Hudson Taylor, chieán só anh duõng cho Chuùa hudson taylor



tải về 0.86 Mb.
trang11/14
Chuyển đổi dữ liệu25.10.2017
Kích0.86 Mb.
#33901
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

Chương 1


Đồng bạc cuối cùng
Đã quá mười giờ vào một đêm tối mịt. Người đi với anh ta là một người đàn ông ăn mặc rách rưới, hoàn toàn xa lạ đối với Hudson Taylor, một thanh niên mới mười chín tuổi. Taylor đang mân mê đồng bạc để biết chắc đồng ấy vẫn còn trong túi. Anh nhìn quanh có vẻ lo ngại. Tuy rằng trước đây anh đã từng đi qua những khu phố nghèo nàn, chật hẹp nầy. Dù ban ngày đi nữa thì khu phố nầy cũng chẳng phải là nơi đáng đặt chân tới. Mà bây giờ dưới ánh đèn đường mập mờ nơi những góc phố thuộc các ngõ hẽm tối tăm, nhìn các gương mặt ngờ vực thập thò qua khe cửa, khu phố lại càng tỏ ra thiếu an ninh tợn. Hẳn nhiên vùng nầy không phải là nơi mà người bình thường muốn nói chuyện với một người ăn mặc lôi thôi vào lúc chiều tối. Nhưng nếu anh muốn đi Trung hoa thì anh phải làm quen với những khu phố như thế nầy. Vì thế Hudson Taylor cứ tiến bước.

“Sao anh không mời một linh mục đến thăm và cầu nguyện cho vợ anh?” Hudson hỏi người đàn ông đang đi với mình. Anh cảm thấy vui khi nghe chính giọng nói của mình! Người đàn ông đến gặp thanh niên Taylor kể rằng vợ anh ta đang hấp hối. Anh bảo, “Xin ông đến cầu nguyện cho linh hồn của vợ tôi.” Hudson Taylor bằng lòng đi. Người đàn ông rõ ràng là một người theo Công giáo. Tuy nhiên, bây giờ Hudson bắt đầu cảm thấy lo âu. Nếu quả thật vợ anh ta sắp chết tại sao anh ta không xin một linh mục phụ trách khu vực người Ái-nhĩ-lan thuộc quận Hull để làm lễ? Sao lại đi tìm một người Tin Lành?

Ông ta giải thích. Ông đã đến gặp linh mục. Tuy nhiên vị linh mục đòi phải trả tiền mới chịu làm lễ. Anh ta và gia đình hiện chẳng còn đồng nào, cho nên trả tiền để được làm lễ là chuyện không thể làm được.

Chết đói đến nơi! Hudson lại mân mê đồng tiền trong túi. Anh chỉ còn có mỗi một đồng tiền đó thôi ngoài hai chén cháo nơi nhà trọ thì anh chẳng còn thức ăn hay tiền bạc gì nữa cả. Anh khó có thể cho đi đồng tiền còn lại. Anh cảm thấy bực mình vì người đàn ông và trách anh ta tại sao để đến nước đường cùng như thế. Sao anh ta không tìm cách nhờ giúp đỡ sớm hơn? Vợ hấp hối, gia đình sắp chết đói mà chẳng làm gì cả là điều vô cùng khó hiểu.


Người đàn ông thiểu não đáp, “Tôi có đi nhờ người giúp đỡ. Họ bảo mai trở lại lúc mười một giờ. Nhưng tôi sợ rằng đợi đến lúc đó thì vợ tôi đã chết rồi...”

Lòng Hudson cảm động. Tình trạng của anh tuy bấp bênh thật nhưng vẫn còn khá hơn tình trạng của người đàn ông kia nhiều. Anh thầm nghĩ, ước gì mình có hai đồng tiền thì chắc chắn anh sẽ không ngần ngại cho người đàn ông kia một đồng!



Bỗng nhiên người đàn ông quay khỏi con đường và bước vào một sân tối om. Trước đây Hudson đã có đến đây; anh ta nhớ lần cuối khi anh có mặt chỗ nầy. Anh bị những cư dân khu lụp sụp ở đây nổi giận đánh đuổi. Họ xé nát các truyền đạo đơn mà anh ta phát cho họ. Nếu mà anh ta còn chường mặt đến đây một lần nữa thì liệu hồn! Họ hoan nghênh vị linh mục có mang thánh giá và cầu nguyện với bà Ma-ri nhưng không có chút nào thiện cảm với một ông truyền đạo Tin Lành trẻ tuổi người Anh. Hudson vội ra khỏi khu vực ấy trong thái độ tự trọng còn sót và không khi nào nghĩ rằng mình được mời trở lại khu vực đó một lần nữa. Trong khi anh ta bước lên thang gác ọp ẹp của nhà trọ thì thâm tâm anh mong rằng sẽ không ai biết anh đang có mặt tại đó! Anh cảm thấy yên lòng khi cả hai bước lên đầu thang gác và nghe người đàn ông mở cửa. Họ đã đến nơi.

Một cảnh tượng khá bi đát đập vào mắt Hudson! Dưới ánh đèn cầy lù mù rẻ tiền anh nhìn thấy sàn gỗ trơ ra, cửa sổ không có màn che, và một căn phòng gần như chẳng có bàn ghế gì. Trên sàn nhà nơi góc phòng, trên một chiếc nệm rơm là một người đàn bà gầy còm nằm, mệt mỏi, bên cạnh là một hài nhi mới sinh khoảng hai ngày. Còn bốn hay năm trẻ nhỏ khác, đứa thì đứng, đứa thì nằm trên sàn, mặc quần áo xốc xếch, chân chẳng có giày vớ gì cả. Chúng nhìn về phía cha chúng và người đàn ông lạ mặt mà cha chúng mới đưa về với những cặp mắt tròn xoe, lờ đờ, và đói khát.

Hudson đứng lặng yên trong phòng, biết chắc mình vẫn còn một đồng. Anh thầm nghĩ ước gì mình có hai đồng riêng rẽ thì tốt biết bao nhiêu. Chắc chắn anh sẽ chìa ra một đồng cho mấy người nghèo khó nầy. Thôi ao ước làm gì nữa. Anh bình tĩnh nhớ rằng mình là một người truyền đạo và dự định làm giáo sĩ cho nên anh quyết định phải làm chứng cho những người nầy về Chúa.

Anh ta ngập ngừng mở lời, “Các bạn biết tình trạng của các bạn thật bi đát. Nhưng các bạn không nên thất vọng. Chúng ta có một Cha trên Thiên đàng yêu thương và chăm sóc cho chúng ta nếu chúng ta tin cậy Ngài—”

Nói đến đây anh cảm thấy nghẹn lời. Trong lòng anh như có tiếng thốt lên, “Đừng có đạo đức giả! Trong khi anh nói với người ta về một Cha nhân từ và yêu thương trên Thiên đàng—mà chính mình anh lại không sẵn sàng tin cậy nơi Ngài mà không dựa vào đồng tiền anh có!”

Hudson liền bỏ ý định giảng cho họ. Cả gia đình yên lặng nhìn anh trong khi anh đang đứng đó, ăn mặc tươm tất với áo ngoài có đuôi dài, mang giày da thứ thiệt và đội nón lòng cao! Anh tự nghĩ giá như áo quần anh xơ xác, và giày cần phải vá thì thế nào? So với họ anh ta trông sang trọng hơn nhiều. Họ đâu có biết anh chỉ còn có một đồng tiền? Hudson cảm thấy thật đau lòng. Ôi, ước gì anh có tiền thêm, anh sẽ cho họ, chắc chắn như thế.


Anh quay sang người đàn ông và nói: “Anh mời tôi đến đây để cầu nguyện cho vợ anh. Thôi bây giờ chúng ta hãy cầu nguyện.” Đang khi quì gối xuống sàng gỗ trơ trọi thì anh tưởng cầu nguyện là việc dễ dàng. Nhưng không phải vậy. Anh vừa bắt đầu “Lạy Cha chúng con ở trên trời,” thì tiếng nói lên án trong lòng anh lúc nãy lại thốt lên, “...còn đồng bạc trong túi anh thì sao?” Anh gượng gạo cầu nguyện cho xong mà trong lòng cảm thấy khốn khổ, rồi đứng dậy.

Khi anh đứng lên thì người đàn ông nói với anh giọng tuyệt vọng, “Ông thấy hoàn cảnh chúng tôi thật bi đát. Xin ông giúp chúng tôi!”

Tội nghiệp cho Hudson! Anh không biết làm gì khác hơn. Bỗng nhiên anh nhớ thường đọc trong Bài Giảng Trên Núi có câu như sau: “Người nào xin thì hãy cho họ...” Hãy cho...

Anh từ từ cho tay vào túi. Phải cho đi đồng tiền nầy.

Khi trao đồng tiền cho người đàn ông, Hudson bảo, “Có lẽ anh nghĩ rằng tôi giàu có lắm nhưng thật ra đây là đồng bạc cuối cùng của tôi.” Bỗng nhiên anh cảm thấy phấn khởi. “Tôi bảo thật đấy. Chúa là Cha của chúng ta. Chúng ta có thể tin cậy nơi Ngài. Tôi có thể tin cậy nơi Ngài...” Và anh nhận ra rằng anh có thể tin cậy Ngài. Giờ đây thì anh cảm thấy vững lòng nói cho người khác biết về việc tin cậy nơi Chúa vì đồng bạc đã ra khỏi túi anh và đang ở trong túi người đàn ông kia! Anh lấy làm ngạc nhiên về sự thay đổi đột ngột trong cảm nghĩ của anh vì đồng bạc ấy. Anh cảm thấy phấn khởi. Anh và gia đình người đàn ông chia tay nhau trong tình thân thiện. Anh bước xuống thang gác ọp ẹp, băng qua sân trước và bước về nhà mà lòng phơi phới, đuôi áo bay phần phật trong gió, miệng ca hát, không mảy may lo âu gì! Khi anh về đến căn phòng nhỏ ở Drainside nơi anh trọ, và chuẩn bị ăn bát cháo duy nhất cuối cùng thì anh cảm thấy khoan khoái như ông hoàng.
Đang khi ngồi đó thì trong óc anh thoáng ra một ý nghĩ hay hay. Anh nhớ có đọc một chỗ nào đó trong Thánh Kinh nói rằng, “ai giúp người nghèo tức là cho Đức Giê-hô-va vay mượn.” Câu ấy cho thấy món tiền anh cho ra giờ đây mang một khía cạnh khác vì anh đã cho người nghèo thì xem như anh đã cho Chúa vay. Ý nghĩ cho Chúa vay tiền thật ra hơi kỳ lạ đối với anh nhưng vì đó là lời Kinh Thánh viết nên anh nghĩ phải đúng. Do đó khi anh quì gối cầu nguyện trước khi đi ngủ, anh thưa với Chúa về món tiền vay, xin Ngài đền bù sớm, nếu không thì hôm sau anh ta sẽ chẳng còn gì mà ăn!

Sáng hôm sau anh dậy như thường và nhìn vào chén cháo cuối cùng của mình. Trước mặt anh là một ngày vất vả đang chờ, và tuy rằng một chén cháo cũng đủ để bắt đầu nhưng nếu kéo dài thêm nữa thì chẳng thấm vào đâu. Bao giờ thì Chúa sẽ trả lại số tiền vay đó?

Anh ngồi xuống và bắt đầu ăn. Tiếng lạch cạch của người phát thơ nơi cửa trước không làm anh lưu ý mấy vì ít khi nào anh nhận được thơ vào sáng thứ hai. Mấy giây sau thì bà chủ nhà trọ gõ cửa phòng anh.

Bà hớn hở bảo, “Gói nhỏ nầy là của ông đó, ông Taylor ạ.” Bà vừa nói vừa dùng vạt áo nhà bếp trao gói quà cho anh vì tay bà đang ướt.

Hơi ngạc nhiên, Hudson đáp, “Ô, cám ơn bà!” Anh giơ tay đỡ lấy gói đồ và xem xét. Món quà đúng là gởi cho anh nhưng anh không nhận ra chữ viết là của ai. Dấu bưu điện đã bị nhoà cho nên anh cũng không biết gì thêm. Anh quyết định mở nó ra. Sau khi rọc phong bì thì anh rút ra một mảnh giấy. Bên trong là một đôi găng tay trẻ con.

Hơi băn khoăn, Hudson tự hỏi, “Ai gởi cho mình đôi găng tay trẻ con thế nầy?” Rồi có vật gì rơi ra. Vật ấy nhỏ thôi và sáng loáng. Anh cúi xuống nhặt lên—một đồng tiền vàng.

Anh sững sờ nhìn đồng tiền rồi xem xét miếng giấy bọc xem thử có thư không, anh nhìn kỹ chữ viết tay và dấu bưu điện để tìm ra tung tích người gởi. Vô ích. Anh không biết được gói quà ấy từ đâu đến. Mà lúc đó thì anh chẳng cần biết làm gì nữa. Anh chỉ biết là nó đến từ thiên đàng! Anh nhận ra rằng không những đồng bạc của anh đã được đền đáp đầy đủ mà anh lại nhận được gấp mười lần hơn! Bỗng nhiên anh phá lên cười lớn.

Anh hớn hở kêu lên, “Thật là một số tiền lời lớn! Ha, ha! Chỉ đầu tư vào ngân hàng của Chúa có mười hai tiếng đồng hồ mà mình được lời như thế nầy! Đúng là nhà băng của tôi!”


Chương 2

KHU VỰC DRAINSIDE


Drainside, thuộc vùng Hull, nơi Hudson đến cư ngụ mang tên ấy là vì nó nằm cạnh một con kênh. Nhưng đối với những cư dân sống trong các dãy nhà nhỏ xíu xây hai bên bờ kênh hẹp thì con kênh chỉ là đường cống. Rất tiện cho những người sống trong các căn nhà ấy. Mở cửa ra là họ có thể ném rác rưởi xuống kênh mà không phải bận tâm gì. Giấy dơ, lá bắp cải, vỏ khoai tây, và rau cải thối nổi lềnh bềnh trên mặt nước, làm mục tiêu hấp dẫn cho lũ trẻ lang bạt nô đùa. Và khi bóng tối chụp xuống nếu đường cống ấy xông lên mùi xú uế hay gây rủi ro cho những người say rượu bước ra từ những khu chung cư đối diện nơi Hudson ở thì vai trò của nó trong việc làm thùng rác cũng đủ ích lợi rồi so với rủi ro ấy.

Đối với Hudson thì sự khác biệt giữa khu vực nghèo nàn, xấu xí ở đây và cảnh giàu sang ở vùng Yorkshire, nơi anh xuất thân quả thật quá to lớn. Ngoài ra sự khác biệt giữa căn phòng lùi xùi chật hẹp mà anh đang sống so với căn nhà ấm cúng đủ tiện nghi bên trên tiệm thuốc tây của cha anh ở khu phố Market, thành phố Barnsley cũng rõ ràng không kém! So căn phòng nhỏ hẹp anh hiện ở chỉ có vỏn vẹn một cái giường nằm trong góc, một cái bàn và mấy chiếc ghế với căn phố ấm cúng đàng sau cửa hiệu thuốc tây có chén bát màu tươi mát, cửa kính lóng lánh, tủ sách to với ghế bành và các chiếc ghế êm ái thì căn nhà của anh trước kia chẳng khác nào dinh thự. Anh cũng cảm thấy đơn độc khi một mình ăn những bữa đạm bạc, thay vì ngồi chung nơi một bàn ăn rộng rãi với cha mẹ và hai cô em gái hay cười nói huyên thuyên. Anh thích trêu chọc hai cô em có những lọn tóc xoăn tít và áo quần lượt là. Anh rất nhớ các em gái mình—nhất là cô Amelia. Nhưng sở dĩ anh đến đây là vì anh muốn quen dần với cảnh cô độc và vất vả. Và anh nhất định ở đây vì nơi nầy là một phần trong việc chuẩn bị cho anh sinh sống ở Trung Hoa trong tương lai.

Kể từ buổi tối tháng chạp hơn một năm trước đó khi anh nghe tiếng nói bên tai rằng, “Hãy đi sang Trung Hoa cho Ta,” thì anh biết rằng anh phải ra đi. Lúc nghe tiếng nói ấy thì anh đang cầu nguyện và mặc dù Trung Hoa không bao giờ nẩy ra trong ý tưởng của anh nhưng mệnh lệnh ấy quá rõ ràng, không lầm lẫn được cho nên anh biết chắc tiếng nói ấy đến từ Chúa. Vì nhất quyết vâng tiếng phán của Ngài mà anh đã rời căn nhà ấm cúng ở Barnsley để đến làm việc cho một bác sĩ ở tỉnh Hull. Có chút kiến thức và kinh nghiệm về y khoa chắc hẳn sẽ ích lợi ở một xứ lạ cho nên việc đến sống ở tỉnh Hull chỉ là bước đầu trong cuộc hành trình đến Vương quốc Đông Phương ấy.

Không những anh rất muốn có kiến thức về y khoa khi đi làm giáo sĩ ở Trung Hoa, tuy nhiên ước muốn ấy không đáng kể mấy so với một vấn đề khác quan trọng hơn mà anh đang đối đầu. Anh chẳng quen ai ở Trung Hoa mà anh lại sang bên đó có một mình. Liệu đức tin trong Chúa của anh có đủ mạnh để anh đi đến một xứ lạ, phải đương đầu với những khó khăn hay nguy hiểm mà từ trước đến nay anh chưa hề gặp không?

Anh thầm nghĩ, “Khi tôi đến Trung Hoa thì tôi sẽ không trông cậy vào ai về bất cứ điều gì. Tôi chỉ trông cậy vào Chúa mà thôi. Nhưng nếu đức tin của tôi đặt sai chỗ thì sao? Nếu những lời cầu nguyện của tôi không hiệu nghiệm thì như thế nào?” Càng suy nghĩ về những điều ấy thì anh càng nhận ra rằng anh phải học tập huy động người khác qua Chúa, qua sự cầu nguyện trước khi anh rời nước Anh.

Huy động con người qua Chúa, bằng sự cầu nguyện—ý tưởng đó cứ luôn ám ảnh trong đầu anh. Làm được không? Anh muốn thử xem...Nói vắn tắt thì cơ hội đó đang thể hiện qua ông chủ của anh.


Bác sĩ Robert Hardy là một người tính tình vui vẻ, tử tế, thích hoạt động và rất giàu óc khôi hài. Có người nói rằng ông làm cho nhiều người cười đến nỗi đa số bệnh nhân lành phân nửa bệnh tật mà không phải dùng đến thuốc chữa! Phòng mạch ông ta bận rộn đến nỗi ông không có thì giờ để ý đến các chi tiết nhỏ nhặt trong việc điều hành. Một hôm ông bảo Hudson, người phụ tá trẻ tuổi của ông rằng:

“Nầy Taylor, khi nào đến kỳ trả lương cho anh thì nhớ nhắc tôi nhé! Anh biết tôi rất bận cho nên tôi có thể quên đó.”


Và ông ta quên thật. Đến kỳ trả lương cho Hudson rồi mà không thấy ông nói gì. Một ngày, rồi hai ngày trôi qua, chẳng thấy ông nhắc gì đến vụ lương bổng. Hudson phải đối đầu với hai lựa chọn: Anh có thể xin bác sĩ trả lương hay anh xin Chúa. Khi nhớ rằng lúc đến Trung Hoa anh sẽ không có ai khác để xin ngoài Chúa cho nên bây giờ anh quyết định xin Ngài. Vì thế mà anh chỉ còn có một đồng bạc vào tối thứ bảy trước đây khi anh biếu nó cho gia đình đang túng đói. Cho nên khi anh thấy đồng tiền vàng rơi ra khỏi cái gói bí mật đó vào sáng hôm sau thì anh cười lớn vì vui mừng! Anh đã chấp nhận rủi ro để xem thử lòng tin cậy nơi Chúa có linh nghiệm hay không thì anh thấy quả thật điều ấy linh nghiệm! Đồng tiền đến thật đúng lúc, và chỉ có Chúa mới biết ai đã gởi đến cho anh. Còn Hudson thì hoàn toàn không biết. Anh chỉ biết là nhờ lòng tin cậy Chúa mà anh không phải nhịn đói bữa nào, mặc dù rất có thể anh không đủ ăn. Anh cảm thấy giống như Ê-li khi mấy con quạ mang thức ăn đến cho ông!

Hudson đi từ nhà trọ, trong túi có đồng tiền vàng mà trong lòng phơi phới, “Thật linh nghiệm! Thật linh nghiệm!” Tin cậy Chúa thật linh nghiệm! Vâng lời Ngài cũng linh nghiệm! Thật là lạ lùng, vui thích, và sung sướng!

Tuy nhiên, anh biết món tiền ấy sẽ không kéo dài vô tận. Vấn đề còn lại vẫn là—lương anh ta chưa được trả. Ông bác sĩ vui tính và bận rộn có thể không nhớ việc trả lương cho anh suốt mấy tháng trời cũng chưa biết chừng. Câu hỏi đặt ra là, liệu Chúa có nhắc nhở ông ta không?

Mỗi ngày Hudson cầu xin Chúa nhắc ông bác sĩ, rồi anh tiếp tục hăng say làm việc và học hành, tin tưởng rằng sự việc sẽ xảy ra. Một tuần trôi qua, món tiền anh có càng vơi dần. Thanh toán tiền thuê nhà xong thì túi anh ta bị một lỗ hổng lớn. Tuy anh ta có đủ tiền tiêu cho đến thứ bảy—nhưng sau đó thì...

Tới thứ bảy rồi mà ông bác sĩ vẫn chẳng nói năng gì. Thì giờ trôi qua. Đến năm giờ, tất cả các bệnh nhân đã được chăm sóc xong thì ông bác sĩ bước vào phòng phát thuốc nơi Hudson làm việc, ngồi xuống ghế bành và mở đầu câu chuyện. Rõ ràng là ông ta không nhớ gì đến việc lương bổng. Hudson đang thận trọng trộn hóa chất trong nồi và không dám đá động gì đến việc ấy cả. Bỗng nhiên ông bác sĩ lên tiếng trước:

“Nầy, Taylor, hình như đến kỳ trả lương cho anh rồi phải không?” Hudson há hốc mồm kinh ngạc! Dù sao đi nữa, sự việc xảy ra thật đúng lúc. Một lần nữa khi anh chỉ còn đồng teng cuối cùng thì tiền tới! Anh nuốt nước miếng một hai lần trước khi khẽ đáp:

“Dạ đúng. Thật ra đáng lẽ tôi phải được trả cách đây hai ba tuần...”

Ông bác sĩ kêu lên, “Ồ, tôi thật bậy quá! Sao anh không nhắc tôi? Anh biết rằng tôi rất bận rộn. Đáng lẽ tôi phải nghĩ đến chuyện ấy sớm hơn một tí vì chiều nay tôi đã ký thác tất cả số tiền tôi có vào trong ngân hàng rồi. Nếu không thì tôi đã có thể trả ngay cho anh bây giờ.”

Tội nghiệp Hudson! Niềm thất vọng của anh ta thật quá sức chịu đựng. Chẳng khác nào một gáo nước lạnh đang tạt vào mặt anh. Cũng may là chất thuốc trộn trong nồi sôi lên, nên anh vội vàng mang nó ra khỏi phòng, mừng vì có cớ đi tránh mặt ông bác sĩ. Khi chỉ còn có một mình, anh quì gối xuống cầu nguyện. Sự chán nản thất vọng lên đến cực độ khiến anh không thể cầu nguyện. Lời cầu nguyện của anh một mặt chẳng có đầu đuôi gì những vẫn không kém phần nhiệt thành. Vài phút sau anh bình tĩnh lại. Thật ra anh lại cảm thấy hớn hở. Anh thầm hi vọng, Chúa chắc chắn giúp đỡ anh. Và mặc dù anh sẽ không có tiền để trả bà chủ nhà khi anh trở về phòng trọ, lòng anh vẫn không nao núng, lo âu.

Khi anh sắp rời phòng phát thuốc thì đã khuya. Kim đồng hồ chỉ mười giờ kém mười khi anh khoác áo ngoài vào. Anh nghĩ bụng, “Thôi thì khi mình về đến nhà thì bà chủ chắc đã đi ngủ rồi như vậy là chiều nay mình sẽ không gặp mặt bà ta để báo cho biết là mình không có tiền trả tiền nhà—thế mà hay!” Anh bước đến núm khóa hơi đốt sưởi ấm, định tắt nó đi thì anh nghe tiếng bước chân bên ngoài. Tiếng ấy là của ông bác sĩ. Ông ta đang cười vui vẻ như thể có chuyện gì hào hứng lắm.


Ông ta ngạc nhiên: “Ủa, anh Taylor. Anh còn ở đây sao? Anh biết không? Một bệnh nhân của tôi đến trả tiền cho tôi! Ông là một trong những bệnh nhân giàu có nhất của tôi. Ông ta có thể trả cho tôi bằng chi phiếu nhưng lại mang tiền mặt đến vào mười giờ tối thứ bảy để trả cho tôi!”

Hudson cười. Cái chuyện mà một người giàu có đến trả tiền cho bác sĩ vào thì giờ như thế nầy quả là chuyện khác thường. Cái gì ám ảnh ông ta như thế? Người ta thường thường ít khi mau chóng trong việc thanh toán tiền bạc!

Ông bác sĩ ghi số tiền vừa nói vào sổ và bắt đầu bước ra cửa thì bỗng nhiên ông quay lại.

Ông bảo, “Nhân thể, nầy anh Taylor. Anh có thể cầm hết số tiền nầy. Tôi không có tiền lẻ. Tuần sau tôi sẽ thanh toán hết số tiền lương tôi thiếu anh...Chào anh.”

Hudson đứng tần ngần đó, tay cầm một nắm giấy bạc, túi vẫn còn rỗng. Lời cầu nguyện của anh đã được nhậm. Không những bây giờ anh đã có tiền trả cho bà chủ nhà, mà anh còn có đủ tiền để chi tiêu trong nhiều tuần tới, nhưng anh lại thấy một lần nữa Chúa đã trả lời cầu nguyện! Không còn gì để ngờ vực nữa—anh có thể đi qua Trung Hoa.
Chương 3

CHỈ MỘT LỖ KIM ĐÂM NHỎ THÔI


Bà Finch, chủ nhà của Hudson ở Drainside, có chồng là một thủy thủ thường vắng nhà vì phải đi biển. Bà sống rất vất vả bằng số tiền trợ cấp nhỏ nhoi của ông ta cho nên bà rất mừng khi được một thanh niên phụ tá bác sĩ thuê gian phòng trước của nhà bà. Tiền thuê gian phòng đó đủ cho bà trả tiền thuê cho toàn thể căn nhà. Hơn nữa chàng thanh niên nầy không gây rắc rối gì cho bà cho nên bà cảm thấy may mắn có được một người thuê nhà tốt như thế! Mấy người thuê nhà trước kia thì không được đàng hoàng như anh cho nên hôm anh báo cho bà rằng anh sẽ thôi không thuê nhà nữa thì bà tỏ ra buồn rầu rõ rệt.

Anh giải thích, “Tôi sắp đi Luân đôn để theo học môn y khoa ở một bệnh viện.”


Bà nói, “Tôi rất buồn vì mất anh. Anh đi Luân đôn phải không...?” Bà nẩy ra một ý kiến.

Bà hỏi, “Trong khi anh ở đó, anh có thể giúp tôi một việc không?” Dĩ nhiên anh rất sẵn lòng nếu anh làm được. Sau đó bà nói rõ thêm. Văn phòng hàng hải ở Luân đôn mỗi tháng gởi cho bà phân nửa tiền lương của chồng bà. Nhưng họ khấu trừ tiền gởi vào đó. Nếu anh Taylor vui lòng lấy giùm số tiền đó từ văn phòng hàng hải rồi gởi thẳng cho bà thì anh sẽ tiết kiệm cho bà rất nhiều tiền.

Dĩ nhiên Hudson rất sẵn lòng nhưng khi anh đến Luân đôn thì mới khám phá rằng muốn giữ lời hứa anh phải lội bộ rất xa vào giữa trưa nóng. Mỗi sáng anh đã phải đi bộ sáu cây số từ nhà trọ đến bệnh viện, rồi lội bộ sáu cây số về nhà mỗi chiều cho nên anh đâu có cần tập thể dục thêm!

Việc đi lên Luân đôn để theo học lớp y khoa là một biến chuyển lớn cho anh. Anh đã tiếp xúc với một tổ chức truyền giáo nhỏ gọi là Hiệp Hội Truyền Giáo Trung Hoa. Họ sẵn sàng gởi anh sang Trung Hoa làm giáo sĩ. Vì được tổ chức nói trên chấp thuận cho nên bây giờ anh đang học thêm về nghề thuốc. Đây là một bước nữa hướng về phía vùng đất mà anh hằng ao ước cũng như việc anh đi đến tỉnh Hull. Đó là bước liều lĩnh mà anh không hề nói với ai.

Cái rủi ro cũng nằm trong việc thử nghiệm đức tin của anh và khả năng chịu đựng khốn khổ của anh. Cha anh có đề nghị giúp tiền đủ để anh sinh sống ở Luân đôn và theo học ngành thuốc; Hiệp hội Truyền giáo Trung Hoa cũng đề nghị giúp anh. Tuy nhiên sau khi xem xét mọi khía cạnh và cầu nguyện về những đề nghị ấy, anh quyết định không nhận sự giúp đỡ của bên nào cả. Anh cám ơn cha anh và thưa rằng anh chưa cần đến sự giúp đỡ của ông. Dĩ nhiên cha anh yên trí chắc anh đã được hội truyền giáo giúp rồi. Anh cám ơn ban giám đốc hội truyền giáo và bảo rằng anh chưa cần họ giúp. Họ cũng nghĩ có lẽ anh đã được cha anh giúp! Đến Luân đôn vào một ngày dầy đặc sương mù, trong túi chỉ có số tiền anh dành giụm được mà không hề biết sau khi tiêu hết số tiền ấy thì sẽ ra sao.
Anh quyết định học tập nhờ cậy Chúa đáp ứng mọi nhu cầu của anh. Anh cảm thấy phải sống cần kiệm. Anh được xếp đặt sống chung với một người bà con trong một phòng ngủ nơi gác xép ở vùng Soho. Anh vui vẻ nhận. Chẳng thà ở với một người bà con vui tính còn hơn ở một mình giữa thành phố lớn như thế nầy. Anh ta tự lo lấy thức ăn và anh sống thật cần kiệm! Sau khi thử nhiều món thì anh nhận thấy rằng bánh mì nâu và táo tây với nước lạnh là thực đơn ít tốn kém nhất. Cho nên trên đường đi đến bệnh viện anh mua một cân táo để ăn, và trên đường về khi đi ngang qua các cửa hàng ăn phát ra mùi thơm phức thì anh ghé lại hàng bánh để mua bánh mì nâu.

Anh ta bảo người bán, “Ông làm ơn cắt ổ bánh mì làm đôi được không?” Và rồi tay ôm ổ bánh cắt làm đôi, anh tiếp tục con đường dài về nhà, rồi trèo lên ba loạt thang để vào phòng. Nửa ổ bánh dùng để ăn chiều, nửa ổ kia để dành ăn sáng ngày mai—mặc dù đói đến đâu cũng ráng chịu.


Anh viết thư trấn an mẹ anh vì bà rất lo ngại cho anh: “Sức khoẻ của con không bị thiệt hại gì mẹ đừng lo.” Vì bà chẳng biết anh có ăn uống đầy đủ không? Nhưng nếu bà biết sự thật thì...Anh viết thêm, “Thật ra có nhiều người nói con trông khoẻ mạnh, vài người lại bảo con mập là khác! Mặc dù có lẽ đó là do trí tưởng tượng của họ thôi!” Tính chân thật buộc anh phải thêm câu ấy.

Khoảng ba tháng sau khi đến Luân đôn thì anh nhận một bức thư khẩn từ bà Finch. Bà hỏi anh lấy giùm tiền cho bà càng sớm càng tốt được không? Gần đến kỳ phải thanh toán tiền thuê nhà mà bà thì không có tiền để trả.


Lời yêu cầu của bà đến nhằm lúc thật kẹt cho Hudson vì anh đang bận học thi nên phải dành từng phút để ôn bài vở. Cho nên thay vì tìm thì giờ để đi xuống Cheapside lấy tiền giùm bà, anh nghĩ tốt hơn nên dùng số tiền đang vơi dần của anh gởi cho bà rồi sẽ đến văn phòng hàng hải lấy lại sau khi anh thi xong. Nghĩ sao làm vậy mà anh không lường trước hậu quả. Vì khi anh có thì giờ đi xuống văn phòng hàng hải thì họ bảo anh không thể nào lấy tiền ra được!
Viên thư ký bảo, “Sĩ quan Finch đã bỏ tàu và đi tìm vàng...”
Hudson sửng sốt kêu lên, “Thế là kẹt cho tôi rồi! Tôi đã ứng trước tiền cho bà vợ ông ta! Bây giờ bà ta không có cách nào trả lại cho tôi. Ông thấy rõ chưa?”
Người thư ký đáp, “Tôi thật rất tiếc.” Nhưng ông ta không thể làm gì được cho nên Hudson đành ra về.

Sau cú sững sờ đầu tiên, anh cảm thấy lo âu thực sự. Tuy anh nghĩ rằng phải nhờ cậy Chúa cung cấp mọi điều cần dùng khi tiền của anh cạn. Việc nầy khiến việc rỗng túi càng đến sớm hơn. Thật vậy, sau khi kiểm điểm tiền còn lại anh thấy rằng hết tiền là chuyện xảy ra trong nay mai. Nhưng khi nhớ lại kinh nghiệm ở Drainside khiến anh phấn khởi nên anh trở về gác trọ mà lòng cảm thấy tuơi vui vì tin rằng mọi việc rồi sẽ đâu vào đó.



tải về 0.86 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương