bị đựng tiền.

“Mấy anh làm gì đó?” Anh hỏi với giọng khe khẽ nhưng cương quyết như lần trước. Họ không trả lời nhưng mấy người ăn mày lùi lại vài bước rồi ngồi xuống.


Hudson hỏi lại, “Mấy anh làm gì đây?”

Họ trả lời, “Ngủ đêm ở ngoài ngôi đền thờ—như ông vậy.”

Hudson bảo, “Vậy thì mấy anh làm ơn qua phía bên kia và để tôi yên. Phía bên kia còn dư chỗ cho mấy anh.”

Các anh ăn mày không phản ứng gì trước lời đề nghị của Hudson nhưng họ không nhúc nhích. Vì thế Hudson ngồi dậy. Anh cảm thấy không nên nằm chỗ ấy vì anh có thể ngủ quên. Anh có thể bị lột hết những gì anh mang theo người nếu anh không tỉnh ngủ.

Để gỡ rối, một trong mấy anh ăn mày bảo Hudson, “Anh nên nằm xuống ngủ nếu không sáng mai anh sẽ không có sức làm việc. Đừng sợ. ” Anh ta tiếp như trấn an, “Chúng tôi sẽ không rời anh. Chúng tôi sẽ canh không cho ai làm hại anh!”

Hudson dõng dạc bảo, “Mấy anh nghe đây. Tôi không cần các anh bảo vệ tôi. Tôi không cần chuyện ấy. Tôi không phải người Trung hoa, tôi không thờ lạy các hình tượng của các anh. Tôi tôn thờ Thượng Đế. Ngài là Cha tôi. Tôi tin cậy nơi Ngài. Ngài sẽ bảo vệ tôi. Tôi biết mấy anh là ai và định làm gì. Tôi bảo cho các anh biết, tôi sẽ không ngủ. Tôi quyết định canh chừng mấy anh.”

Mấy anh ăn mày không nhúc nhích, còn Hudson cũng vậy. Anh ngồi dựa lưng vào vách, cố gắng giữ cho khỏi buồn ngủ, thì giờ trôi qua chậm chạp. Thỉnh thoảng anh lên tiếng, một phần để cho các người ăn mày biết anh vẫn còn thức, một phần để anh khỏi ngủ! Sau cùng anh nẩy ra ý kiến để khiến anh thức là hát, rồi sau khi đã hát chán rồi anh đọc lớn các khúc Thánh Kinh, xong thì cầu nguyện. Trong khi những việc thiêng liêng ấy khiến anh thêm hăng hái thì chúng lại có tác dụng trái ngược đối với các anh ăn mày. Họ thì thầm với nhau, bảo anh phải nói khe khẽ, rồi cuối cùng bỏ đi. Trước khi trời sáng và sau khi thấy họ biến dạng sau ngõ hẻm, Hudson nghỉ xả hơi, rồi ngủ được trong giây lát.
“Cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.” Những lời đó mang một ý nghĩa mới cho anh ngày hôm ấy trong khi anh mệt mỏi lê bước dọc theo bờ ruộng tít mù trên con đường đến nơi mà anh hi vọng sẽ tìm được một chiếc thuyền chở anh đi Thượng hải. Thầy của anh biết bị khinh khi và từ bỏ như thế nào, anh cũng có kinh nghiệm ấy hôm trước khi anh đi tìm chỗ trú thân mà không được. Thầy của anh biết chịu lạnh và khó chịu khi ngủ ngoài trời và bị những người bất lương theo đuổi. Cho nên những nỗi khổ cực và sỉ nhục mà anh đã trải qua không đáng kể gì so với những cảnh khổ mà Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa Vinh hiển đã cam chịu vì anh! Nếu anh có mất tất cả các của cải, và hình như anh đang mất thật đấy nhưng có đáng kể gì đâu! Linh hồn của những người Trung hoa nầy đáng giá gấp ngàn lần so với những của cải vật chất mà anh quí trọng. Tại sao anh quá bận tâm đến các của cải ấy mà không lo gì đến linh hồn của những tội nhân nghèo khó và dốt nát nầy? Cho nên vừa đi anh vừa cầu nguyện, “Chúa ơi, xin tha thứ những khuyết điểm của con. Xin giúp con chỉ làm theo ý muốn Ngài, xin cho con đi theo dấu chân Ngài...” Theo các dấu chân ấy và trở nên giống như Thầy mình, ngoài ra không còn có gì đáng kể nữa.
Đêm đó anh được các thuyền nhân thân thiện mời ngủ chung trên thuyền với họ, và anh vui vẻ nhận lời. Thật là lạnh vì không có giường nhưng anh cảm thấy thoải mái nằm xuống mà không sợ bị cướp bóc. Sáng hôm sau khi thức dậy thì anh cảm thấy đau cổ nhưng lòng thì thoải mái vì nỗi lo âu về những mất mát của anh đều tan biến cả. Dù sao, Thượng Đế có thể phục hồi lại các mất mát ấy nếu điều đó là tốt cho anh, bằng không thì anh cũng chẳng cần!

Giờ đây việc cần phải làm là tìm một chiếc thuyền đi Thượng hải, và phải trở về đó ngay. Anh không cần phải tìm người đầy tớ hay hành lý nữa. Anh đi bộ trên đường dài về phía đô thị, nơi anh hi vọng sẽ tìm được một chiếc thuyền. Sau khi trả tiền ăn sáng nơi quán bên đường và kiểm điểm lại thì anh thấy chỉ còn đủ trả lộ phí và tiền ăn trong ba hoặc bốn ngày để đi đến Thượng hải mà thôi. Bây giờ là phải tìm một chiếc thuyền chở anh đi đến đó càng sớm càng tốt!


Nhưng chẳng có chiếc thuyền nào đi Thượng hải cả. Người ta cho anh biết là dù cho đi đến Kha-sinh Phú cũng chẳng có thuyền nào đi. Hudson chạy từ văn phòng của thuyền cho đến bờ sông, hỏi thăm người ta xem có ai biết có thuyền nào đi Thượng hải không—nhưng không có kết quả. Tất cả các tàu bè đều bị mắc cạn nơi đáy sông khô. Chúng phải nằm ụ ở đó chờ mưa xuống, nước dâng lên mới đi được. Có thể phải mất mấy tuần lễ trước khi chúng có thể di chuyển—nhưng anh thì chỉ còn đủ tiền tiêu khoảng năm ngày nữa thôi! Hi vọng gần như tiêu tan khi anh đột nhiên tìm được một chiếc thuyền chở thư từ, nhỏ hơn các chiếc thuyền nặng chở hàng đang đậu dọc theo bờ sông, các thuyền ấy đang đi dọc theo dòng nước hẹp vẫn còn chảy giữa đáy sông. Thuyền ấy đang đi về phía Kha-sinh Phú!

“Anh ơi!” Hudson bắt đầu chạy, quên cả mệt và chân đau. Chiếc thuyền đi trước anh cho nên anh phải chạy bộ theo gần hai cây số mới có người nghe tiếng anh gọi.

Anh kêu lớn, “Có phải anh đi về Kha-sinh Phú không?”

Họ đáp, “Không!”

“Anh có đi về hướng đó không?”

“Không!”


“Vậy anh có thể cho tôi quá giang về hướng đó bao nhiêu hay bấy nhiêu được không?”

“Không.”


Hudson đứng khựng lại, nhìn theo chiếc thuyền tiếp tục đi. Hi vọng cuối cùng tiêu tan! Anh cảm thấy phát bệnh, cơn ớn lạnh hình như đang chạy khắp người anh.

Anh nghĩ, “Có lẽ mình phải ngồi xuống nghỉ,” và anh ngồi phịch xuống trên bãi cỏ nơi bờ sông, rồi ngất đi. Mọi vật bỗng nhiên trở nên tối sầm lại.

Nằm như thế bao lâu anh không biết. Dần dần khi tỉnh lại thì anh nghe có tiếng người nói. Tiếng nói đến từ phía bên kia sông, và khi tỉnh hẳn thì anh biết họ đang nói về anh.

Có tiếng bảo, “Anh ta nói đặc giọng Thượng hải,”—đúng là giọng hoàn toàn Thượng hải! Rõ ràng là họ tưởng anh là người cùng thành phố với họ. Sau đó anh thấy có chiếc thuyền từ bên kia sông đi qua để chở anh. Họ mời anh lên thuyền.


Những người chèo thuyền tốt bụng rất thông cảm khi nghe chuyện của Hudson. Người đầy tớ của anh đã biệt tích mang theo luôn tất cả hành lý của anh. Anh đã hết sức tìm kiếm người ấy trong hai ngày nay và bây giờ anh chỉ còn đủ tiền để đi về Thuợng hải—mà lại không tìm được thuyền! Họ thương hại nhìn ông giáo sĩ người Âu châu đang mệt mỏi, ăn mặc giống y như họ và nói ngôn ngữ họ lưu loát như người bản xứ. Và sau khi anh uống ít trà, họ lấy nước ấm cho anh ta rửa chân thì họ rất sửng sốt vì thấy chân anh bị phồng cả. Nhưng tất cả những khó khăn của anh ta đang kết thúc. Người chủ thuyền cho anh ta thức ăn, tìm cho anh một chiếc thuyền đi về Thượng hải và ngỏ ý trả tiền vé cho anh nếu cần. Hình như những nỗi bất hạnh của anh sau cùng đã xoay chiều.

Khi trở về Thượng hải, Hudson đi tìm hỏi về người đầy tớ đã biến dạng với hành lý của anh. Hay là người ấy đang gặp rắc rối vì bị bắt giữ bởi những viên chức không mấy thiện cảm với người Trung hoa nào làm việc cho người Tây phương cũng không biết chừng? Hay là anh ta chỉ muốn đánh cắp các hành lý ấy rồi bỏ trốn? Mãi một thời gian lâu Hudson mới nhận thấy rằng giả thuyết thứ hai có vẻ đúng cho nên có người gợi ý là Hudson nên nhờ pháp luật giải quyết! Người ta bảo anh là một người như thế phải bị trừng trị, và Hudson đồng ý trên nguyên tắc. Tuy nhiên còn có một điểm khác cần lưu ý. Nhiều lần chính Hudson đã giảng cho các người đầy tớ của mình về tình yêu của Thượng Đế, về sự tha thứ của Chúa Giê-xu đã tỏ ra ngay cả cho những người đã đóng đinh Ngài vào thập tự giá. Đây là cơ hội để chứng tỏ tinh thần tha thứ ấy bằng cách lấy thiện trả ác. Cho nên thay vì giao nội vụ cho một vị quan Trung hoa xét xử, Hudson viết một bức thư cho người đầy tớ ấy, nêu cho anh ta thấy anh ta đã sai lầm như thế nào và khuyên anh ta thay đổi. Hudson nghĩ rằng làm cho lương tâm anh ta bị cáo trách để anh quay trở về cùng Thượng Đế và cho linh hồn anh ta khỏi đi vào hỏa ngục còn tốt hơn là chính anh tìm lại được hành lý! Nếu hành động tha thứ nầy của anh có tác dụng tốt trên người ấy thì dù cho Hudson có mất gấp đôi số tiền ấy đi nữa—giả sử như anh có số tiền ấy mặc dù anh không có, anh cũng sẵn lòng! Sau khi gởi bức thư đi rồi, Hudson liền chuẩn bị bán số bàn ghế còn lại để bù vào số tài sản anh bị mất mát trước khi anh lên đường đi Ninh phố một lần nữa.

Nhưng ngay trước khi anh lên đường thì được tin một chiếc tàu chở thư từ Anh quốc mới vừa đến. Thường thường khi tàu chở thư đến là tin vui cho cộng đồng Âu châu đang trông ngóng và Hudson cũng như mọi người khác nóng lòng nhận các bức thư đang chờ anh ở văn phòng đại lý tàu. Anh phải nín chịu những cái nhìn khinh khi của mấy ông đội mũ lòng cao cũng đến nhận thư. Họ nhìn cái anh chàng người Anh kết tóc bính, ăn mặc kiểu Tàu với thái độ khinh khi rõ rệt. Nhưng anh đã quen chuyện ấy rồi! Anh nhận các lá thư rồi trở về nhà hăng hái xem qua. Có thể có thư từ mẹ anh, từ cô em gái Amelia, cho biết tin tức gia đình và tỉnh Barnsley chăng? Hay là may mắn hơn có thể anh nhận được thư từ Hiệp hội Truyền giáo Trung hoa trong đó có lương của anh chăng? Hay là có một bức thư từ Ben, bạn anh, nói rằng anh ta muốn đến cộng tác với anh chăng?

À! Đây là một lá thư với nét chữ quen thuộc. Đó là thư của ông Berger, người đang rất chú trọng đến công tác của vị giáo sĩ trẻ tuổi. Thư của ông ta lúc nào cũng mang vẻ trìu mến, giục giã lòng Hudson rất nhiều. Anh mở thư ra và đọc cho đến chỗ viết như sau:


“Xin anh nhận món quà kèm theo đây tượng trưng cho tình yêu của tôi và nhà tôi.” Món quà gì kèm theo đây? Hudson mở một mảnh giấy hồng kẹp bên trong lá thư và kinh ngạc khi thấy tấm chi phiếu ghi tên anh—với số tiền bốn mươi Anh kim (khoảng 200 mỹ kim) Hudson sững sờ nhìn tấm chi phiếu.

Một lần nữa phép lạ xảy ra! Một bằng cớ rõ ràng cho thấy Chúa biết rõ nhu cầu của anh. Anh đã mất số hành lý tương đương với số tiền ấy, và giờ đây anh có đúng món tiền nói trên để thay thế—một món tiền gởi từ Anh quốc sáu tuần lễ trước khi anh ta bị cướp đoạt! (Thật ra lúc đó anh cũng không biết rằng có một số tiền tương tự đang do một người khác gởi đến!) Anh rất vui vì anh đã không tìm cách trừng phạt người đầy tớ về tội đánh cắp tài sản của anh! Và một lần nữa anh lại khởi hành qua tỉnh Chư-cương xinh đẹp với nhiều vườn cây ăn trái, các đồi dốc, các cây liễu rủ, các ruộng lúa. Anh cảm thấy như một chú bé đang qua một kỳ thi nữa, và nghe tiếng khen của thầy mình, “Giỏi lắm!!”



Chương 11

CƠN ĐỘNG ĐẤT CỦA CÔ ALDERSEY

Cô Aldersey là một phụ nữ lạ lùng. Cả người Trung hoa lẫn người Tây phương ở Ninh phố đều đồng ý về điều ấy. Thật ra người Trung hoa xem cô ta quan trọng hơn ông lãnh sự người Anh là người mà họ quả quyết rằng phải vâng lệnh cô ta. Mà thật vậy! Phải chăng cô ta có ma lực không? Có phải rằng trận động đất xảy ra mới đây là do cô đã mở một cái chai bí mật trong đó có chứa một chất cực mạnh vào năm giờ sáng trên vách thành không? Và có phải những hiện tượng lạ lùng khác đều do ma lực của giáo viên khả kính Aldersey hay không? Chắc chắn Nữ hoàng Anh quốc, một phụ nữ đặc sắc, đã bổ nhiệm cô cai trị các thần dân của mình, những người đã đổ về hải cảng Ninh phố. Lẽ dĩ nhiên vị Lãnh sự Anh quốc cũng phải nghe lời cô ta! Người Trung hoa nói với nhau, cô Aldersey quả là một phụ nữ kỳ diệu.

Cả cộng đồng Âu châu cũng nghĩ như thế nữa. Tuy rằng họ không qui trách nhiệm cho cô về vụ động đất vì họ biêt rõ cái chai không có đựng chất gì có sức tàn phá lớn lao mà chỉ là muối có mùi hôi mà thôi nhưng họ cũng cảm biết mỗi ngày trong đời cô ta làm một cái gi đáng kể hơn thế nữa. Cứ mỗi sáng sớm vào lúc năm giờ là cô tản bộ trên vách thành, dù đông hay hạ, trời mưa hay trới tôt, dù trời có tối mịt cô cũng không thay đổi thói quen đó. Cô chỉ dặn người đầy tớ xách một cái đèn lồng đi theo cô, rồi cô đi ra như thường ngày. Năm giờ sáng! Nếu muốn cộng đồng Âu châu làm như thế chắc hẳn phải cần một chuyện gi mạnh hơn động đất nữa! Thật vậy, nếu chỉ có thế thì mọi người đều đồng ý rằng cô là một phụ nữ phi thường. Nhưng chưa hết. Là giáo sĩ tiền phong ở Ninh phố, người sáng lập trường Tin Lành đầu tiên cho nữ sinh ở Trung hoa, cô ta có khả năng làm việc khiến cho những người yếu kém choáng váng. Cô có thể vừa ăn vừa nghe các học sinh trả bài cho cô. Còn nói đến ngày nghỉ thì hầu như cô chẳng có ngày nào. Các giáo sĩ khác có thể đi xuống bờ biển để lấy lại sức sau khi làm việc mệt nhọc nhưng cô Aldersey hưởng gió biển bằng cách trèo lên tầng thứ chín của một ngôi chùa rồi thở hít gió biển.... Một số học sinh đi theo cô cho nên cô có thể san sẻ sự hiểu biết cho các em ấy mà không bị gián đoạn. Thật là một phụ nữ xuất chúng. Và nếu vị Lãnh sự Anh quốc không hoàn toàn làm theo điều cô muốn thì ông ta chắc không dám cho cô biết!

Thật không may cho Hudson vì một người có ảnh hưởng, đáng nể và đáng sợ như cô Aldersey lại không thích anh một cách sâu xa ghê gớm. Đúng như thế. Chỉ cần nói đến tên anh ta cũng đủ làm cho thân hình mảnh mai của cô ta cứng lại vì một mối giận dữ rất chính đáng, theo ý nghĩ của cô. Hudson Taylor dám táo bạo, gan dạ mà ngỏ lời cầu hôn với cô Maria!

Maria là con mồ côi của một giáo sĩ. Cô ta là một trong những giáo viên dạy ở trường của cô Aldersey. Cô ta dạy giỏi, rất thích trẻ con và nói tiếng Trung hoa y như người bản xứ. Cô ta khá xinh cho nên Hudson không phải là thanh niên đầu tiên nghĩ rằng tên Maria sẽ đẹp hơn nếu tên cô đứng trước họ của anh ta hơn là họ của cô. Dù sao cô Aldersey chẳng trách cô Maria về chuyện ấy vì đâu phải tại cô đâu. Nói cho đúng ra cô Aldersey sẵn sàng chia tay với người giáo viên giỏi và đẹp của mình nếu có thanh niên nào xứng đáng xuất hiện chứ còn anh chàng Hudson Taylor thì không đươcc! Cái anh chàng lúc nào cũng mặc y phục Tàu, tóc kết bính! Tóc của anh chàng kết bính lòng thòng từ chỏm đầu! Anh ta là ai? Chẳng qua là một anh chàng nghèo khó, trẻ trung, không liên hệ với ai cả! Một anh chàng cuồng tín, chẳng đáng tin, người mà không một tổ chức truyền giáo có uy tín nào dám dùng! Anh chàng ấy mà lấy cô Maria à! Không thể nào có chuyện đó được! Anh ta chỉ tính chuyện đào mỏ cô Maria thôi!

Tội nghiệp cô gái mười chín tuổi Maria thật hoang mang. Nói về tình cảm cá nhân của Maria thì chuyện lấy Hudson, tóc bính hay không, có sức hấp dẫn cô ta rất mạnh. Thành thật mà nói thì ý nghĩ ấy đã nẩy ra trong đầu cô ta nhiều tuần trước khi Hudson ngỏ lời mặc dù cô ta vẫn giữ kín trong lòng. Tuy nhiên bây giờ đứng trước cơn thịnh nộ và những lý do vững chắc của cô Aldersey, Maria cảm thấy bất lực. Cô Aldersey bảo bắt cô ta ngồi xuống viết một bức thư cộc lốc trả lời rằng lời cầu hôn ấy không thể chấp nhận được và nếu Hudson còn có chút tác phong nào thì chớ bao giờ nêu lại chuyện ấy nũa. Miss Aldersey đắc thắng cầm lá thư đó còn Maria thì trở về phòng khóc nức nở. Hudson lại cứ tưởng sẽ nhận được một thư đáp thuận lợi, giờ đây cảm thấy như cánh cửa vừa đóng sầm lại trước mặt anh.

Sau khi bị khước từ như thế anh cảm thấy rất khó mà sống và làm việc ở Ninh phố nhưng Hudson biết anh vẫn phải xúc tiến. Anh đã chuẩn bị tiếp nhận một cửa hiệu có thể làm một giảng đường rất tốt, và đang sống chung với ông bà Jones, một gia đình trẻ mới đến Trung hoa. Anh không còn ở chung với gia đinh ông bà Parker nữa vì hai ông bà đang lo điều hành một bệnh viện. Chương trình hoạt động hàng ngày của Hudson rất bận rộn. Anh phải giảng dạy, thăm viếng những người Trung hoa đang tìm hiểu về “đạo Giê-xu” và chăm nom y tế. Thật ra bận rộn thì tốt cho Hudson vì anh cảm thấy rất cô đơn. Những hi vọng của anh để tìm một bạn đồng công hình như lần lượt tan biến cả. Khi mới đến Trung hoa anh hi vọng ít lâu sau cô Amelia, em gái anh sẽ đến hợp tác với anh vì anh hay trêu chọc cô ta. Anh cảm thấy cô ta là người có thể điều hành công việc nhà cho anh và làm việc với các phụ nữ Trung hoa. Rồi anh được lên tinh thần về các bức thư của Ben, bạn anh gởi đến. Ben rất quan tâm sâu xa đến những việc làm của anh. Rất có thể anh ta cũng sẽ đến! Cho nên khi anh nhận được tin Amelia và Ben đã hứa hôn với nhau và sẽ định cư ở nhà thì anh vô cùng sửng sốt. Rồi bây giờ cô Maria là người mà anh nhận thấy có thể là bạn đồng hành tốt hơn cả hai người kia bỗng nhiên từ chối anh, cho nên anh cảm thấy hết sức cô đơn

Những ngày đầu mùa hè là những ngày buồn cho anh. Anh đâm ra bối rối. Anh đã cầu nguyện rất nhiều về vấn đề ấy trước khi cầu hôn với cô Maria. Cho nên anh thấy thật kỳ lạ mà sự việc xảy ra không như ý anh mong muốn mặc dù anh cảm thấy anh đã làm đúng. Cho nên mặc dù anh đã cố gắng, cái cảm tưởng cho rằng anh đã hành động đúng vẫn vương vấn trong đầu anh. Đáng lý anh phải cảm thấy an lòng nếu anh có thể nghe lời cầu nguyện hàng ngày của cô Maria khi cô quì gối bên cạnh giường mỗi sáng và mỗi tối! Cô ta rất muốn trở thành bà Hudson Taylor!
Tuy nhiên Hudson hoàn toàn không biết gì về chuyện ấy. Anh chỉ căn cứ vào bức thư của cô Maria gởi cho anh và cho rằng hình như đó là quyết định cuối cùng. Lẽ dĩ nhiên anh xem đó là quyết định của cô ta nhưng càng suy nghĩ về điều đó anh càng cảm thấy không phải như thế. Chữ viết đúng là của cô nhưng không phải lối diễn đạt của cô ấy. Anh bắt đầu tự hỏi không chừng đó là lối diễn đạt của cô Aldersey chăng...Hudson nghĩ nếu anh có thể gặp riêng cô Maria lúc không có cô Aldersey thì tốt. Nhưng phong tục xưa của Trung hoa cấm một người đàn ông chưa vợ tìm cách gặp riêng một người đàn bà chưa lấy chồng. Lối đi của hai người ít khi gặp nhau. Nỗ lực đầu tiên của anh để nói chuyện với cô ta bất thành và rồi anh phải ở chung với người khác trong khi Maria được đưa lên kiệu mang đi nơi khác! Sau cùng anh nhận thấy rằng anh không thể làm gì khác hơn được. Tóc bính của anh treo lủng lẳng suốt nbững ngày hè oi bức của tháng sáu trong khi anh đi qua các phố phường chật hẹp, giảng mỗi ngày khoảng một tiếng đồng hồ trong “Sảnh Đường Giê-xu.” Anh nhận ra rằng nếu anh cắt tóc bính ấy đi thì anh có thể được xem như một thanh niên xứng hợp hơn với cô Maria nhưng anh không thể làm như thế được. Vì nếu anh cắt tóc bính ấy đi thì anh không thể đi lại tự do giữa người Trung hoa vốn xem anh gần như là một người trong vòng họ. Và anh biết tại sao anh nghe tiếng gọi, “Hãy đi sang Trung hoa cho Ta.” Anh có công tác phải thực hiện trong xứ nầy. Công tác ấy là truyền bá sự hiểu biết về Đấng duy nhất có thể cứu người khỏi sự chết đời đời. Còn bao nhiêu thị trấn, thành phố, làng mạc, thôn ấp bên trong lục địa đang trông chờ nghe tin tức ấy. Anh phải đi. Còn tóc bính phải để yên. Nhưng khi Hudson quì gối cạnh giường mỗi sáng mỗi tối để cầu nguyện cho người Trung hoa thì anh lại nhắc đến tên Maria một cách khẩn thiết trước khi anh đứng lên.
Và rỗi, vào giữa tháng bảy, tình hình bỗng nhiên thay đổi vì một cơn mưa lũ gây ra như rồng hút nước.

Trận rồng hút nước. đến thật đúng lúc. Nó trút xuống trên sông vào buổi xế trưa trong khi bà Jones đang thù tiếp bà vợ của các giáo sĩ đang ở Ninh phố trong nhà bà. Nó đổ lên Ninh phố ào ào, tiếp theo sau là cơn mưa như thác. Bỗng chốc các đường phố đều ngập, không còn bóng người qua lại. Nước đổ xuống trên mái nhà và đóng thành vũng, thành ao trên những chỗ bất ngờ. Các bà nhìn ra ngoài cửa sổ phòng khách của nhà bà Jones và lo ngại không biết bao giờ mới về nhà được. Sau cùng thì các phu khiêng kiệu mới đến được trước cửa nhà của bà Jones, quần xắn lên quá đầu gối, nước rơi xối xả xuống các vành nón của những phu khiêng. Đến lúc ấy vẫn không đủ kiệu để chuyên chở các bà. Vì thế một số bà phải ở lại trong khi một số khác được đưa về trước. Trong số các phụ nữ được mang về trước có cô Aldersey. Còn trong số những người chờ kiệu có cô Maria. Cô ta đang ngồi đó khi Hudson và ông Jones từ giảng đường trở về!


Một phòng khách nhỏ có ba hay bốn người đang ngồi không phải là nơi lý tưởng để cầu hôn, nhất là từ một người đã bị từ chối. Hudson biết rõ điều đó cho nên việc đầu tiên anh định làm khi anh nhận ra rằng cơ hội hiếm có là bây giờ khi Maria ở đây mà không có cô Aldersey là chỉ lễ phép xin được viết thư cho người bảo hộ cô ơ Luân đôn để củng cố thêm tình quen biết! Tuy nhiên sau khi bắt đầu thì anh lại thấy mình trình bày nhiều hơn điều ấy trước mặt những người hiện diện. Còn cô Maria, thường thường im lặng và ít nói, đáp ứng với tình cảm nhiệt thành đáng ngạc nhiên! Trong chốc lát tình hình diễn ra thật rõ rệt. Khi kiệu đã đến để mang các bà còn lại về nhà họ qua những phố xá bùn lầy thì không ai có mặt trong phòng khách còn hoài nghi về chuyện ấy nữa. Chàng thanh niên Hudson Taylor được cô Maria cho phép viết thư cho người bảo hộ của cô. Và dù chẳng nói ra, ai cũng thấy ngay rằng cho dù có cơn động đất của cô Aldersey đi nữa cũng không cản được lời cầu hôn của Hudson.

* * *
Hudson vội vàng viết thư cho người bảo hộ của cô Maria nhưng mãi hơn bốn tháng sau anh mới nhận được thư phúc đáp vì thư của anh không phải là bức thư duy nhất mà tàu chở thư mang từ Ninh phố đến Luân đôn đề gởi cho ông Tarn. Cô Aldersey cũng biên một bức thư cho ông ta nữa! Ông Tarn cảm thấy cần phải âm thầm hỏi thăm những người ở Luân đôn đã biết về Hudson trước khi phúc đáp. Sau khi ông đã thăm hỏi rồi thì ông quyết định rằng nếu cô cháu gái của ông quyết định lấy vị giáo sĩ trẻ tuổi có tóc bính nầy thì ông thấy không có lý do gì mà cô ta không nên tiến hành. Ông chỉ dặn dò là hiện cô đã hơn hai mươi tuổi cô nên chờ đến tuổi thành niên trước khi kết hôn. Chưa đầy một năm sau vụ rồng hút nước, Hudson và Maria thành hôn với nhau và cư ngụ trong một gác xép phía trên giảng đường ở Phố Cầu.

Gọi Phố Cầu ở Ninh phố rất đúng vì nó là thông lộ một đầu là một cái cầu và đầu kia cũng là một cái cầu. Một cái cầu bắc qua một con kênh chạy dọc theo phía sau nhà anh cho nên khiến Hudson nhớ lại những ngày xưa. Lần đầu tiên anh đã ở trong gác xép nầy khi anh hãy còn là thanh niên độc thân cô đơn. Một sáng nọ khi thức dậy anh thấy có một lớp tuyết bao phủ, lớp tuyết đã được thổi từ mái ngói xuống trong đêm qua. Anh chờ ít lâu để vẽ chữ tắt của tên anh trên mái ngói đóng tuyết trước khi anh rón rén bước ra khỏi giường và mặc quần áo vào! Tuy nhiên anh nghĩ rằng cần phải chỉnh trang nơi ấy chút ít trước khi đưa cô Maria về để khi cô đến nơi thì thấy gác xép đã được phân chia làm bốn hay năm phòng nhỏ, phòng nào cũng có trần. Và sống ở đó giữa những người Trung hoa, ăn mặc giống họ, nói ngôn ngữ của họ, bắt tay vào việc.
Chương 12

NHỮNG TÍN HỮU TRUNG HOA

Ông Ni, một người cao lớn, chững chạc trang trong bộ áo dài và áo khoác dệt tơ, bước đi thong thả trên phố hẹp. Khi thấy ông ta đến, các phu khuân vác tránh ra một bên vì rõ ràng ông là một người trí thức, không những ông ta có thể đọc mà còn hiểu đựơc những tác phẩm cổ điển. Vì thế ông đáng được những người ít học kính trọng. Những người nhận ra ông đều biết ông là một thương gia giàu có vì thế mà những người nhà nghèo tránh qua một bên. Ông Ni bước thong thả dọc theo phố có treo cờ quạt và cửa rộng, trong khi ông suy tư về những chuyện bấp bênh trên đời và còn lo ngại về bấp bênh của cái chết. Ông tự hỏi, chết rồi thì sao nữa? Cái màn bí mật bao trùm bóng tối ấy khiến ông ta băn khoăn lo nghĩ và cảm thấy bất an. Chân lý, Chính Đạo ở đâu để có thể mang lại sự thoải mái và hiểu biết cho tâm trí đang hoang mang của mình?

Tiếng chuông leng keng khiến ông chú ý. Ông quay nhìn xem nó đến từ đâu. Một cánh của cánh cửa đôi mở toang và khi ông Ni nhìn vào trong sân thì thấy có nhiều người đi qua rồi bước vào cửa một gian phòng rộng. Hình như có một buổi họp sắp bắt đầu.

Ông hỏi người bán hàng rong đang đứng trước quầy nhỏ mang đi đươcc, “Họ đang làm gì trong đó vậy?”

Người kia trả lời, “Đó là Giảng Đường Giê-xu. Mấy người ngoại quốc đang ở đó. Khi họ rung chuông là họ bắt đầu buổi thờ kính.”

Ông Ni hỏi tiếp, “Họ thờ kính như thế nào?”

“Ho hát rồi đọc các sách thánh cổ điển xong họ giải nghĩa những điều họ đọc.”


Ông Ni nhìn lại lối đi mở ngỏ một lần nữa rồi quyết định bước vào. Ông muốn tìm hiểu cái đạo ngoại quốc nầy. Có thể đạo nầy sẽ giải thích được những bí ẩn của cái sống và cái chết. Ông bước vào phòng rồi ngồi xuống trên một băng xong nhìn về phía bục cao nơi có một thanh niên đang đứng và đang lớn tiếng đọc từ một quyển sách anh đang cầm trong tay.
Mới thoạt nhìn thì người thanh niên có vẻ như là người Trung hoa vì anh ta ăn mặc như thế, chỉ có cặp mắt sáng và màu da trắng cho thấy anh ta không phải người Trung hoa. Nhưng ông Ni không chú trọng lắm về chàng thanh niên mà ông quan tâm đến những gì anh ta đang đọc. Ông lắng nghe thật kỹ về cuộc nói chuyện của một ông Thầy gọi là Giê-xu với một ông khách đang ghé thăm vào buổi tối.

“Xưa kia Mô-se treo con rắn lên trong sa-mạc thế nào thì Con Người cũng phải bị treo lên như thế, để ai tin Ngài đều được sự sống đời đời. Vì Thượng Đế quá yêu nhân loại đến nỗi hi sinh Con Một của Ngài, để ai đặt niềm tin vào Con ấy sẽ không bị chết mất nhưng được sự sống đời đời. Thượng Đế sai Con Ngài đến thế gian không phải để kết tội thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu.”


Sự sống đời đời. Đó chính là điều mà ông Ni đang cần. Không bị kết tội nhưng được cứu. Ông ngồi trong giảng đường chiều hôm ấy, lòng ông bị chôn chặt bởi những điều mình nghe. Ông Giê-xu nầy mà mấy người ngoại quốc thờ kính là Con của Thượng Đế. Ngài đã từ Thiên Đàng đến thế gian, chịu chết trên thập tự giá khi Ngài gánh chịu tội lỗi của cả thế gian, và sau khi chết ba ngày, Ngài sống lại, ra khỏi mồ mả. Ngài đi lại và nói chuyện với các bạn hữu mình và một ngày nọ Ngài rời thế gian trở về Thiên đàng. Ngài sẽ ban sự sống đời đời cho mọi người tin Ngài.

Đây đúng là Chân lý! Ngồi trong giảng đường có cửa sổ giống bánh tráng và hàng dãy băng gỗ, ông Ni tin chắc rằng đây chính là Đường Đi, là Đạo thật. Trong lòng ông như có một phản ứng tuyệt đối về điều ông vữa nghe. Những lo âu và băn khoăn của ông đều biến mất. Khi Hudson xếp Thánh Kinh và chấm dứt bài giảng thì ông Ni đứng lên. Mọi cặp mắt hướng về ông khi ông nói với một giọng nhẹ nhàng và nghiêm trọng theo lối Đông phương:

Từ lâu nay tôi đã đi tìm chân lý như cha tôi trước đây nhưng chưa tìm được. Tôi du hành khắp nơi để tầm Đạo nhưng chưa tìm ra. Từ những sự dạy dỗ của Khổng Tử, đến giáo lý của nhà Phật và của Lão giáo tôi cũng không tìm được sự bình an. Nhưng bây giờ tôi đã tìm được sự bình an cho tâm hồn trong điều chúng ta vừa nghe tối nay. Cho nên từ bây giờ tôi xin tin nhận Chúa Giê-xu, làm tín hữu của Ngài.

Và ông giữ đúng lời mình nói. Ông giải thích cho các bạn hữu một cách đơn sơ rằng ông sẽ không còn thờ cúng và đốt hương cho các thần linh nữa. Ông nhận được một quyển Thánh Kinh và bắt đầu học lời Chúa, tham dự các buổi họp trong giảng đường và đi theo các vị giáo sĩ hầu như mỗi ngày khi họ đi ra thăm viếng và giảng dạy. Ông không phải là người Trung hoa đầu tiên đã từ bỏ thần tượng quay về cùng Thượng Đế hằng sống sau khi nghe Hudson giảng nhưng có lẽ chưa có ai đã cương quyết quay về cùng Chúa sau khi nghe giảng lần đầu tiên.

Một hôm ông hỏi Hudson, “Quí vị có Tin Mừng nầy trong xứ Anh Quốc bao lâu rồi?”
Hudson ngần ngừ. Ông Trung hoa nầy là người đã vui vẻ sẵn sàng đáp ứng lời mời ân cần của Thượng Đế hằng sống. Ông ta muốn cho những người khác cũng nghe về Tin Mừng ấy nữa!

“Mấy trăm năm rồi,” Hudson miễn cưỡng đáp và nhìn nhận một thời gian dài như thế.

Ông Ni sửng sốt kêu lên, “Mấy trăm năm rồi à! Tại sao các ông biết về Chúa Giê-xu lâu như thế mà bây giờ mới đến nước chúng tôi để nói về Ngài?” Trong óc Hudson hình dung ra một người mà anh yêu, thích đọc các tác phẩm cổ điển, sốt sắng đi đến chùa chiền và sụp lạy trước các hình tượng câm, không cử động, ngồi yên tham thiền và tìm hiểu về những bí mật của đời sống và của cái chết với vẻ mặt khao khát.

Ông Wang từ tốn bảo, “Cha tôi đã cố sức đi tìm chân lý hơn hai mươi năm. Ông ta chết đi mà vẫn không tìm được. Tại sao các ông không đến sớm hơn?”

Qua lời làm chứng sốt sắng của ông Ni về Chúa Giê-xu cho những người ông gặp, ông Quang, người thợ đan giỏ cũng trở thành tín hữu. Ông Quang là một người vui tính, hoạt bát nhưng trên con đường theo Chúa ông không khỏi gặp ít nhiều trở ngại! Lòng chân thật của ông thậ rõ ràng. Trước kia ông quen làm việc bảy ngày một tuần như mọi người khác quanh ông cho đến khi ông gia nhập nhóm tín hữu. Khi ông nghe rằng Thượng Đế hằng sống đã chỉ định một ngày dành riêng làm ngày thánh để nghỉ ngơi thì ông vâng theo mệnh lệnh ấy ngay, không thắc mắc. Như thế có nghĩa là chủ của ông sẽ không cung cấp thức ăn hay trả rộng rãi hai xu cho mỗi ngày làm việc mặc dù ông ta phải sản xuất trong sáu ngày một số lượng bằng với bảy ngày làm việc trước kia! Nhưng ông thợ đan giỏ Quang cảm thấy mình đã được trả thù lao quá đủ khi ông ngồi trong giảng đường Giê-xu vào Chúa nhật và nghe những truyện tích kỳ diệu từ Sách Thánh. Và khi ông chủ của anh nổi giận trong mùa bận rộn cho anh hay rằng nếu anh không chịu làm cho ông ta vào Chúa nhật thì anh ta sẽ xem như mất việc luôn thì anh Quang quyết định đi tìm việc nơi khác.

Sáng thứ hai anh đi thăm một thợ đan giỏ khác để kiếm việc nhưng không có. Anh đi đến chỗ khác cũng không kết quả gì. Anh đi khắp thành phố để tìm việc nhưng vẫn không ra. Mặc dù họ rất bận rộn nhưng không một thợ đan giỏ nào chịu mướn anh. Sau cùng anh Quang kết luận rằng ma quỉ đang gây khó khăn cho anh vì anh nhất định dùng ngày Chúa nhật để thờ kính hơn là đi làm việc.


Anh Quang thầm nghĩ, “Tôi phải chống cự nó.” Anh không thể nào chịu khuất phục trước sự chống đối của ma quỉ vì anh Quang là người có tinh thần! “Tôi phải chống cự nó! Nếu nó không cho tôi tìm ra việc làm thì tôi sẽ dành thì giờ để giật linh hồn người ta ra khỏi nước nó!” Anh thôi không đi tìm việc nữa nhưng mang theo một mớ chứng đạo đơn rồi đi vào trong các đường phố để làm chứng cho người nào chịu nghe anh giảng về Chúa Giê-xu! Và cũng nhân dịp ấy mà anh gặp được anh Quang nông gia.

Cách đây không lâu anh Quang nông gia trải qua một kinh nghiệm rất kỳ lạ. Đang khi anh nằm trên giường đau nặng ở một làng nhỏ tên Ô-xi thì anh nghe có người gọi tên mình. Biết rõ rằng trong nhà lúc ấy không có thân nhân nào, anh nặng nề bước xuống khỏi cái giường lớn có bốn cột để ra cửa. Chẳng thấy ai ở đó. Anh nằm xuống lại. Một lần nữa anh nghe tiếng người gọi tên anh. Rồi anh lại lê thân ra cửa cũng chẳng thấy ai. Anh đâm ra sơ hãi cho nên anh nằm trùm mền kín mít. Anh tự nhủ chắc là tiếng gọi của Diêm Vương đến báo cho anh biết anh sắp lìa đời!

Rồi anh nghe tiếng gọi lần thứ ba bảo rằng anh đừng sợ vì anh không chết đâu nhưng sẽ bình phục! Và sau khi anh bình phục anh phải đi đến Ninh phố cách đó khoảng 50 cây số để nghe về một đạo mới. Tiếng ấy cho biết thêm là đạo mới đó sẽ mang đến cho anh sự yên tĩnh trong lòng.
Quả thực, anh được bình phục, khiến cho mọi người đểu kinh ngạc! Nhớ lời dặn, anh đi đến Ninh phố. Tuy nhiên anh tìm mãi mà vẫn không thấy đạo mới ấy đâu cả. Hình như chẳng ai nghe biết gì về đạo đó. Suốt mấy tuần anh ở lại thành phố, sinh sống bằng cách cắt cỏ rồi bán cho những ai có trâu bò, lúc nào anh cũng luôn luôn nghe được đạo mới là đạo sẽ mang đến cho anh sự yên tĩnh trong tâm hồn. Mãi đến thứ hai khi anh gặp được anh Quang thợ đan giỏ thì anh mới tìm được đạo ấy.
Anh Quang thợ đan giỏ đang ngồi trong một quán nước và làm chứng hăng say cho nhóm đàn ông đang uống trà. Ông nói về một Thượng Đế mà ông ta gọi là Giê-xu, Đấng có thể tha tội. Ngay lúc ấy thì anh Quang nông gia bước vào và ngồi xuống. Mặc dù mấy người kia nghe có vẻ thờ ơ đối với lời làm chứng của anh Quang thợ đan giỏ nhưng trong số đó lại có một người rất kinh ngạc về lời chứng ấy! Anh không để ý đến những tiếng nói chuyện ồn ào của những người đang ngả lưng trên ghế tre quanh các chiếc bàn nhỏ trong quán nước, và anh cũng không nghe đến những tiếng rao hàng của các người bán hàng rong ngoài phố hay tiếng của các phu khuân vác đang đi lại trong phố hẹp bên ngoài, anh Quang nông gia chỉ lắng nghe lời người đàn ông ở bàn kế đang làm chứng cho những người đang ngồi cùng bàn với anh. Được tha tội, và được vào thiên đàng miễn phí cho những ai đến cùng Thượng Đế tức Giê-xu nầy—phải chăng đây là đạo mới có thể ban bình an cho tâm hồn anh không?

Anh Quang thợ đan giỏ và anh Quang nông gia cùng nhau bước ra khỏi quán nước. Chiều hôm ấy hai người nghiên cứu Tân Ước. Anh Quang nông gia được khuyên phải đi đến giảng đường Giê-xu, nơi đó thầy truyền đạo ngoại quốc sẽ giải thích thêm cho anh về đạo ông Giê-xu nầy. Đêm đó anh Quang đan giỏ lên giường ngủ và yên trí rằng mình thật đã cướp được một linh hồn ra khỏi nước của Ma quỉ!


Sáng sớm thứ ba thì anh có việc làm. Người thợ đan giỏ đầu tiên mà anh xin việc nhận anh ngay không chút e ngại. Ít lâu sau anh Quang mới khám phá ra lý do của sự chuyển hướng bất ngờ nầy. Ông chủ cũ của anh, nổi giận vì anh không chịu làm ngày Chúa nhật đã thông báo cho các thợ làm giỏ khác trong hiệp hội là chớ có mướn anh Quang nếu anh ta đến xin việc vào ngày thứ hai. Vì thế khi anh xin việc vào ngày thứ hai thì không ai nhận cả. Nhưng hôm nay là ngày thứ ba, không phải thứ hai cho nên vấn đề trở nên khác đi. Lúc ấy là mùa bận rộn cho nên dù cho ông chủ cũ muốn nói điều gì thì rõ ràng là ông chỉ nói đến ngày thứ hai mà thôi. Cho nên ai từ chối không cho anh việc làm ngày hôm trước đều vui lòng nhận anh vào ngày thứ ba.

Ít lâu sau khi Hudson được giới thiệu với anh Quang nông gia thì một hôm anh Quang thợ đan giỏ mang một người khác nữa đến giảng đường Giê-xu. Lần nầy là một người thợ sơn mà anh gặp trong sân của một nhà giàu, nơi anh đến bán giỏ. Mấy người đàn bà trong nhà đứng quanh anh, chân bó lại nhỏ xíu, muốn mua các giỏ nhỏ để đựng nhang. Họ hơi bực dọc hỏi anh sao không đan các giỏ nhỏ ấy nữa. Anh Quang thành thật trả lời rằng vì anh là tín hữu của Chúa Giê-xu, Thượng Đế chân thật cho nên anh không thể nào có liên quan đến thần tượng, với nhang đốt cho các thần ấy, hay với các giỏ đựng nhang. Các bà nghe đạo lạ về Giê-xu nầy một chốc rồi chán bỏ đi vào nhà. Khi trong anh Quang đang gom góp giỏ để rời nơi ấy thì một thanh niên trẻ, ăn mặc như phu khuân vác bỗng nhiên xuất hiện trước mặt anh.


Anh thanh niên lạ mặt hỏi, “Hồi nãy anh nói cái gì vậy? Anh không thấy tôi—vì tôi đang đứng sơn trên kia.” Anh chỉ vào cái thang đang dựng dựa vào vách, ngay bên dưới mái sơn màu sáng rỡ. “Hồi nãy anh nói cái gì vậy? Tôi có nghe—nhưng anh nói lại đi!”

Anh Quang không chờ bảo lần thứ hai. Một lần nữa anh thợ sơn nghe tin lạ lùng về một Thượng Đế muốn cứu vớt người lầm lạc chứ không muốn trừng phạt họ. Và khi được khuyên đi đến giảng đường Giê-xu để biết thêm thì anh bằng lòng ngay.
Hudson mỉm cười cúi chào người mới đến. Anh Quang thợ đan giỏ quả là một tay đánh lưới người giỏi thật! Ít lâu trước đây anh đã mang anh Quang nông gia đến, bây giờ mang anh nầy đến nữa! Hudson nhìn vào cặp mắt đen và sốt sắng của anh công nhân trẻ trước mặt mình và lễ phép hỏi,

“Quí danh của anh là gì?”

Người kia đáp, “Tiện danh tôi là Quang.”


Chương 13

MỞ CHIẾN DỊCH TRUYỀN GIÁO

Anh Quang thợ sơn lê bước dọc theo lối đi hẹp của nhà số 1, đường Beaumont, vùng Whitechapel và mở cửa trước. Trong bộ áo Tàu lụng thụng, tóc bím lòng thòng sau lưng, trông anh có vẻ không thích hợp với một căn nhà nhỏ bẩn thỉu nằm trong một phố phụ ở Luân đôn. Chàng thanh niên đứng ngoài cửa nén sự ngạc nhiên khi nhìn thấy anh. Vì chàng không nghĩ một giáo sĩ từ Trung hoa về, người mà anh muốn gặp, lại mang theo một người đầy tớ Trung hoa về nhà.

Chàng thanh niên tên Meadows hỏi, “Ông Taylor có nhà không?”

Anh Quang trả lời theo giọng Anh lơ lớ, “Xin mời ông vào. Để tôi đi tìm chủ tôi.” Sau một phút anh trở lại mời ông khách vào trong một gian phòng nhỏ, bàn ghế sơ sài. Hudson đang ngồi đó mải miết làm một việc khiến anh bận rộn từ lúc anh trở về từ Trung hoa, một công việc rất có thể kéo dài—hiệu đính lại quyển Tân Ước bằng tiếng Trung hoa. Tóc bím của anh đã cắt đi rồi vì bây giờ anh đã trở lại Anh quốc. Và trong bộ quần áo cũ, mòn, trông anh giống như một lão thư ký nghèo. Trời lạnh mà lửa củi cũng sắp hết! Chàng thanh niên liếc nhanh qua cái nghèo của người mà anh đến gặp. Hudson đứng dậy, tươi cười chào người khách. Sau nầy khi anh ngồi dùng bữa chung với Hudson và Maria, quan sát thấy khăn trải bàn không được sạch, rồi thức ăn do anh Quang nấu không mấy ngon, lẽ ra anh đã cảm thấy nản lòng về những gì anh chứng kiến trong đời sống của giáo sĩ. Nhưng anh lại không chán nản. Hai giáo sĩ trẻ nầy, cả hai đều chưa đầy 30 tuổi, có thể kể cho anh nghe về những câu chuyện gay cấn và hồi hộp của những thành phố bị vây hãm, những trận trốn thoát khỏi bọn cướp biển, những lời cầu nguyện được đáp lời. Hai người nầy tạo ra một ấn tượng sâu xa trong tâm trí anh. Rõ ràng là họ có một mục đích trong đời sống. Việc áo quần họ mặc đã lỗi thời hay thảm trải nền nhà bị lủng lỗ không quan hệ. Họ chẳng quan tâm gì đến áo quần hay thảm trải. Điều họ chú tâm duy nhất là hàng triệu người Trung hoa chưa biết gì về Thượng Đế chân thật, cho nên phải rao giảng về Ngài cho họ. Chàng thanh niên Meadows cũng có ý nghĩ tương tự và muốn đi sang Trung hoa để rao truyền lời Chúa càng sớm càng tốt. Anh ta cho rằng Hudson là cơ quan truyền giáo mà anh muốn gia nhập!

Hudson giải thích rằng mặc dù anh rất mong muốn có người đi sang Trung hoa để rao tin mừng về Thượng Đế yêu nhân loại. Chính anh cũng ao ước sớm trở lại đó nhưng anh không phải là hiệp hội truyền giáo vì anh chẳng có tiền bạc gì! Thậm chí anh cũng chẳng có đủ tiền để gởi một giáo sĩ sang Trung hoa là khác. Thật ra sau khi vì lâm bệnh mà anh phải trở về Anh quốc anh cũng chưa biết tháng tới làm sao để trả tiền thuê nhà nữa. Anh đã ra khỏi Hiệp hội Truyền giáo Trung hoa từ lâu và đang bận rộn hoàn tất chương trình huấn luyện y khoa đồng thời lo hiệu đính bản Tân Ước tiếng Trung hoa cho nên anh không có thì giờ mà “đi làm để kiếm sống nữa.” Thật là lạ lùng khi có tiền bạn hữu và thân nhân gởi cho, lắm lúc hầu như đến phút chót. Đó là những bạn hữu rất quan tâm đến anh và nước Trung hoa. Anh biết rằng Thượng Đế cảm động lòng họ làm điều đó cho nên niềm tin của anh vào Cha Thiên thượng càng tăng thêm mạnh. Dù sao anh vẫn cảm thấy không thể thu dụng giáo sĩ trong những hoàn cảnh như thế và anh buộc phải nói thẳng ra như vậy.

Tuy nhiên, chàng thanh niên Meadows lại nghĩ khác. Nếu Thượng Đế đã cảm động lòng nhiều người để ủng hộ tôi tớ Ngài là Hudson Taylor thì chẳng lẽ Ngài không thể cảm động lòng người khác để ủng hộ chàng Meadows là tôi tớ Ngài hay sao? Được phấn khởi bởi những gì anh đã nghe và thấy, anh bảo đảm với Hudson rằng anh sẵn lòng đi Trung hoa với niềm tin rằng Thượng Đế sẽ lo cho anh.

Thế là Hudson có được giáo sĩ đầu tiên. Giáo sĩ nầy đáp tàu sang Trung hoa vài tháng sau đó. Nhớ lại những kinh nghiệm đầu tiên của anh ơ Thượng hải, Hudson nhất định rằng giáo sĩ của anh sẽ nhận được tiền bạc và thư từ đều đặn chứ không phải lâu lâu mới nhận. Anh mua một quyển sổ kế toán to, rất trịnh trọng để ghi ngay vào đó những món tiền nhận được và gởi đi cho chàng Meadows. Anh cũng mua một cặp hồi sơ để lưu trữ thư từ. Anh cũng viết thư cho Meadows đều đặn. Sau một năm thì chàng Meadows chỉ có một lời than phiền là anh ta được chăm sóc quá kỹ, nhận được tiền đều đặn đến nỗi đôi khi anh ta cảm thấy như mình không sống bằng đức tin vào Chúa gì cả! Anh hơi thất vọng vì anh đã không phải chịu khốn khó vì thiếu tiền! Hudson trả lời rằng anh không biết lương của anh ta vào tháng tới sẽ đến từ đâu, được bao nhiêu, và cả hai cần phải cầu xin Chúa cung ừng. Chàng Meadows cảm thấy yên tâm!

Nhưng thêm một giáo sĩ vào một vùng đất mà có hàng triệu triệu nguời đang sống và chết mà chưa hề được nghe về một Thượng Đế chân thật thì có thấm vào đâu? Trong văn phòng ở số 1 đường Beaumont, vùng Whitechapel có treo một bản đồ Trung hoa thật lớn trên vách. Mắt của Hudson lúc nào cũng dạo qua toàn thể bản đồ khi anh ngước nhìn sau khi đọc Thánh Kinh bằng tiếng Trung hoa và tiếng Anh trên bàn viết trước mắt anh. Anh đọc đi đọc lại tên của những tỉnh nằm xa bờ biển. Tên các tỉnh ấy mang một âm điệu hay và hình ảnh thật đẹp. Chúng gợi trí tưởng tượng—Nam Vân, Tứ Suối, Tây Sơn, Bắc Hồ, Thanh Hải, Nam Giang. Các giáo sĩ Tin Lành chưa hề đặt chân đến những miền xa xôi ấy. Hudson nghĩ đến hàng trăm thành phố, hàng ngàn thị trấn và hàng vạn làng mạc nằm trong những nơi đó. Hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu. Con số hàng triệu lúc nào cũng ám ảnh trong đầu anh. Hàng triệu người Trung hoa—những người thật dễ thương, đang lầm lạc như ông Ni, anh Quang thợ đan giỏ, và anh Quang nông gia ở làng Ô-xi. Khi anh nhìn gương mặt của anh Quang thợ sơn trung thành, người đã rời quê hương để phục vụ mình thì anh luôn nhớ lại những người Trung hoa ấy.Và rồi anh nhớ lại ông sư tự giam mình trong một phòng nhỏ xíu qua bốn bức tường nơi một ngôi chùa, mong tìm “Đạo.” Anh nghĩ đến cha của ông Ni, người đã cố gắng tìm “Đạo” suốt hai mươi năm mà đến chết vẫn không tìm được. Anh càng cầu xin Chúa sai nhiều giáo sĩ đến những tỉnh thành xa xăm ấy anh càng cảm thấy mình phải làm một cái gì về mối bận tâm nầy.

Anh đã tiếp xúc với tất cả các hiệp hội truyền giáo mà anh nghĩ đến để yêu cầu họ gởi người đến nội địa Trung hoa—đến những tỉnh thành rộng lớn nơi có hàng triệu người đang chờ nghe biết về Chúa Giê-xu. Người ta nghe anh trình bày với nhiều thiện cảm nhưng tất cả đều nói là hiện tại chưa thể làm được gì. Thế là ý nghĩ lại trở về với anh là có lẽ chính anh bắt đầu thành lập một tổ chức truyền giáo để đi đến các vùng nội địa xa xôi như Tây sơn, Nam Vân, Bắc hồ...


Anh hăng hái và thường xuyên nghiên cứu bản đồ treo trên vách. Anh dành rất nhiều thì giờ làm việc đó. Có mười hai tỉnh lớn và vùng Tây tạng huyền bí chưa có giáo sĩ. Hudson nghĩ, nếu mỗi tỉnh có được hai giáo sĩ thì quá tốt! Dù sao đó cũng là khởi điểm.
“Vậy tại sao anh không xin Chúa gởi giáo sĩ đến cho anh?”

Ý nghĩ ấy đến không phải lúc. Hudson không thích nghĩ tới nó. Anh không muốn sáng lập một hội truyền giáo để đi Trung hoa lục địa. Anh sẵn sàng đích thân đi đến đó nhưng anh không muốn gởi người khác đi. Giả sử những thanh niên nam nữ được anh gởi đến những nơi ấy rồi không đủ tiền trợ cấp cho họ thì sao? Giả sử họ bị chết đói thì thế nào? Hay giả sử người Trung hoa nổi giận với những người đến giảng một tôn giáo khác rồi giết họ thì sao? Đủ thứ giả sử ghê gớm nẩy ra trong đầu anh. Hudson suy nghĩ, gởi một người đến chỗ chết là một việc ghê sợ! Anh cảm thấy trách nhiệm ấy quá lớn nên anh tìm cách dẹp qua cái ý tưởng thành lập hiệp hội truyền giáo. Nhưng anh không dẹp được. Ý tưởng đó vẫn vương vấn trong đầu anh.

Vào một buổi chiều tháng sáu khi anh đang đi dạo trên bờ biển ở Brighton thì Hudson quyết định thành lập hiệp hội truyền giáo. Anh bước trên các viên sỏi xuống mé nước, anh nhìn qua mặt biển yên tĩnh long lanh dưới ánh mặt trời mà tâm trí anh rối như tơ vò. Anh suy nghĩ đến trách nhiệm gởi nam nữ giáo sĩ đến sâu trong nội địa Trung hoa, nơi họ có thể bị chết đói! Mặt khác, anh suy nghĩ đến việc để cho hàng triệu người Trung hoa chết đi mà không biết Chúa! Ý nghĩ đó còn đáng sợ hơn.Và rồi bỗng nhiên anh nẩy ra ý tưởng rằng dù cho các giáo sĩ phải chết đói đi nữa thì họ sẽ được lên thẳng thiên đàng—có điều gì tốt hơn nữa đâu? Và giả sử trước khi qua đời họ đã đưa một người Trung hoa thôi quay khỏi việc thờ cúng ma quỉ mà trở lại kính thờ Thượng Đế thì cũng đáng. Ý tưởng hơi bi quan ấy tuy có vẻ kỳ lạ nhưng cũng khiến tâm trí anh sáng suốt hơn đôi chút.
Rồi một ý tưởng khác nẩy ra trong đầu anh. Nếu anh thành lập một hiệp hội truyền giáo để hoạt động trong nội địa Trung hoa thì chỉ vì anh biết Chúa thúc giục anh làm việc ấy cho Ngài cho nên tất cả trách nhiệm về những gì sẽ xảy ra thuộc về Chúa chứ không phải thuộc về anh nữa!

Nghĩ như thế, Hudson tự nhủ tại sao ý tưởng ấy không nẩy ra trong trí anh trước đây? Chúa sẽ chịu trách nhiệm, không phải anh! Và khi ý nghĩ nầy ngấm sâu vào tâm trí thì anh cảm thấy như một gánh nặng to lớn đang nhẹ nhàng lăn đi.

Anh cầu nguyện với tấm lòng nhẹ nhõm. “Chúa ơi! Ngài sẽ mang mọi gánh nặng ấy!” Gánh nặng đã được cất khỏi anh rồi—anh không còn bị ám ảnh bởi ý nghĩ lo sợ rằng các giáo sĩ sẽ bị chết đói nữa! “Con sẽ tiến bước như đầy tớ Ngài, vâng theo lời giục giã của Ngài...” Thật thế, anh sẽ thành lập một hiệp hội truyền giáo vì bây giờ anh biết anh có thể làm việc đó. Tất cả những lo âu về những gì sẽ xảy ra trong tương lai đều tan biến như sương mù trước tia nắng sớm mai. Những gì có thể xảy ra vì vâng theo tiếng Chúa không phải là trách nhiệm của anh. Giờ đây anh chỉ việc xúc tiến và cầu xin Chúa cung cấp những gì cần thiết để bắt đầu thành lập một hiệp hội truyền giáo để đi vào vùng Tây Sơn, Nam Vân, Bắc Hải...

Hudson ngẫm nghĩ, mười hai tỉnh và vùng Tây tạng. Cần hai nhân viên mỗi chỗ để bắt đầu mang tin mừng về tình yêu của Chúa cho nhân loại vào vùng nội điạ Trung hoa. Muời hai nhân hai là hai mươi bốn. Hudson, đầu trần, đứng trên bãi biển sáng Chúa nhật hôm ấy, nhắm mắt lại. Anh đứng như thế trong năm bảy phút liền trong khi sóng biển táp vào chân anh. Rồi anh mở Thánh Kinh của anh ra và ghi: “Tại tỉnh Brighton, ngày 25 tháng 6, năm 1865, cầu xin cho hai mươi bốn nhân công có khả năng, và sẵn lòng,” rồi anh sảng khoái bước đi trên các viên sỏi rồi lên đến khu tráng nhựa dọc theo bãi biển nơi các phụ nữ mặc váy dài đi sóng đôi với các thanh niên đội mũ lòng cao cùng các con ngựa đang hăng hái phi giữa hai càng xe và dây cương. Nhưng Hudson đâu có buồn để ý đến những người ăn mặc đúng thời trang đang đi lại náo nhiệt nơi bãi biển. Đầu óc anh ta đang vẩn vơ ở nơi xa xăm. Hai mươi bốn nhân công kể cả Maria và anh, sẽ mang tin mừng đến cho hàng triệu người ở Tứ Suối, Nam Giang, Thanh Hải, Hồ Bắc...

Anh tin chắc Chúa sẽ trả lời cầu xin của anh. Anh cũng không lo lắng lắm về hoàn cảnh hiện tại của chính anh còn không đủ tiền nuôi vợ và gia đình mà bây giờ phải cần đến hàng ngàn Anh kim mỗi năm để tài trợ cho hai mươi bốn nhân viên có khả năng và sẵn sàng ra đi. Nếu anh làm công việc Chúa theo đường lối Ngài, chắc chắn Chúa sẽ gởi số tiền mà anh cần đến!
Hudson rất thực tế. Nếu số người và số tiền đã có hay đang đến thì anh phải sẵn sàng. Anh trở lại Luân đôn ngày thứ hai và đến thứ ba anh ghé ngân hàng.

Anh nói với viên quản lý nhà băng, “Tôi muốn mở một trương mục mới.”

Viên quản lý hỏi, “Ông muốn bắt đầu với bao nhiêu tiền?”

“Mười Anh kim.” (Khoảng 50 mỹ-kim)

“Trương mục sẽ mang tên ai?”
Hudson đáp, “Hiệp hội Truyền Giáo Nội địa Trung hoa.”

Thế là hiệp hội truyền giáo ra đời!


Chương 14

ĐIỂM ĐẾN—NỘI ĐỊA TRUNG HOA


Hudson đi dọc theo phố rộng thuộc khu Tây, gần công viên Regent rồi bước lên các bậc thang của một trong những căn nhà lớn và bấm chuông. Một người giúp việc đàn ông mở cửa ngay. Hudson hơi ngại ngùng bước vào hành lang trang trí đúng kiểu, rất khác xa với hành lang hẹp dẫn tới cửa nhà số 1, đường Beaumont, thuộc khu Whitechapel!

Người giúp việc bảo anh, “Bà chủ đang chờ ông đó.” Anh trao cho người giúp việc cây gậy và nón của anh. Rồi anh được đưa vào phòng mà anh sẽ ăn sáng với phu nhân Radstock.


Không đầy một tuần sau khi anh thành lập Hiệp Hội Truyền Giáo Nội Địa Trung hoa, Hudson cũng chưa kịp chuẩn bị cho chiều hướng của các biến chuyển. Anh không quen tiếp xúc với giới thượng lưu quí phái! Nhưng bà chủ mời anh mà anh mới gặp lần đầu tiên ở nhà thờ ngày hôm qua làm cho anh cảm thấy thoải mái. Bà muốn nghe về nước Tàu cho nên khi anh kể về hằng triệu người trong các tỉnh vùng nội địa, và cách Chúa thúc giục anh đến với họ ra sao thì không những bà mà những người khác ngồi ăn sáng cùng bàn cũng chú ý. Chỉ trong một thời gian ngắn anh nhận được vô số lời mời tham dự các bữa ăn với các người có chức phận, nói chuyện trong các buổi họp mặt nơi phòng khách mà những khách tham dự mặc đồ ngủ! Tuần lễ trôi qua anh cảm thấy bị lôi cuốn theo thủy triều. Không những anh trải qua Anh quốc mà anh cũng qua vùng Tô-cách-lan và Ai-nhĩ-lan để gặp những người đã nghe về tổ chức của anh và để nói chuyện nơi các buổi họp mặt cả lớn lẫn nhỏ.
Một trong các buổi họp ấy anh gặp được một thanh niên trẻ trung hoạt bát sau nầy là người sáng lập của tổ chức Nhà Tạm Trú của bác sĩ Bardnado. Lúc ấy anh Tom Barnardo mới hai mươi tuổi, và là sinh viên của lớp thần học mà Hudson được mời đến thuyết trình. Anh ta người thấp bé nhưng khi anh đứng cạnh người sinh viên trưởng lớp cao lớn, anh ghé tai nói nhỏ vào người bạn ngồi bên cạnh, “Rất tốt! Tôi có hi vọng!” Vì chính anh cũng muốn đi Trung hoa cho nên anh tiếp xúc với Hudson để xin gia nhập tổ chức Truyền giáo Trung hoa Nội địa. Hudson khuyên anh trước hết nên học y khoa ở bệnh viện Luân-đôn, nơi mà anh khám phá ra rằng anh rất thích hợp với việc giúp đỡ những người vô gia cư. Tuy nhiên anh không phải là thanh niên duy nhất được thúc giục hành động khi nghe về nhu cầu của những người Trung hoa ở Tây Sơn, Bắc hồ, Nam Vân...Hudson đã cầu nguyện xin Chúa cho hai mươi bốn cộng tác viên có khả năng, có nhiệt tâm vào buổi sáng Chúa nhật đáng ghi nhớ trên bãi biển Brighton, và Thượng Đế đang trả lời cho sự cầu xin ấy.

Bây giờ thì ngày giờ quá ngắn đối với Hudson. Đi thăm viếng, nói chuyện ở các buổi họp, phỏng vấn những người muốn gia nhập Hiệp hội Truyền giáo, viết các sách nhỏ về Trung hoa, anh đi từ nơi nầy đến nơi khác liên tiếp không nghỉ chân. Hiện tại đã có bảy hay tám giáo sĩ đang làm việc ở Trung hoa kể cả anh Meadows. Tất cả đều sẵn sàng gia nhập Tổ Chức Truyền giáo để đi vào các tỉnh nằm sâu trong nội địa. Khi bắt đầu năm 1866 thì rõ ràng là tất cả hai mươi bốn nhân viên có khả năng, tình nguyện sẵn sàng đã được cung ứng cho anh—mười sáu thanh niên nam nữ đã sẵn sàng lên tàu cùng đi với anh và Maria sang Trung hoa nếu mọi việc được thu xếp xong xuôi.

Những việc cần được thu xếp dĩ nhiên là những loại công việc cần đến tiền. Hudson ước tính rằng cần phải có gần 10 ngàn mỹ kim để anh và đoàn truyền giáo sang Trung hoa. Thế nhưng đến đầu tuần lễ của tháng hai mà anh chỉ mới có 800 mỹkim trong trương mục. Họ dự định khởi hành vào tháng năm! Cứ theo tình trạng hiện tại mà nhìn thì họ rất khó có thể khởi hành vào lúc đó. Nhưng dù sao Hudson cảm thấy vững tâm rằng Chúa sẽ gởi đến cho họ số tiền cần có. Anh và Maria quyết định sẽ tổ chức buổi nhóm cầu nguyện ở nhà họ mỗi ngày vào mười hai giờ trưa để xin Ngài điều đó đồng thời xin Chúa hướng dẫn và giúp đỡ những gì liên quan đến chuyến đi Trung hoa. Một lần nữa anh cho thấy chuyện cầu nguyện là việc thực tế! Chỉ trong vòng năm tuần lễ sau khi họ bắt đầu những buổi cầu nguyện hằng ngày như thế thì toàn thể số tiền họ cần đã được gởi đến. Có một người gởi biếu một số tiền lớn. Bây giờ việc còn lại là tìm một chiếc tàu đủ lớn để đủ chở mười tám người lớn và bốn trẻ nhỏ.

Chuyện ấy có vẻ không dễ. Hết tháng tư rồi đến tháng năm mà vẫn chưa tìm được chiếc tàu nào thích hợp đi Trung hoa. Tuy nhiên Hudson và đoàn truyền giáo của anh vẫn hi vọng lên đường vào tháng năm.


Vào ngày 2 tháng 5, Hudson đang ở Herfordshire, ngụ tại nhà của Đại tá Puget là người đã mời anh đến nói chuyện ở một buổi họp. Buổi họp ấy được xem như là một “buổi họp tốt.” Toàn thể thính giả đều chăm chú nghe Hudson nói về hàng triệu người Trung hoa chưa bao giờ nghe về Chúa Giê-xu, mọi người đều yên lặng lắng nghe. Đại tá Puget, chủ toạ buổi họp, cảm thấy đây là cơ hội quá tốt không nên bỏ qua. Còn Hudson thì luôn luôn giao hẹn trước là trong bất cứ buổi họp nào của anh đều không có chuyện quyên tiền, nhưng Đại tá Puget thì cho rằng buổi họp mặt hôm nay phải được xem như ngoại lệ. Tại sao? Vì rõ ràng mọi người đều cảm động—cho nên chắc chắn họ sẽ dâng hiến rộng rãi cho công tác của Hiệp hội Truyền giáo Trung hoa Nội Địa nếu mâm dâng tiền được đưa qua! Cho nên ông cảm thấy hơi bực mình khi Hudson cản ông ta khi ông sắp thông báo là sẽ có cuộc lạc quyên.

Buổi chiều trong giờ ăn ông bảo, “Anh sai lầm lớn hôm nay. Mọi người hết sức chú tâm điều anh nói. Đáng lẽ nếu lạc quyên thì quá tốt.” Anh giáo sĩ trẻ trung nầy không thực tế! Nếu chỉ cầu xin Chúa cung cấp tiền bạc thì tốt nhưng không chịu quyên tiền khi mọi người đang sẵn sàng dâng hiến thì không phải chút nào. Đại tá Puget nghĩ như thế khi ông lên giường ngủ.


Tuy nhiên có điều lạ là ông không ngủ được. Ông lăn trở trên giường suy nghĩ đến buổi họp ngày hôm đó. Hudson đã trình bày một cách hết sức cảm động về những người Trung hoa đang chết mất mà chưa bao giờ được nghe về Đấng có thể cứu họ. Mỗi một giờ có hàng ngàn người Trung hoa chết, linh hồn họ đi vào nơi tăm tối đời đời mà không có Chúa Cứu Thế...” Mỗi một giờ có hàng ngàn... Mỗi một giờ có hàng ngàn...Ý nghĩ đó nung nóng tấm lòng của ông đại tá. Cái ý tưởng cho rằng đánh mất cơ hội quyên góp được nhiều tiền giờ đây không còn nữa mà ông chỉ nhìn thấy làn sóng người từ từ đi vào nơi tăm tối tuyệt vọng. Phải làm một cái gì để khiến cho họ biết rằng có một Cứu Chúa! Thật ra đã có người làm điều ấy rồi. Các thanh niên năm nữ, hầu hết sẵn sàng hi sinh mạng sống của họ nếu cần để theo Hudson Taylor đi vào trung tâm của Đế quốc Đông phương vĩ đại đó.

“Nhưng tôi làm được gì?” Vị đại tá già nua suy nghĩ. Cái suy tư ấy biến thành lời cầu nguyện. Ông hết lòng khẩn nguyện, “Lạy Chúa, Ngài muốn con làm gì?”

Ông nhớ lại số tiền mà ông dự định bỏ vào mâm dâng hiến. Hình như số tiền ấy quá nhỏ bé. Trong đêm tối vị đại tá lại cầu nguyện, “Chúa ơi, Ngài muốn con làm gì?” Sau một thời gian lâu ông ngủ thiếp đi—nhưng cuối cùng ông biết phải làm gì rôì.

Sáng hôm sau trước khi ông mặc đồ để ngồi vào bàn ăn sáng, người phát thơ trao cho Hudson một bức thư do hãng tàu thủy gới đến. Có một chiếc tàu tên Lammermuir sắp nhổ neo đi Trung hoa và người ta sẵn sàng dành Hudson và phái đoàn của anh nguyên cả phòng trên tàu. Đúng là điều anh đang cần—nhưng liệu giá cả có quá cao so với khả năng của anh không?


Sau khi vị đại tá xin lỗi đã đến trễ và giải thích rằng đêm qua ông khó ngủ thì mọi người ngồi vào bàn ăn sáng. Ăn xong ông mời Hudson vào văn phòng của ông.

Ông bảo, “Tôi có một số tiền đây cho anh,” vừa nói ông vừa trao cho anh các số tiền người ta nhờ ông chuyển cho Hudson. Xong ông tiếp:


“Tối hôm qua tôi cảm thấy anh sai lầm khi không chịu cho quyên tiền nhưng bây giờ thì tôi thấy khác. Nằm trằn trọc đêm qua, tôi suy nghĩ đến làng sóng người ở Trung hoa, mỗi giờ có hàng ngàn người đi vào nơi tăm tối. Tôi chỉ biết kêu lên, ‘Chúa ơi, Ngài muốn con làm gi?’ Và tôi nghĩ tôi đã biết câu trả lời của Ngài,” rồi ông trao cho Hudson một tấm chi phiếu. Ông tiếp, “Nếu đêm qua mà có cuộc lạc quyên thì tôi chỉ cho một tờ 5 Anh kim thôi. Chi phiếu nầy là một phần khá lớn trong đêm qua mà tôi dành để cầu nguyện.”

Hudson sững sờ nhìn tấm chi phiếu trong tay anh. Tấm chi phiếu không phải ghi 5 Anh kim mà là 500 Anh kim.


Bây giờ việc anh ta có đủ tiền để trả cho toàn thể buồng trên chiếc tàu Lammermuir không thành vấn đề nữa! Tấm chi phiếu bất ngờ đến ngay sau khi anh được thông báo về chiếc tàu sắp khởi hành cho thấy hình như đó là chiếc tàu mà anh và toàn thể phái đoàn của anh nên đi. Và không đầy một tháng sau đó, họ lên đường đi Trung hoa—toán đầu tiên của một suối giáo sĩ nam nữ liên tục trong hơn 80 năm đổ vào các thành phố lớn và các làng mạc không tên tuổi ở Tây Sơn, Vân Nam, Hồ Bắc, để làm chứng về Chúa Giê-xu cho những người như ông Ni, and Quang thợ đan giỏ, và anh Quang nông gia ơ Ô-xi...

Hudson đứng tựa trên lan can của tàu và nhìn ra biển. Chưa đầy một năm sau khi anh ghi vào quyển Thánh Kinh của anh: “Tại Brighton, ngày 25 tháng sáu, năm 1865,cầu nguyện xin đươc hai mươi bốn nhân sự có khả năng và sẵn lòng.” Mọi việc xảy ra quá nhanh từ ngày ấy! Hình như Chúa chỉ chờ anh khởi bước ấy và khi anh khởi bước ấy thi mọi việc diễn ra như đã được sắp xếp từ trước.

Lần đầu tiên khi anh đáp tàu sang Trung hoa, anh chỉ mới là một thanh niên cô đơn hai mươi tuổi, anh chỉ biết mơ hồ về mục đích mà anh được gởi đi. “Hãy đi sang Trung hoa cho Ta,” tiếng Nói bảo anh như thế, và anh đã vâng theo. Bây giờ anh đã ba mươi ba tuổi, anh hiểu rõ trách nhiệm trước mặt anh. Anh phải hướng dẫn toán công nhân nhỏ bé nầy vào trung tâm nước Trung hoa để rao giảng về tình yêu của Thượng Đế cho nhân loại suốt cả bề ngang lẫn bề dọc của đế quốc to lớn ấy.

Anh biết rõ những khó khăn, nguy hiểm, vất vả và chán nản đang chờ anh trước mặt. Trách nhiệm mà anh được kêu gọi để đảm trách đó không phải dễ dàng và thoải mái, nhưng mà là một chiến dịch đòi hỏi hết sức lực và long kiên trì của anh. Tuy nhiên anh không lo sợ. Điều cần ở anh là vâng lời và trung kiên đối với Chủ của anh, hoàn toàn tin cậy nơi Ngài. Chúa Cứu Thế là vị lãnh đạo chứ không phải anh. Và với một vị Lãnh đạo như thế anh sẵn sàng đi theo cho đến cũng. Lòng Hudson phơi phới vui mừng khi anh đứng tựa vào lan can của chiếc Lammermuir đang lướt sóng. Với tấm lòng ấy Hudson đương đầu với công tác của đời mình.

Tôi nghe tiếng kêu, Hãy đến theo Ta,

Chỉ nghe có thế thôi.

Thú vui trần thế tan biến dần,

Linh hồn tôi đi theo Ngài.

Tôi vội vàng đứng dậy đi theo ngay.

Bạn có sẵn sàng đi theo khi Ngài gọi không?






tải về 0.86 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương